“Ai Làm Cho Người Hòa Thuận, Ấy Là Phúc Thật”
Người dịch: Lại Thế Lãng
“Phúc cho những kẻ có tinh thần khó nghèo” (Matthêu 5, 3) Jerry đọc trong khoảng thời gian tĩnh lặng. Jerry cầu nguyện “Lạy Chúa, Chúa biết rõ lòng con. Chúa biết con đến với Ngài với đôi tay không có gì để xin Chúa ban cho được tràn đầy. Xin giúp con để con được nên giống Chúa hơn”.
Xa hơn một chút, Jerry đọc “Phúc cho những kẻ biết thương xót” (Matthêu 5, 7). Jerry cầu nguyện “Con cảm tạ Chúa vì lòng thương xót của Chúa đã dạy cho con biết tha thứ và nhịn nhục. Xin giúp con để con không vướng bận vào những mối hận thù trong lòng con và xin Chúa dạy con biết đối xử với mọi người với sự nhẫn nại và tình thương như Chúa đã dành cho họ”.
Nhưng khi Jerry đọc tới câu “Phúc cho những kẻ tác tạo hòa bình” (Matthêu 5, 9) Jerry dừng lại một chút “Lạy chúa, Chúa biết có căng thẳng và thù địch giữa các đồng nghiệp của con. Lời Chúa mời gọi tự vấn lương tâm con có thể làm được nhưng nay Chúa đòi hỏi con phải can dự vào khi thấy có sự chia rẽ và phải cố gắng hàn gắn. Chúa đang đòi hỏi con mang bình an đến những nơi có tức giận, oán hận, ganh đua. Làm sao con có thể làm được?”.
Lời cầu nguyện của Jerry cho chúng ta thấy sự thử thách của Mối Phúc này như thế nào. Trong lời mời gọi hãy có tinh thần nghèo khó và hãy có lòng thương xót, chúng ta có thể làm được bằng việc tập trung hết nghị lực vào những suy nghĩ ở trong lòng. Nhưng với lời kêu gọi hãy là người hòa giải, chúng ta không thể chỉ suy nghĩ ở trong lòng. Chúng ta cần phải hành động. Thực ra từ ngữ “người hòa giải” trong tiếng Hy Lạp là eirenopoioi không chỉ có nghĩa là kiến tạo mà còn là thực hiện hòa giải. Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta trở thành người hòa giải nghĩa là người phải làm công việc hòa giải mỗi ngày.
Khi chúng ta suy gẫm về Mối Phúc này chúng ta sẽ thấy rằng khi chúng ta hành động như những người hòa giải, chúng ta đem bình an vào giữa những căng thẳng hàng ngày trong đời sống cũng như vào trong những mối quan hệ của chúng ta. Chúng ta cũng sẽ thấy những người hòa giải phản ảnh chính hình ảnh của Thiên Chúa Cha như Chúa Giêsu đã nói họ là “Con Đức Chúa Trời”.
Chúa Giêsu, Người Hòa Giải
Toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu là cuộc đời của một người hòa giải. Sự hòa giải quan trọng nhất là khôi phục lại mối quan hệ giữa chúng ta với Cha trên trời. Như thánh Phaolô đã viết “Ðức Kitô đã chết vì ta, ngay lúc ta còn là tội nhân!” (Rôma 5,8). Chúa Giêsu đã đến để hòa giải chúng ta với Thiên Chúa để chúng ta một lần nữa có được mối quan hệ với Ngài, một mối quan hệ của tình yêu và không thù hằn.
Nhưng Chúa Giêsu không chỉ đem lại hòa giải qua cái chết của Ngài trên thập giá. Ngày này qua ngày khác Ngài đã dạy các môn đệ làm thế nào để trở thành những người hòa giải. Một câu chuyện trong Phúc Âm đã minh chứng điều này.
Một hôm Giacôbê và Gioan đến gặp Chúa Giêsu với một yêu cầu táo bạo "Xin cho chúng tôi được ngồi, một người bên hữu, một người bên tả, trong vinh quang của Thầy" (Maccô 10:37). Khi nghe vậy các môn đệ khác trở nên khó chịu đối với họ. Tệ hơn là hai anh em Giacôbê và Gioan dường như được Đức Giêsu yêu thích và họ đang cố gắng để làm cho diều này trở nên rõ hơn.
Nhưng thay vì tạo cơ hội cho sự chia rẽ bằng cách khiển trách Giacôbê và Gioan, Đức Giêsu đã chỉ cho các môn đệ cách phá vỡ sự chia rẽ “Ai muốn làm lớn trong các ngươi thì hãy hầu hạ các ngươi. Và ai muốn cầm đầu giữa các ngươi, thì hãy làm tôi tớ mọi người.” (Mc 10: 43-44). Phục vụ lẫn nhau. Làm những điều tốt cho nhau. Hãy rộng lượng với nhau. Sự kình địch và chia rẽ không thể tồn tại trong những hành động yêu thương. Khiêm nhừơng và phục vụ lẫn nhau mới là con đường dẫn tới bình an và hòa giải.
Thánh Phêrô, Người Hòa Giải
Ngay từ thuở ban đầu, Giáo hội đã cần những người hòa giải. Sự chia rẽ đã đe dọa sự hiệp nhất và tình thương giữa các tín hữu. Chúng ta thấy điều này trong sự chia rẽ giữa dân ngoại và người Do Thái mà những môn đệ đầu tiên đã gặp phải.
Trong nhiều thế kỷ, người Do Thái đã sống tách biệt với những người thuộc các chủng tộc và tôn giáo khác với họ. Thiên Chúa đã kêu gọi người Do Thái để được thánh hóa và tách họ khỏi dân ngoại, những người bị họ xem như là những tội nhân ô uế. Ngài đã ban cho họ Lề Luật và kêu gọi họ sống theo cách làm hài lòng Ngài hơn là dân ngoại ở quanh họ.
Nhưng rồi một việc bất ngờ đã xẩy ra: khi môn đệ Phêrô rao giảng Phúc Âm cho người lính La Mã là Lô-lê-ni-ô và gia đình của ông ta. Chúa Thánh Thần đã đến giữa những người không phải là Do Thái. Họ bắt đầu ca ngợi Thiên Chúa (Tông Đồ công vụ 10: 1-48). Thấy vậy Phêrô lên tiếng “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?” (Tông Đồ Công Vụ 10: 47).
Việc làm của Phêrrô gây ra căng thẳng trong nhiều thập niên. Làm sao những người dân ngoại không phải là dân Chúa chọn lại được thừa nhận trong Giáo Hội? Chẳng phải ít nhất họ cũng phải được cắt bì và tuân theo những Luật lệ cũng như những truyền thống mà anh chi em Do Thái đã duy trì?
Thánh Phaolô, Người Hòa Giải
Vấn đề này đã đe dọa toàn thể Giáo hội, nhưng không ở đâu chúng ta thấy tình trạng phân rẽ và mất đoàn kết rõ ràng hơn trong sứ vụ rao giảng của thánh Phaolô. Sau khi trở lại với đạo Chúa, Phaolô đã đi từ thị trấn này đến thị trấn khác, mang lại cho cả người Do Thái và dân ngoại niềm tin vào Chúa Kitô. Ông thiết lập những giáo hội bao gồm những người thuộc mọi thành phần: Người Do thái và Hy Lạp, nô lệ và tự do, người giàu và người nghèo. Và ở mọi nơi ông đã phải giúp đỡ các tín hữu mới này vượt qua những sự khác biệt của họ để cùng sống trong bình an của Chúa Kitô.
Một sự hiệp nhất triệt để không hề dễ dàng. Đặc biệt là giữa người Do thái và dân ngoại mà sự chia rẽ đã ăn sâu trong họ, Phaolô đã phải luôn luôn nhắc nhở họ rằng họ đã trở nên một trong Đức Kitô. Ông nói với các tín hữu Rôma “Không có sự phân biệt, ...tất cả đã trở nên công chính...qua sự chuộc tội của Đức Kitô Giêsu” (3: 22-23,24). Đối với các tín hữu Galát, ông viết “Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô” (3: 28). Và với các tín hữu Êphêsô ông viết rằng Đưc Giêsu là “sự bình an” và rằng ông đã “phá đổ bức tường ngăn cách là sự chia rẽ” (Êphêsô 2:14) giữa các dân tộc.
Chúng ta thường không coi thánh Phaolô như là một người hòa giải mà là một tông đồ dũng cảm, một nhà thần học thông thái, người dám nói sự thật. Nhưng Phaolô cũng đã dùng toàn bộ cuộc đời của mình đem mọi người đến với nhau. Ngay cả hôm nay chúng ta còn thấy tiếng kêu của ông: Hãy nhìn vào Đức Giêsu. Hãy để thập giá của Ngài tiêu diệt những sự ganh đua giữa chúng ta. Hãy để cho lòng khiêm nhường của Ngài làm dịu lòng mình để có thể tha thứ cho nhau. Hãy để cho bình an của Ngài dạy chúng ta làm thế nào yêu thương nhau và sống trong bình an. Rõ ràng Phaolô là một người hòa giải.
Kiến Tạo và Thực Hiện Sự Hòa Thuận
Vậy làm thế nào chúng ta, con cái của Cha trên trời có thể trở nên những người hòa giải. Điều đầu tiên và quan trọng nhất là có được sự bình an trong lòng mình. Nếu chúng ta không có bình an thì chúng ta không thể mang bình an đến cho người khác. Bình an đến từ mối quan hệ giữa chúng ta và Chúa Giêsu. Vì vậy bất cứ điều gì lôi kéo chúng ta cho dù là tội lỗi như không ăn năn, không tha thứ, oán hận hoặc lo lắng.. tất cả hãy đem đến cho Chúa. Xin Chúa giúp đỡ để chúng ta được bình an ngay cả khi có những tình huống nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta.
Thứ hai, chúng ta có thể cố gắng tạo ra một bầu khí thân thiện qua những lời chúng ta nói và những hành động chúng ta làm ngay ở trong gia đình, nơi làm việc, nơi giáo xứ của mình. Một cách để thực hiện điều đó là thông qua một tấm lòng phục vụ. Hãy nhớ những lời của Chúa Giêsu trong bữa ăn cuối cùng sau khi Ngài rửa chân cho các môn đệ “Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Gioan 13:15). Tìm kiếm cơ hội để phục vụ và những gương sáng của chúng ta sẽ lan tỏa. Nó sẽ khơi mào cho sự rộng lượng, lòng tốt và ước muốn đưa đến đoàn kết với những người xung quanh.
Quan trọng hơn là những ngôn từ chúng ta nói hay những ngôn từ chúng ta chọn để không nói ra. Thánh Giacôbê xem những lời nói là rất quan trọng “Nếu ai không thiếu sót trong lời nói đó là một người hoàn hảo, có thể kiềm chế đời mình” (3:2). Thánh Phaolô nói với tín hữu Thessanolica “Anh em hãy an ủi nhau và xây dựng cho nhau (1 Thessalonica 5:11). Khích lệ là một công cụ mạnh mẽ mang lại hòa khí khi kích động phát sinh hoặc khi những lời than phiền bao quanh chúng ta. Sự khích lệ xây dựng con người, cung cấp sự tự tin, làm cho người ta thích làm việc cùng nhau. Mọi người đều muốn được khích lệ.
Hãy thực hành việc canh chừng miệng lưỡi, đặc biệt đối với những người thân cận nhất. Tập thói quen trước khi nói ra hãy tự hỏi “Liệu những lời tôi sắp nói sẽ là công cụ của hòa bình hay nó sẽ gieo rắc chia rẽ? Liệu chúng sẽ làm vui lòng người hoặc sẽ làm tổn thương họ, làm cho họ phải rơi nước mắt. Khi tự vấn lương tâm vào cuối ngày hãy nghĩ đến những lời nói và những việc làm của mình trong ngày.
Chúng Ta Có Thể Làm Thay Đổi
Tất cả những ngôn từ và hành động như một người hòa giải thực sự có thể làm giảm căng thẳng, giúp giải quyết xung đột và tác động như một mùi hương làm dịu đi các mối quan hệ. Và ngay cả khi chúng ta không thể mang lại hòa giải cho môi trường xung quanh hoặc cho các mối quan hệ đặc biệt khó khăn, chúng ta vẫn có thể tạo ra sự khác biệt. Thánh Phaolô một lần đã viết “Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hoà thuận với mọi người” (Rôma 12:18). Chúng ta chỉ có thể kiểm soát “một phần” nhưng đó không phải là không đáng kể. Hãy làm điều tốt nhất chúng ta có thể và để phần còn lại cho Thiên Chúa.
Tuần này chúng ta hãy tự hỏi “Làm thế nào tôi có thể trở thành người hòa giải?” Tôi có thể mang hòa giải vào trong gia đình, nơi làm việc và trong giáo xứ? Căn cứ trên ngôn từ chúng ta nói và hành động chúng ta làm để xem chúng tạo ra hòa bình hay chia rẽ? Hỏi Chúa xem cách nào chúng ta có thể làm vui lòng người khác qua thái độ của tình thương và sự phục vụ. Khi chúng ta làm điều đó chúng ta sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Bởi vì chúng ta đã bắt chước Đức Giêsu, Con Một của Thiên Chúa, Ngài đến để “dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Luca 1:79)