CN III MV / A
Bài đọc 1 : ( Is. 35 : 1-6,10 ). Bài đọc 2 : ( Gc. 5: 7-10)
Tin Mừng : ( Mt. 11: 2-11)
NHỮNG KẺ NHÁT GAN
Lịch sử dân Chúa nói chung và lịch sử của mỗi người Kitô hữu nói riêng là một cuộc hành trình đi về nhà Cha, đi về miền đất hứa.
Trong thời Cựu Ước, dân Chúa luôn trải qua những bước thăng trầm:Có những lúc đã phải trải qua những giai đoạn lưu đầy khổ cực, đã ngồi than khóc bên bờ sông Babylon; có những lần đã phải vượt qua biển Đỏ để trốn chạy quân thù; và cũng có những lúc sống trong an bình thịnh vượng, nhưng cũng có lúc chối bỏ Thiên Chúa yêu thương, thay Đấng yêu thương chăm sóc mình bầng một con bò vàng, đã có những giai đoạn chán nản, thất vọng, hoảng sợ, đánh mất niềm tin trong những ngày tháng dài mong chờ Đấng Mêsia, đến nỗi Thiên Chúa đã phải động viên qua miệng tiên tri Isaia: “ Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng. Hãy nói với những kẻ nhát gan: Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em” ( Is. 35 : 3-4).
Rồi sau khi Đấng Mêsia đã đến, đã xuống trần gian để ở giữa con người nơi hang Bêlem, thì con người trong thời Tân Ước, trong cuộc hành trình đức tin hướng về ngày Quang Lâm, ngày toàn thể nhân loại ra trước tòa phán xét để hưởng hạnh phúc hay bị an phạt, thì con người lại quên vai trò của Thiên Chúa trong chương trình cứu chuộc con người, đã đặt mình làm làm trung tâm vũ trụ, lấy thế giới vật chất làm cứu cánh cuộc đời, mất cảnh giác, thiếu thức tỉnh cho ngày tận thế; thánh Giacôbê đã phải lên tiếng cảnh tỉnh:“ Kìa nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu qúy gía: họ phải chờ cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bình tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới” ( Gc. 5: 7-8)
Nhìn chung, khi sống trong an vui thịnh vượng, con người lại có xu hướng quên đi những gì Thiên Chúa đã làm, không nhận ra lòng thương xót và nhân hậu của Ngài, nhưng khi gặp gian nan bách hại, thì lại cho rằng Ngài bỏ rơi con người, nghi ngờ sự hiện diện của Ngài, lại oán trách hay đánh mất niềm tin vào Ngài. Con người luôn đòi hỏi Thiên Chúa phải thỏa mãn những yêu sách của mình! Nhưng Thiên Chúa, vì lòng yêu thương và muốn cứu độ con người, Ngài vẫn luôn trung tín với lời Ngài đã hứa.
Đối với người Kitô hữu, biết Thiên Chúa là Đấng nào và đặt hết tin tưỏng vào Ngài, đồng thời biết con người là ai với những bất toàn yếu đuối là những điều kiện giúp con người sống can đảm hơn trong cuộc sống.
Trả lời câu hỏi của các môn đệ của ông Giaon:“ Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”
Chúa Giêsu không trực tiếp cho họ biết Ngài là Đấng phải đến, nhưng Ngài bảo họ: “ Các ông cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” ( Mt. 11: 3-5)
Thiên Chúa là Đấng đầy lòng thương xót đối với con người, là Đấng có thể đem lại hạnh phúc cho con người, là Đấng cất đi những bất hạnh của con người, nhưng con người có mở mắt để nhìn thấy sự hiện diện của Đấng ấy ở giữa con người không, có lắng tai nghe và thực hành những điều Ngài giảng dạy không, có mở lòng để bày tỏ lòng thương xót với tha nhân như Đấng ấy đã làm đối với con người không!
Thiên Chúa đã tỏ cho con ngươi biết Ngài là ai qua các việc Ngài làm và những lời Ngài đã nói. Nhưng con người lại không biết mình là ai?
Một phụ nữ nằm trên giường bệnh, rơi vào một cơn hôn mê rất lâu. Chị cảm thấy mình được đưa lên trời và đứng trước tòa phán xét.
Một giọng nói hỏi chị: “Ngươi là ai?”
Chị trả lời: “ Dạ, con là vợ của một thị trưởng”
Giọng nói tiếp tục: “ Ta không hỏi ngươi là vợ của ai. Ta chỉ hỏi người là ai!”
- Dạ, con là mẹ của bốn đứa con ạ.
- Ta không hỏi ngươi là mẹ của ai. Ta chỉ hỏi ngươi là ai.
- Dạ, con là giáo viên.
- Ta không hỏi nghề nghiệp của ngươi là gì. Ta chỉ hỏi ngươi là ai.
Và cứ tiếp tục như thế. Câu trả lời nào của chị cũng xem ra không đáp ứng được câu hỏi “ Ngươi là ai”.
Rồi đến khi chị trả lời: “ Dạ con là Kitô hữu”
Giọng nói lại tiếp tục: “ Ta không hỏi ngươi thuộc tôn giáo nào. Ta chỉ hỏi ngươi là ai.
- Dạ, con là người đi lễ hằng ngày và luôn luôn giúp đỡ người nghèo và những người túng thiếu.
- Ta không hỏi ngươi làm gì. Ta chỉ hỏi ngươi là ai.
Rõ ràng người phụ nữ này không vượt qua được câu hỏi ấy. Chị được trả về trần gian. Khi hồi phục, chị quyết tâm khám phá mình là ai. Và quyết tâm ấy đã là nguyên do của mọi sự thay đổi trong cuộc đời chị.
Trước những hiểm họa của thiên nhiên hoặc trước những bắt bớ bách hại vì đức tin, với khả năng yếu kém của mình, con người trở nên nhút nhát, sợ sệt, đánh mất niềm tin; nhưng nếu nhận ra thân phận yếu đuối mỏng dòn của mình và đặt hết tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa tòan năng, con người sẽ có thể vững tin và trở nên can đảm hơn. Vì thế, chúng ta phải luôn xác định Thiên Chúa là Đấng nào và con người là ai trong chương trình cứu chuộc, từ đó củng cố và giữ vững niềm tin trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống, và cũng từ đó “những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, những đầu gối bủn rủn được vững vàng. Hãy nói với những kẻ nhát gan: Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em”.
Biết Thiên Chúa là Đấng nào và biết thân phận con người là gì sẽ giúp người Kitô hữu củng cố và giữ vững đức tin. Chúng ta không còn là những ngưới nhát gan trước những bách hại vì đức tin, mà có thể can đảm, sẵn sàng hy sinh vì đức tin như các thánh tử vì đạo đã làm.
Chúa Giêsu cho ta niềm tin tưởng: “ Phúc cho những ai không vấp ngã vì Ta”, Đó là hạnh phúc cho những ai vì Đức Kitô mà không đánh mất niềm tin, vì Đức Kitô mà can đảm sẵn sàng đón nhận những bách hại, tù đày, khốn khổ ô nhục!
Mùa vọng là cơ hội để chúng ta củng cố và giữ vững niềm tin vào Đấng Mêsia đã đến và sẽ đến.
Lm Trịnh Ngọc Danh