"Mối nguy hiểm là ở chỗ vào những lúc bị khủng hoảng
chúng ta tìm kiếm một vị cứu tinh"
(tiếp theo hôm qua)
Vấn: Đối với thành phần truyền thống nhất, thì bất cứ thay đổi nào, thậm chí chỉ thay đổi về ngôn từ, cũng chỉ là phản bội. Còn ở cực bên kia, thậm chí đối với những ai chưa bao giờ tha thiết với đức tin Công Giáo, thì chẳng có thay đổi nào là đủ hết. Chính Đức Thánh Cha đã nói rằng hết mọi sự đã được viết về yếu tính của Kitô giáo. Vậy thì phải chăng chúng ta đang nói về một thứ cách mạng tình trạng bình thường?
Đáp: Tôi luôn cố gắng - tôi không biết tôi có luôn thành công hay chăng - để làm những gì Phúc Âm nói. Đó là những gì tôi cố gắng. Tôi là một tội nhân và không luôn thành đạt, nhưng đó là những gì tôi cố gắng. Lịch sử của Giáo Hội chưa từng được lèo lái bởi các thần học gia, hay các vị linh mụd, hoặc các nữ tu, hay các vị giám mục. .. Có thể một phần nào thôi, nhưng những vị anh hùng thực sự của Giáo Hội là các thánh nhân. Tức là những con người nam nữ này cống hiến đời mình để làm cho Phúc Âm trở thành hiện thực. Họ là những con người đã cứu chúng ta: những vị thánh. Đôi khi chúng ta nghĩ rằng một vị thánh là một nữ tu nhìn lên trời và tròn xoe đôi mắt. Các vị thánh là những tấm gương rõ ràng về Phúc Âm trong cuộc sống hằng ngày! Khoa thần học mà các bạn học được từ đời sống của một vị thánh thì bao la. Chắc chắn là cần phải có các thần học gia và các vị mục tử. Họ là một phần của Giáo Hội. Thế nhưng chúng ta cần phải trở về với Phúc Âm. Ai là sứ giả khá nhất của Phúc Âm? Các thánh nhân. Các bạn sử dụng chữ "cách mạng". Đó là một cuộc cách mạng! Tôi không phải là một thánh nhân. Tôi chẳng thực hiện một cuộc cách mạng nào. Tôi chỉ cố gắng đẩy Phúc Âm về phía trước. Một cách bất toàn, vì tôi thực hiện những cái ngớ ngẩn của tôi hết lần này đến lần khác.
Vấn: Đức Thánh Cha có tin rằng nhiều tín hữu Công giáo có thể cảm thấy một cái gì đó giống như một hội chứng về người anh em của người con hoang đàng, và có thể nghĩ rằng Đức Thánh Cha chú trọng đến những ai xa lìa hơn là những ai vẫn còn trung thành tuân giữ các điều luật của Giáo Hội? Con nhớ là ở một trong những chuyến tông du của Đức Thánh Cha, một phóng viên người Đức đã hỏi Đức Thánh Cha rằng tại sao Đức Thánh Cha không bao giờ nói về thành phần trung lưu, về những ai phải trả thuế...
Đáp: Có hai vấn đề được đặt ra ở đây. Hội chứng về người con cả: Tôi biết rằng những ai cảm thấy thoải mái trong một cấu trúc Giáo Hội không đòi hỏi họ quá nhiều, hay những ai có các thái độ bảo vệ họ khỏi quá nhiều giáo tiếp bên ngoài, sẽ cảm thấy không dễ dàng gì với bất cứ đổi thay nào, với bất cứ dự tính nào xuất phát từ Phúc Âm. Tôi thích nghĩ về một vị chủ nhân của cái khách sạn mà người Samaritano đem nạn nhân bị bọn cướp đánh giật dọc đường. Người chủ này đã biết được câu chuyện, người Samaritanô đã nói với ông ta: một tư tế đi ngang qua, nhìn đồng hồ, thấy rằng ông ta lên đền thờ trễ nên bỏ nạn nhân ở đó, ông ta không muốn bị vấy máu vì là điều làm ông ngăn trở việc hành lễ theo luật. Một vị luật sĩ đi ngang qua, nhìn thấy thì nói: "Tôi chớ có nhúng tay vào, kẻo bị trễ, ngày mai tôi phải làm chứng ở tòa án và... Thôi tốt hơn đừng đụng tới". Như thể sinh ra ở Buenos Aires, vị này quay lưng đi bằng câu nói quen thuộc ở thành phố này: "Đừng có mà pha mình vào". Thế rồi sau đó xuất hiện một người không phải Do Thái, mà là dân ngoại, là một tội nhân, được coi như là cặn bã của trái đất này, nhưng người này lại động lòng thương trước cảnh khốn khổ của nạn nhân và đã giúp vực dậy nạn nhân. Người chủ khách sạn quá sức là bàng hoàng vì đó là những gì bất thường.
Cái mới mẻ của Phúc Âm là những gì lạ lùng vì nó thực sự là những gì chướng hại. Thánh Phaolô nói với chúng ta về cái gương mù của thập tự giá, cái gương mù về Người Con Thiên Chúa hóa thân làm người. Nó là một thứ gương mù tốt đẹp, vì Chúa Giêsu lên án điều gây tổn thương đến cả trẻ em nữa. Thế nhưng cái yếu tính của Phúc Âm trở thành gương mù trước những tiêu chuẩn ở những thời điểm ấy. Trước bất cứ một tiêu chuẩn trần thế nào thì nó là một thứ yếu tính chướng hại. Bởi thế mà hội chứng đứa con cả là thứ hội chứng của bất cứ ai quá ổn định ở trong Giáo Hội, người có được những ý nghĩ rõ ràng về hết mọi sự, người biết những gì cần phải làm nhưng không muốn nghe những bài giảng lạ. Đó là những gì cho thấy về những vị tử đạo của chúng ta: các vị đã hiến mạng sống mình vì rao giảng một điều gì đó đảo lộn.
Đó là vấn đề thứ nhất của bạn. Đối với vấn đề thứ hai: tôi đã không muốn trả lời cho người phóng viên Đức ấy ngay, nhưng tôi bảo anh ta rằng: tôi sẽ suy nghĩ về nó, bạn có thể đúng một cách nào đó... Tôi luôn nói về thành phần trung lưu, cho dù không đề cập đến nó. Tôi sử dụng một từ ngữ được tiểu thuyết gia Malègue người Pháp tạo ra về "thành phần trung lưu thánh thiện". Tôi luôn nói về các vị phụ huynh, ông bà, y tá, thành phần sống để phục vụ người khác, những người nuôi dưỡng con cái của mình, những người đi làm việc... Những con người này thật là thánh đức! Và họ cũng là những ai đưa Giáo Hội tiến lên: những con người kiếm sống một cách xứng đáng, những con người nuôi dưỡng con cái, những con người chôn xác kẻ chết, những con người chăm sóc cho thân nhân già lão của mình thay vì đưa các vị vào một nhà dưỡng lão: đó là thành phần trung lưu thánh thiện của chúng ta.
Theo quan điểm về kinh tế, những ngày này thành phần trung lưu càng có khuynh hướng biến khuất, và xẩy ra nguy cơ là chúng ta sẽ ẩn nấp vào những thứ hạng động ý hệ của chúng ta. Thế nhưng, "thành phần trung lưu thánh đức" ấy: người làm cha, người làm mẹ chắm sóc cho gia đình của họ, với các tội lỗi của họ và nhân đức của họ, người làm ông, người làm bà, lấy gia đình làm chính, đó là "thành phần trung lưu thánh đức". Đó là một minh thức cao cả nơi Malègne, người viết một câu thật là ấn tượng. Ở một trong những cuốn tiểu thuyết của mình là Augustine, một người vô thần hỏi rằng: "Thế nhưng ông có tin rằng Giêsu Kitô là Thiên Chúa hay chăng?" Vấn đề được đặt ra là: Ông có nghĩ rằng con người Nazarét này là Thiên Chúa hay chăng? Câu trả lời của vai chính trong câu chuyện là: "Đối với tôi, đó không phải là vấn đề, vấn đề là ở chỗ Thiên Chúa phải chăng đã không trở thành Đức Kitô". Đó là "thành phần trung lưu thánh đức".
Vấn: Tâu Đức Thánh Cha, Đức Thánh Cha đã đề cập đến những thứ hang động ý hệ. Đức Thánh Cha muốn nói gì ở chỗ này? Đâu là những quan tâm của Đức Thánh Cha về vấn đề này?
Đáp: Đó không phải là một mối quan tâm. Tôi đang nói đến các sự kiện. Người ta luôn cảm thấy thoải mái nơi cái hệ thống ý hệ do họ tạo nên cho mình, vì nó là những gì trừu tượng.
Vấn: Phải chăng nó đã gia tăng trong những năm gần đây?
Đáp: Nó luôn hiện hữu. Tôi không nói rằng nó đã từng gia tăng, cũng có nhiều bất đồng liên quan đến lời phát này. Tôi nghĩ rằng đã xẩy ra sự phân cựu hơn vào giai đoạn trước Thế Chiến Thứ Hai. Tôi nghĩ thế. Tôi không nghĩ đến nó nhiều. Tôi đang ghép các thứ lại với nhau... Trong một nhà hàng của đời sống, bạn bao giờ cũng có nhiều món ý hệ. Bạn có lẽ bao giờ cũng tựa vào nó. Chúng là những nơi trú ẩn ngăn ngừa bạn khỏi liên hệ với thực tại.
Vấn: Thưa Đức Thánh Cha, trải qua những năm này, trong các chuyến tông du của Đức Thánh Cha, chúng con thấy Đức Thánh Cha tỏ ra cảm động bởi những người khác, trái lại, Đức Thánh Cha cũng làm cho nhiều người nghe Đức Thánh Cha cảm động... Có 3 trường hợp cụ thể: một ở Lampedusa, khi Đức Thánh Cha đặt vấn đề là chúng ta có khóc với những người phụ nữ bị mất đi con cái của mình nơi biển cả hay chăng; ở Sardinia, khi Đức Thánh Cha nói về vấn đề thất nghiệp và những nạn nhân của một guồng máy tài chính toàn cầu; ở Phi Luật Tân, về thảm trạng của trẻ em bị khai thác lạm dụng. Giáo Hội có thể làm gì về vấn đề này, những gì đang được thực hiện, và những gì đang được các chính phủ làm?
Đáp: Cái biểu hiệu tôi đề ra cho văn phòng Di Trú mới - tôi đã trực tiếp tiếp quản phân bộ Di Trú và Tỵ Nạn có hai văn phòng thành cấu trúc mới này - là một chiếc áo cứu đắm mầu cam, như những chiếc tất cả chúng ta đều biết. Trong một buổi triều kiến chung, có một nhóm người hoạt động để cứu những người tỵ nạn ở Địa Trung Hải. Tôi đang băng ngang qua, chào hỏi dân chúng, thì một nam nhân có một trong những áo này trong tay và anh ta bắt đầu la lên trên vai của tôi mà khóc: "Con đã không thể làm được điều ấy, con đã không cứu được bé gái ấy kịp thời, con đã không thể làm được điều ấy". Và khi lắng đọng xuống một chút anh ta đã nói với tôi rằng: "Bé ấy chưa đầy 4 tuổi. Bé đã chìm xuống. Con xin trao lại áo này cho Đức Thánh Cha". Đó là biểu hiệu của cái thảm trạng chúng ta đang sống.
Vấn: Các chính quyền có động đậy gì về trường hợp này hay chăng?
Đáp: Mọi người đều làm những gì có thể hay những gì họ muốn làm. Rất khó đế đưa ra phán quyết. Chắc chắn một điều sự kiện Địa Trung Hải đã trở thành một bãi tha ma là những gì cần phải suy nghĩ.
Vấn: Đức Thánh Cha có cảm thấy rằng đường lối mà Đức Thánh Cha vươn tới các bờ mép, tới những ai khổ đau và xa lạc, là một thái độ đáng đón nhận, khi thấy nó được kèm theo bởi một động lực có lẽ quen với một nhịp bước rất khác biệt? Đức Thánh Cha có cảm thấy rằng Đức Thánh Cha và Giáo Hội đi ở một nhịp bước khác nhau hay chăng? Đức Thánh Cha có cảm thấy được nâng đỡ hay chăng?
Đáp: Tôi nghĩ rằng, may mắn thay, chung chung có những đáp ứng tốt, rất tốt. Khi tôi xin các giáo xứ và các học đường ở Roma chấp nhận những người di dân thì nhiều người nói rằng sẽ bị thất bại. Nhưng không đúng! Không thất bại tí nào! Đa số các giáo xứ ở Roma, khi họ không có nhà lớn hay họ có một phòng rất nhỏ thì họ có các giáo dân của họ thuê một căn chung cư cho một gia đình di dân. Ở các học đường dòng nữ, khi nào có phòng thì họ đón nhận một gia đình di dân... Câu trả lời đó là chúng tôi đã thực hiện được nhiều hơn các bạn biết nữa, vì chúng tôi không hề quảng cáo điều này. Vatican có hai giáo xứ và mỗi giáo xứ đều có một gia đình di dân. Một căn chung cư ở Vatican cho một gia đình, căn khác cho gia đình khác. Việc đáp ứng liên tục xẩy ra. Không phải là trăm phần trăm, tôi không biết tỷ lệ là bao nhiêu, tôi nghĩ có lẽ là 50%.
Thế rồi đến vấn đề hội nhập. Mỗi một người di dân tạo nên một vấn đề rất nghiêm trọng. Họ thoát chạy khỏi xứ sở của họ, vì đói hay vì chiến tranh. Họ bị khai thác. Chẳng hạn Phi Châu: Phi Châu là biểu hiệu cho tình trạng bị khai thác. Thậm chí có được độc lập chăng nữa thì ở một số xứ sở họ chỉ là chủ nhân đất đai của họ ở bề mặt thôi chứ không phải ở dưới lòng đất (biệt chú của người dịch: ở đây ĐTC có thể ám chỉ đến tình trạng những đất nước này bị các nước tân tiến về kỹ nghệ khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên của họ ở dưới lòng đất). Bởi thế họ luôn bị sử dụng và làm dụng ...
Chính sách tiếp nhận người di dân có một vài giai đoạn. Có giai đoạn khẩn cấp: các bạn cần phải đón nhận họ, bằng không họ sẽ chết chìm. Điển hình là Ý và Hy Lạp. Thậm chí hiện nay, Ý quốc, cho dù có gặp đủ thứ vấn đề gây ra bởi động đất, vẫn tiếp tục cung cấp việc chăm sóc. Họ đến Ý dĩ nhiên là vì Ý là bến bờ gần nhất. Tôi nghĩ họ cũng đến cả Tây Ban Nha qua ngả Ceuta. Thế nhưng thay vì ở lại Tây Ban Nha thì họ hầu hết có khuynh hướng lên miền bắc để tìm kiếm những cơ hội tốt đẹp hơn.
(còn tiếp)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch.
2017-01-23 21:07 GMT-08:00 Tinh Cao <daminhmariacaotantinh@gmail.c om [2]>:
"Mối nguy hiểm là ở chỗ vào những lúc bị khủng hoảng
chúng ta tìm kiếm một vị cứu tinh"
Đức Thánh Cha Phanxicô trả lời cuộc phỏng vấn dài 1 tiếng 15 phút hôm 20/1/2017 ở Nhà Trọ Matta, về nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến thế giới, đến Hoa Kỳ, đến Âu Châu, đến Giáo Hội cũng như đến chính bản thân của ngài, do nhật báo El Pais Tây Ban Nha thực hiện qua hai phóng viên Pablo Ordaz và Antonio Canõ, và cuộc phỏng vấn hào hứng ấy đã được tờ nhật báo này phổ biến hôm Chúa Nhật 22/1/2017.
Vấn: Tâu Đức Thánh Cha, sau gần 4 năm ở Vatican, cái gì không còn nơi một vị linh mục đến Roma từ Buenos Aires bằng một cái vé khứ hồi trong túi của mình?
Đáp: Ngài vẫn là một vị linh mục đường phố. Vì ngay khi có thể, tôi vẫn ra ngoài đường phố để chào hỏi dân chúng ở những buổi triều kiến chung, hay khi tôi đang du hành... đặc tính của tôi không hề thay đổi. Tôi không nói rằng đó là một điều được thận trọng cân nhắc: nó đã từng là một tiến trình tự nhiên. Thật là không đúng chút nào khi các bạn đến đây các bạn cần phải thay đổi. Việc thay đổi là những gì trái tự nhiên. Thay đổi ở vào tuổi 76 giống như chuyện trang điểm. Có lẽ tôi không thể nào làm được hết mọi sự tôi muốn, nhưng cái hồn sống đường phố của tôi vẫn còn đó, và các bạn có thế thấy được nó.
Vấn: Vào những ngày cuối cùng làm giáo hoàng của mình, Đức Benedict XVI đã nói về những năm cuối cùng của mình với tư cách là vị lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo: "Những giòng nước chảy đục ngầu mà Thiên Chúa thì dường như thiếp ngủ". ĐTC có cũng cảm thấy cái lẻ loi cô độc ấy hay chăng? Phải chăng hàng giáo phẩm của Giáo Hội đang thiếp ngủ trước những vấn đề của dân chúng, cả mới lẫn cũ?
Đáp: Trong hàng giáo phẩm của Giáo Hội, hay trong số các tác nhân mục vụ của Giáo Hội Công Giáo (giám mục, linh mục, nữ tu, giáo dân), tôi cảm thấy lo sợ hơn về những ai bị tê mê hơn là những ai thiếp ngủ. Tôi đang nói về những ai bị tê mê bởi những công chuyện trần thế. Họ đang đắt hàng với những gì là trần thế. Đó là những gì làm tôi lo ngại. Hết mọi sự dường như lắng đọng, hết mọi sự dường như tĩnh lặng, hết mọi sự đang diễn tiến ngon lành... có quá nhiều thủ tục. Khi các bạn đọc Sách Tông Vụ, đọc các Thư của Thánh Phaolô, các bạn thấy được những gì là hỗn độn, thấy có những trục trặc, thấy dân chúng vẫn tiến bước. Biến chuyển xẩy ra và việc giao tiếp với dân chúng được thực hiện. Một con người tê mê (an anesthetized person) là thành phần không giao tiếp với dân chúng. Họ tự bảo vệ bản thân mình trước thực tại. Họ bị tê mê. Ngày nay có rất nhiều các thức gây mê bản thân mình trước cuộc sống hằng ngày phải không? Có lẽ cái bệnh nguy hiểm nhất đối với một vị mục tử đó là chứng bệnh được sản xuất bởi thuốc tê, và đó là chủ nghĩa duy giáo quyền. Tôi thì ở đây và dân chúng thì ở kia. Thế nhưng bạn là vị mục tử của những con người đó! Nếu bạn không coi sóc những người ấy, nếu bạn bỏ cuộc không chăm sóc cho những người ấy thì bạn cần phải thu đồ về hưu cho rồi.
Vấn: Phải chăng một phần nào đó của Giáo Hội Công Giáo đang bị tê mê?
Đáp: Nó là một nguy cơ mà tất cả chúng ta đang gặp phải. Nó là một mối nguy hiểm, nó đang là một chước cám dỗ nghiêm trọng. Bị tê mê là những gì xẩy ra một cách dễ dàng.
Vấn: Nó là một đời sống tốt đẹp hơn, một đời sống thoải mái hơn.
Đáp: Đó là lý do tại sao thà có những con người thiếp ngủ còn hơn, tôi lo âu về những ai đang bị tê mê gây ra bởi tinh thần thế tục. Một thứ thế tục thiêng liêng. Tôi luôn bị ấn tượng bởi sự kiện là Chúa Giêsu Kitô, trong bữa tối cuối cùng, khi Người cầu cùng Cha của Người cho các môn đệ của Người, Người không xin Cha "giữ họ cho khỏi lỗi Điều Răn Thứ Năm, khỏi giết người, cho khỏi lỗi Điền Răn Thứ Bảy, khỏi trộm cắp". Không, Người xin Cha "gìn giữ họ khỏi các sự dữ của thế gian, giữ họ khỏi thế gian". Tinh thần thế tục gây ra một thứ tác dụng tê liệt. Khi điều đó xẩy ra thì vị mục tử trở thành một người tôi tớ dân sự. Và đó là chủ nghĩa duy giáo quyền, một thứ sự dữ tệ hại nhất có thể đang ảnh hưởng đến Giáo Hội ngày nay.
Vấn: Những thứ trục trặc mà Đức Benedict XVI phải đương đầu vào cuối giáo triều của ngài, và những điều đó được đựng trong một cái hộp trắng ngài trao cho ĐTC ở Castel Gandolfo, chúng là những gì vậy?
Đáp: Một mẫu rất bình thường về đời sống hằng ngày trong Giáo Hội bao gồm các vị thánh và các tội nhân, người chân thành và người gian manh. Hết mọi sự đều có ở trong đó! Có những người bị đặt vấn đề và đã tỏ ra trong sạch, có những nhân viên .... Vì ở đó, trong Giáo Triều Roma, có một số vị thánh thực sự. Tôi muốn nói lên điều này. Chúng ta cũng quá dễ dàng nói đến mức độ băng hoại ở Giáo Triều Roma. Có những con người băng hoại. Thế nhưng cũng có nhiều vị thánh. Nhiều người đã sống cả đời mình để phục vụ dân chúng một cách ẩn dật, đằng sau cái bàn, hay bằng cuộc trao đổi, hoặc bằng việc nghiên cứu... Ở đó có những vị thánh và tội nhân. Hôm ấy, điều làm tôi ấn tượng nhất đó là trí nhớ của Đức Benedict thánh hảo. Ngài nói: "Này, đây là những hồ sơ về các vụ kiện tụng ở trong cái hộp này". "Và đây là phán quyết về tất cả những cá nhân. Người này bị bấy nhiêu". Ngài đã nhớ hết mọi sự. Ngài vẫn còn như thế.
Vấn: Về sức khỏe ngài có cảm thấy được hay chăng?
Đáp: Cái đầu của ngài vẫn tốt. Vấn đề của ngài là cặp giò của ngài. Ngài cần được giúp để bước đi. Ngài có một trí nhớ đồ sộ, thậm chí một cách nhịp nhàng. Tôi có thể nói một điều nào đó nhưng ngài lại bảo rằng: "Không, không phải là năm đó, mà là năm khác".
Vấn: Đâu là những quan tâm chính yếu của ĐTC liên quan đến Giáo Hội và đến chung thế giới?
Đáp: Liên quan đến Giáo Hội, tôi xin nói là tôi hy vọng rằng Giáo Hội không bao giờ ngừng gần gũi với dân chúng. Một Giáo Hội không gần gũi với dân chúng thì không phải là một Giáo Hội. Mà là một NGO (Non-Governmental Organization) cơ quan phi chính phủ tốt. Hay là một tổ chức đạo đức được làm nên bởi những con người tốt lành gặp gỡ nhau uống trà và hoạt động bác ái... Cái dấu mốc của Giáo Hội là sự cận kề của Giáo Hội. Tất cả chúng ta là Giáo Hội. Bởi thế, vấn đề chúng ta cần phải tránh đó là đánh mất đi sự gần gũi ấy. Trở thành gần gũi đó là chạm tới, chạm tới Chúa Kitô bằng huyết nhục nơi tha nhân của các bạn. Khi Chúa Giêsu nói với chúng ta chúng ta sẽ bị phán xét ra sao, ở Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 25, Người luôn nói về việc vươn tới tha nhân của các bạn: Ta đói, Ta bị ngục tù, Ta bị bệnh.... Bao giờ cũng phải cận kề với các nhu cầu của tha nhân các bạn. Không phải chỉ là bác ái. Còn nhiều hơn thế nữa.
Còn đối với những gì làm tôi lo âu về thế giới thì đó là chiến tranh. Chúng ta đã có Thế Chiến Thứ Ba rồi từng chút một và từng mảnh một. Gần đây lại còn nói đến chuyện một chiến tranh nguyên tử có thể xẩy ra nữa, như thể nó là một ván bài: họ đang chơi bài với nhau. Đó là điều quan tâm lớn nhất của tôi. Tôi lo âu về tình trạng bất quân bình về kinh tế trên thế giới này, ở chỗ, một nhóm nhỏ con người ta nắm trong tay 80% cái giầu thịnh của thế giới, với tất cả những gì bao hàm trong đó cho một thứ tương lai về tiền tệ coi trọng tiền tệ như một vị thần linh thay vì con người nam nữ. Bởi thế mới có thứ văn hóa sa thải.
Vấn: Tâu Đức Thánh Cha, trở về với các vấn đề của hoàn cầu Đức Thánh Cha vừa đề cập tới, Ông Donald Trump giờ đây mới tuyên thệ làm tổng thống của Hiệp Chủng Quốc, và toàn thế giới vì thế trở nên căng thẳng. Đức Thánh Cha nghĩ sao?
Đáp: Tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải chờ xem. Tôi không thích đoán bừa đi cũng không thích phán đoán người ta một cách bất khôn. Chúng ta sẽ thấy cách thức ông ta tác hành, những gì ông ta làm, sau đó tôi mới có ý kiến. Thế nhưng tỏ ra lo sợ hay hân hoan ngay từ trước vì một điều gì đó có thể xẩy ra thì theo tôi là hoàn toàn bất khôn. Nó giống như các vị tiên tri tiên đoán các thứ tai ương hay những điều may mắn bất ngờ không xẩy ra vậy. Chúng ta sẽ thấy những gì ông ta làm và sẽ theo đó mà phán xét. Bao giờ cũng phải làm việc một cách rõ ràng. Kitô giáo một là rõ ràng hai là không phải là Kitô giáo.
Điều đáng chú ý là lạc thuyết đầu tiên trong Giáo Hội đã xẩy ra ngay sau cái chết của Chúa Giêsu Kitô, đó là lạc thuyết bất khả thần tri, bị tông đồ Gioan lên án. Nó là cái tôi gọi là một thứ tính chất tôn giáo sơn phết, một thứ tôn giáo không rõ ràng... không có gì là cụ thể. Không, không phải thế. Chúng ta cần rõ ràng minh bạch. Rồi từ cái minh bạch này chúng ta mới có thể rút ra những thành quả. Chúng ta đang mất đi cái cảm giác của mình về những gì là cụ thể. Có lần một tư tưởng gia đã nói với tôi rằng thế giới này bị đảo lộn đến độ nó cần một điểm nhất định. Những điểm ấn định ấy xuất phát từ các hành động cụ thể. Các bạn đã làm gì, các bạn quyết định điều chi, các bạn đã thực hiện những chuyển biến nào? Đó là lý do tôi thích đợi xem.
Vấn: Đức Thánh Cha có lo âu về những điều chúng ta đã nghe thấy cho tới lúc này hay chăng?
Đáp: Tôi vẫn đang chờ xem. Thiên Chúa đã chờ đợi tôi quá lâu, với tất cả tội lỗi của tôi...
(còn tiếp)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch