Một điềm thiêng dấu lạ cả thể nhất ngoài lòng mong ước của dân Do Thái
Bài Đọc I: (Năm I) Xh 14, 5-18
Đáp Ca: Xh 15, 1-2. 3-4. 5-6
Phúc Âm: Mt 12, 38-42
Theo thói quen cũng là khuynh hướng chung của dân tộc Do Thái là dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn cách riêng trong tất cả mọi dân nước trên thế giới, thì họ là một dân tộc thích điềm thiêng dấu lạ, đến độ, có thể nói, điềm thiêng dấu lạ được coi là nền tảng đức tin của họ, ở chỗ, phải có điềm thiêng dấu lạ mới đáng tin.
Khuynh hướng và thói quen đòi điềm thiêng dấu lạ này nơi dân Do Thái cũng dễ hiểu, bởi vì trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, họ luôn được chứng kiến thấy những điềm thiêng dấu lạ này, được chính Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ tỏ ra để làm cho họ tin vào Ngài, nhất là những lúc họ bị đô hộ hay đầy ải bởi ngoại bang.
Đó là lý do chúng ta thấy Thánh Ký Mathêu trong bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần XVI Thường Niên có sự kiện được ngài ghi nhận rằng: "Khi ấy, có mấy luật sĩ và biệt phái thưa cùng Chúa Giêsu rằng: 'Lạy Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ'".
Thật ra, chính thành phần xin Chúa Giêsu xem thấy điềm thiêng dấu lạ từ Người và bởi Người để chứng minh Người quả thực là Đấng Thiên Sai này đã từng thấy Người làm phép lạ chữa lành hay trừ quỉ rồi, thế nhưng họ vẫn chưa chịu, vẫn chưa công nhận Người, đến độ, họ còn phủ nhận Người và xuyên tạc quyền phép vô địch của Người nữa, như có lần thấy Người trừ quỉ xong họ liền cho rằng Người đã dùng quyền của quỉ cả mà khu trừ quỉ con (xem Mathêu 12:24).
Vậy thì điềm thiêng dấu lạ mà họ muốn thấy nơi Chúa Giêsu Kitô đây là gì và như thế nào? Phải chăng là việc Người có thể "xuống khỏi thập giá thì chúng ta tin" (Mathêu 27:42). Nhưng Người lại không làm theo ý của họ, bởi vì làm như thế thì Người, dù có thể, hoàn toàn không phải là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa, đến để làm theo ý Cha chứ không phải theo ý của Người (xem Gioan 6:38), mà chỉ là Đấng Thiên Sai của họ và đối với họ, như một vị cứu tinh dân tộc theo chính trị của họ như lòng họ mong muốn mà thôi, chứ không phải là cứu cả họ lẫn các dân tộc trên thế giới này khỏi tội lỗi và sự chết đời đời.
Đó là lý do trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu chỉ hứa ban cho họ một dấu lạ duy nhất, dấu lạ liên quan đến phần rỗi của chung loài người, trong đó bao gồm cả dân do Thái, đó là "dấu lạ tiên tri Giona", ám chỉ cuộc Vượt Qua của Người: "cũng như xưa tiên tri Giona ở trong bụng cá ba đêm ngày thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba đêm ngày như vậy", một cuộc Vượt Qua bao gồm cả cuộc khổ nạn và tử giá vô cùng đau thương và nhục nhã do chính họ gây ra cho Người, và cuộc phục sinh vinh hiển của Người, chứng tỏ Người đã chiến thắng tội lỗi và sự chết của chung con người mắc nguyên tội và của riêng thành phần đã nhúng tay vào cuộc khổ giá của Người nói riêng.
Một khi công ơn cứu chuộc được hoàn tất bởi cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô thì không còn một điềm thiêng dấu lạ nào vĩ đại hơn và quan trọng hơn để cho con người tin mà được cứu độ: "ai tin và chịu phép rửa thì sẽ được cứu rỗi, còn ai không tin thì bị luận phạt" (Marco 16:16), đúng như những gì Chúa Giêsu cũng đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Tới ngày phán xét, dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và lên án nó, vì họ đã nghe lời tiên tri Giona mà sám hối tội lỗi, nhưng đây có Đấng cao trọng hơn Giona. Đến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và lên án nó: vì bà từ biên thùy trái đất đã đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, nhưng đây có Đấng cao trọng hơn Salomon".
Bài đọc 1 hôm nay là những gì chứng thực cho chúng ta thấy hiển nhiên nhận định trên đây về dân Do Thái liên quan đến lý do tại sao họ có thói quen và khuynh hướng thích điềm thiêng dấu lạ. Bởi vì, trong bài đọc này, chúng ta thấy Thiên Chúa đã ra tay cứu họ khỏi lực lượng hùng hậu của quân Ai Cập đang rượt theo để bắt giữ họ lại, không cho họ xuất Ai Cập.
"'Sao chúng ta lại để dân Israel ra đi, còn ai phục dịch chúng ta nữa?' Vua chuẩn bị xe và đem toàn quân đi với mình. Vua đem theo sáu trăm xe hảo hạng và tất cả loại xe trong xứ Ai-cập, cùng các vị chỉ huy toàn thể quân đội... Lúc Pharaon đến gần, con cái Israel ngước mắt lên thấy quân Ai-cập đuổi theo mình. Họ quá khiếp sợ ... Chúa phán cùng Môsê rằng: 'Có gì mà kêu đến Ta? Hãy bảo con cái Israel cứ lên đường. Còn ngươi đưa gậy lên và giơ tay trên biển, hãy phân rẽ biển ra, cho con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn. Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai-cập ra chai đá, chúng sẽ rượt theo sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ tỏ vinh quang cho Pharaon, toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy biết. Người Ai-cập sẽ biết Ta là Chúa khi Ta tỏ vinh quang cho Pharaon?, chiến xa và kỵ binh của vua ấy'".
Ngay ở trong việc cứu dân Do Thái bằng cách tiêu diệt quân Ai Cập, như được bài đọc 1 năm lẻ hôm nay thuật lại đây, cũng cho thấy Thiên Chúa không phải chỉ cứu dân Do Thái mà cứu cả dân ngoại Ai Cập nữa, không phải chỉ ở chỗ cứu phần xác (dân Do Thái) mà cứu phần hồn của họ, bằng cách làm cho họ, kể cả quân Ai Cập (cho dù có bị chết về phần xác), đều nhận biết Ngài: "Bấy giờ Ta sẽ tỏ vinh quang cho Pharaon, toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy biết. Người Ai-cập sẽ biết Ta là Chúa khi Ta tỏ vinh quang cho Pharaon, chiến xa và kỵ binh của vua ấy".
Bài Đáp Ca hôm nay không được trích từ Thánh Vịnh như thường xẩy ra, mà lại được trích từ chính Sách Xuất Hành, trong đó bao gồm những cảm nhận đầy tin tưởng của dân Do Thái khi họ tận mắt chứng kiến thấy "sự lạ" tỏ tường Thiên Chúa đã ra tay uy quyền cứu họ trong chính lúc họ hoảng loạn kêu trách chính Moisen là vị thiên sai đến giải phóng họ:
1) Tôi sẽ ca tụng Chúa, vì Người uy linh cao cả. Người đã ném ngựa và người xuống biển khơi. Chúa là sức mạnh và là khúc ca của tôi, chính Người đã cho tôi được cứu thoát. Người là Thiên Chúa tôi, tôi sẽ tôn vinh Người; Người là Chúa tổ phụ tôi, tôi sẽ hát ca mừng Chúa.
2) Chúa như là người chiến sĩ, danh thánh Người thật toàn năng. Người đã ném xe cộ và đạo binh của Pharaon xuống biển, và dìm xuống Biển Đỏ các tướng lãnh của ông.
3) Các vực thẳm đã chôn sống họ, họ rơi xuống đáy biển như tảng đá to. Lạy Chúa, tay hữu Chúa biểu dương sức mạnh, lạy Chúa, tay hữu Chúa đánh tan quân thù.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL