Môse - "dụ ngôn" về một Đức Kitô Thiên Sai
Bài Đọc I: (Năm I) Xh 19, 1-2. 9-11. 16-20b
Đáp Ca: Đn 3, 52. 53. 54. 55. 56
Phúc Âm: Mt 13, 10-17
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Năm Tuần XVI Thường Niên, tiếp ngay sau bài phúc âm hôm qua, liên quan đến dụ ngôn người gieo giống. Hôm qua là chính nội dung của dụ ngôn người gieo giống, hôm nay là lý do tại sao Chúa Giêsu lại sử dụng dụ ngôn mà giảng dạy cho dân chúng: "Khi ấy, các môn đệ đến gần thưa Chúa Giêsu rằng: 'Tại sao Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ?'"
Như thế có nghĩa là Chúa Giêsu không bao giờ dùng dụ ngôn mà nói với các môn đệ của Người, mà chỉ dùng dụ ngôn để nói với dân chúng thôi. Lý do được chính Chúa Giêsu cho biết rất đơn giản như sau: "Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết".
Vậy thì phải chăng "mầu nhiệm Nước Trời" đây là chính bản thân Chúa Giêsu Kitô? "Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời",nghĩa là đã được Người tuyển chọn ở với Người nên hiểu Người hơn nhờ được giao tiếp trực tiếp với Người bằng mắt thấy, tai nghe, tay sờ v.v. (xem 1Gioan 1:1), "còn họ thì không cho biết", vì không được gần gũi và giao tiếp với Người như các tông đồ.
Đó là lý do ở cuối bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã xác nhận về diễm phúc của các tông đồ là thành phần được Người tuyển chọn để ở với Người (xem Marco 3:13), hơn hẳn chẳng những thành phần dân chúng mà còn hơn cả các vị tiên tri thời xưa nữa:
"Phần các con, phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe".
Tuy nhiên, Chúa Kitô đến trần gian là để tỏ mình ra cho chung nhân loại, đặc biệt là dân Do Thái trong thời lịch sử của Người bấy giờ, mà Người cũng cần phải tỏ mình ra cho họ nữa, bằng những cách thế thích hợp với hoàn cảnh sống của họ, với tầm mức hiểu biết bình dân của họ nói chung, chẳng hạn như dùng dụ ngôn bao gồm những hình ảnh cụ thể trong đời sống để mạc khải cho họ thấy một phần nào mầu nhiệm Nước Trời.
Cầu Chúa Giêsu nói "Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ: vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết" nghĩa là gì, nếu không phải khi được giao tiếp với Người một cách nào đó, ở một nơi nào đó, vào một lúc nào đó, dân chúng nói chung, nhất là thành phần luật sĩ và biệt phái giả hình nói riêng, không hiểu được Người vốn là Đấng tự bản chất vô cùng siêu việt, trong khi đó họ lại cứng lòng thì làm sao có thể chấp nhận được Người:
"Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai, và nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành". Chính vì thế mà Chúa Giêsu cần phải sử dụng dụ ngôn có tính cách bình dân cho họ hiểu phần nào thực tại của Nước Trời và về Nước Trời.
Trong Cựu Ước, cho dù Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho dân Do Thái của Ngài, nhưng chỉ bằng nhiều cách khác nhau qua thiên nhiên tạo vật cũng như qua con người trần gian, bao gồm cả những dấu lạ điềm thiêng, nhất là qua các vị tiên tri (xem Do Thái 1:1). Thế nhưng, "đến thời sau hết, Ngài đã nói với chúng ta qua Con của Ngài" (Do Thái 1:2) là Chúa Giêsu Kitô. So với Chúa Giêsu Con của Thiên Chúa, thì các dấu lạ điềm thiêng hay các vị tiên tri chỉ là bóng mờ, chưa hoàn toàn rõ nét về Ngài và chưa phải "là hiện thân của bản thể Cha" (Do Thái 1:3).
Trong bài đọc thứ 1 cho năm lẻ hôm nay chúng ta cũng thấy cảnh tượng Thiên Chúa tỏ mình ra cho chung dân Do Thái và cho riêng Moisen, qua điềm thiêng dấu lạ, để dân có thể tin vào Ngài qua trung gian Moisen được Ngài tuyển chọn để giải phòng họ khỏi Ai Cập và dẫn họ về Đất Hứa, và vì thế có thể nói, Moisen là hình ảnh ám chỉ hay là một "dụ ngôn" về một Đức Kitô Thiên Sai được sai đến để giải phóng toàn thể nhân loại, bao gồm cả dân Do Thái, khỏi tội lỗi và sự chết:
"Chúa phán cùng Moisen rằng: 'Ngay bây giờ Ta đến cùng ngươi trong đám mây dày đặc, để dân chúng nghe Ta nói với ngươi và tín nhiệm ngươi mãi mãi'... Đến ngày thứ ba, ngay từ sáng, có sấm chớp, mây mù dày đặc trên núi, và có tiếng tù và thổi rất mạnh. Toàn dân trong trại đều run sợ. Ông Moisen đưa dân ra khỏi trại để nghênh đón Thiên Chúa; họ đứng dưới chân núi. Cả núi Sinai nghi ngút khói, vì Chúa ngự trong đám lửa mà xuống; khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh. Tiếng tù và mỗi lúc một tăng lên rất mạnh".
Bài Đáp Ca hôm nay, không được trích từ Thánh Vịnh mà là từ Sách Tiên Tri Đaniên, trong đó chất chứa một tâm tình tiêu biểu của chung Dân Thái về cảm nghiệm thần linh của họ trước những gì Thiên Chúa làm cho họ vì danh thánh của Ngài, đến độ họ không thể không lên tiếng dâng lời cảm tạ ngợi khen chúc tụng Ngài, như sau:
1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời.
2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.
3) Chúc tụng Chúa ngự trên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.
4) Chúc tụng Chúa, Đấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.
5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Đức Thánh Cha Phanxicô: Giáo Lý về Niềm Hy Vọng Cậy Trông - bài 25 - Niềm tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa là Cha