sự sống âm ỉ
Bài Đọc I: Ed 2, 2-5
Đáp Ca: Tv 122, 1-2a. 2bcd. 3-4
Bài Đọc II: 2 Cr 12, 7-10
Phúc Âm: Mc 6, 1-6
Bài Phúc Âm nói riêng và Phụng Vụ Lời Chúa nói chung cho Chúa Nhật XVI Thường Niên hậu Phục Sinh hôm nay dường như không cho chúng ta thấy được chủ đề "sự sống" của Mùa Phục Sinh kéo dài sang cả Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh một cách rõ ràng hay có liên hệ nào đó như các Chúa Nhật (XI, XII và XIII) vừa rồi, nhưng ở một khía cạnh sâu xa nào đó cũng gián tiếp liên quan đến "sự sống".
Thật vậy, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XVI hôm nay, Thánh ký Marco thuật lại biến cố "Chúa Giêsu trở về quê nhà" của Người là Nazarét, và "đến ngày Sabbat, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người", nhưng họ vẫn cảm thấy Người chẳng có gì đặc biệt hơn ai hết, khi họ nhìn về quá khứ của Người bằng con mắt quen thuộc có tính cách hoàn toàn thuần tự nhiên:
"Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?"
Đối với Thánh ký Marco thì tâm tưởng, lời nói và thái độ mà dân làng của Người tỏ ra với Người như thế thì chẳng khác nào "họ vấp phạm vì Người", ở chỗ, họ không thể nào tin rằng Người lại có thể trổi vượt xuất chúng như thế. Và sở dĩ "họ vấp phạm vì Người" như vậy là do bởi một lý do tâm lý rất dễ hiểu và thật đáng thông cảm, như chính Chúa Giêsu đã cho họ biết trong bài Phúc Âm hôm nay, đó là: "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình".
Thế nhưng, dù sao chính vì dân làng của Người dù "sửng sốt" về Người nhưng vẫn không cảm phục Người và không chấp nhận Người, nghĩa là, như Thánh ký Marco nhận định, "họ cứng lòng tin", đến độ làm cho Chúa Giêsu "ngạc nhiên", mà hậu quả tất yếu kèm theo đó là "Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân" và "Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy".
Nếu so sánh với một trong 4 trường hợp liên quan đến môi trường mà hạt giống lời Chúa được gieo vãi, như Thánh ký Marco thuật lại về dụ ngôn hạt giống của Chúa Giêsu (xem 4:3-8), thì phải chăng thành phần dân làng Nazarét của Người thuộc loại "những hạt rơi trên đường đi là những người vừa nghe lời Chúa xong thì Satan đến lấy mất những gì được gieo nơi họ" (câu 15).
Và nếu "sự sống" được chất chứa trong "hạt giống" nói chung và nơi nhân của "hạt giống" nói riêng thì "sự sống" nơi "hạt giống" muốn nẩy nở và tăng trưởng trọn vẹn tầm vóc của mình lại lệ thuộc vào môi trường đất đai tốt xấu lúc ban đầu. Ở trường hợp dân làng Nazarét trong bài Phúc Âm hôm nay có thể nói không phải là thứ "đất lành chim đậu", nên Chúa Giêsu mới phải "đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy".
Tâm trạng của dân làng Nazarét trong bài Phúc Âm hôm nay cũng là tâm trạng chung của loài người đối với những nhân vật mình vốn quen biết từ trước, nhất là của riêng dân Do Thái, một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn, và đã từng thấy Ngài tỏ mình ra cho họ bằng đủ mọi dấu kỳ sự lạ liên tục trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, nhất là qua các vị tiên tri, nhưng hình như là "bụt nhà không thiêng", ở chỗ dân tôc này vẫn không làm sao thoát được tình trạng và khuynh hướng cứng đầu, cứng cổ, cứng lòng, thậm chí phản loạn nữa, đúng như lời Chúa phán qua Tiên Tri Êzêkiên trong bài đọc thứ 1 hôm nay:
"Trong những ngày ấy, sau khi nói với tôi, Thần Linh nhập vào tôi, và đỡ tôi đứng dậy. Tôi nghe Người nói với tôi rằng: 'Hỡi con người, Ta sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân nổi loạn phản nghịch Ta, chúng và cha ông chúng vi phạm giao ước của Ta cho đến ngày nay. Ta sai ngươi đến để nói với những con cái dầy mặt cứng lòng rằng: Chúa là Thiên Chúa phán như vậy. Hoặc chúng nghe, hoặc chúng không nghe, vì đây là bọn phản loạn, và chúng sẽ biết rằng giữa chúng có một tiên tri".
Thế nhưng, đối với thành phần được Thiên Chúa ưu đãi, không phải được Ngài gần gũi và tỏ mình ra cho thì trở thành siêu đẳng, không còn gì là tầm thường và hèn hạ theo bản tính tự nhiên của mình nữa. Trái lại, Ngài lại muốn họ tiếp tục ở trong trạng thái bất toàn ấy để có cơ hội tỏ bản tính "trọn lành" của Ngài ra cho họ và nơi họ. Điển hình là trường hợp Kitô hữu cho dù đã được thánh hóa bởi Phép Rửa nhưng vẫn mang bản tính yếu đuối với đầy những mầm mống tội lỗi đến độ có thể sa ngã phạm tội bất cứ lúc nào, thậm chí mất Thánh Sủng bởi trọng tội.
Trong bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô cũng tự thú với Kitô hữu Giáo Đoàn Corintô về trường hợp của ngài, một con người tự nhiên được Thiên Chúa cho lên tầng trời thứ ba, nơi mà mắt chưa hề xem và tai chưa hề nghe (2Corinto 12:3-4), một đặc ân được tu đức họ gọi là ngất trí xuất thần siêu đẳng chẳng mấy ai hưởng như ngài, nhưng, như ngài cho biết như sau:
"Để những mạc khải cao siêu không làm cho tôi tự cao tự đại, thì một cái dằm đâm vào thịt tôi, một thần sứ của Satan vả mặt tôi. Vì thế đã ba lần tôi van nài Chúa, để nó rời khỏi tôi. Nhưng Người phán với tôi rằng: 'Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối'".
Vấn đề ở đây là không phải Thiên Chúa chỉ tỏ mình ra cho con người qua những ơn lạ mà cả qua chính bản thân yếu hèn của họ nữa, thậm chí qua chính yếu hèn của họ việc tỏ mình ra của Ngài lại còn tỏ tường và hiển vinh hơn nữa. Đó là lý do trong bài đọc 2 hôm nay Thánh Phaolô đã chí lý cảm nhận và xác tín rằng:
"Vậy tôi rất vui sướng khoe mình về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ngự trong tôi. Vì thế, tôi vui thoả trong sự yếu hèn của tôi, trong sự lăng nhục, quẫn bách, bắt bớ và khốn khó vì Đức Kitô: vì khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ".
Thánh Vịnh 122 trong bài Đáp Ca hôm nay cho thấy, nếu tận thâm tâm của một tâm hồn nhận biết mình hèn yếu, (như trường hợp của Thánh Phaolô trong bài đọc 2 hôm nay), thậm chí đã phạm những lỗi lầm đáng trách (như trường hợp của dân làng Nazarét trong bài Phúc Âm hôm nay), thì "sự sống" vẫn có thể nẩy mầm và Thiên Chúa vẫn có thể tỏ mình ra nơi ánh mắt của họ chỉ biết ngước trông lên tình thương và ơn cứu độ của Thiên Chúa:
1) Con ngước mắt nhìn lên Chúa, Ngài ngự trị ở cõi cao xanh. Kìa, như mắt những người nam tôi tớ, nhìn vào tay các vị chủ ông.
2) Như mắt của những người tỳ nữ, nhìn vào tay các vị chủ bà, mắt chúng tôi cũng nhìn vào Chúa, là Thiên Chúa của chúng tôi như thế, cho tới khi Người thương xót chúng tôi.
3) Nguyện xót thương, lạy Chúa, nguyện xót thương, vì chúng con đã bị khinh dể ê chề quá đỗi! Linh hồn chúng con thật là no ngấy lời chê cười của tụi giàu sang, nỗi miệt thị của lũ kiêu căng.
Đáp Ca: Tv 90, 1-2. 3-4. 14-15ab
Phúc Âm: Mt 9, 18-26
Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Mathêu thuật lại một sự kiện giống như Thánh ký Marcô đã thuật lại trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XIII Thường Niên Năm B tuần trước. Tuy nhiên, Thánh ký Mathêu thuật lại có vẻ ngắn gọn hơn, ít chi tiết hơn Thánh ký Marco, bao gồm một số chi tiết khác hẳn nhau:
Hai chi tiết hoàn toàn khác nhau, thậm chí nghịch nhau như sau: Chi tiết thứ nhất đó là người đến xin Chúa cứu đứa con gái của mình là "một vị kỳ mục" chứ không phải là một "trưởng hội đường" như Thánh Marco cho biết, và chi tiết thứ hai đó là "con gái tôi vừa mới chết" chứ không phải "đang hấp hối" như trong Phúc Âm Thánh ký Marco.
Ngoài ra, còn hai chi tiết khác cả hai bài Phúc Âm đều giống nhau, đó là chi tiết về người đàn bà loạn huyết 12 năm được Chúa Giêsu chữa lành nhờ bà có lòng tin: "Này con, hãy vững lòng. Đức tin của con đã cứu thoát con", và chi tiết về người con gái vừa qua đời được Người đến cải tử hoàn sinh cho: "'Các ngươi hãy lui ra, con bé không có chết đâu, nó ngủ đó thôi'. Họ liền nhạo cười Người. Và khi đã xua đám đông ra ngoài, Người vào cầm tay đứa bé và nó liền chỗi dậy".
Về hai chi tiết hoàn toàn khác nhau, thậm chí nghịch nhau giữa bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu hôm nay và bài Phúc Âm của Thánh ký Marco hôm Chúa Nhật XIII Thường Niên Năm B tuần trước, chúng ta có thể đặt vấn đề tại sao, nhưng cả hai chỉ là những chi tiết phụ thuộc không đáng lưu ý bằng những gì chính yếu hơn, đó là việc Chúa Giêsu tỏ mình ra qua cái chết của người con gái này nơi cả 2 bài Phúc Âm (cho dù là hấp hối hay vừa chết), chẳng những cho cha mẹ của em (cho dù người bố của em là trưởng hội đường hay kỳ mục) mà còn cho cả dân chúng bấy giờ nữa.
Nếu bài đọc 1 cho năm lẻ hôm nay được trích từ Sách Khởi Nguyên về giấc chiêm bao của tổ phụ Giacóp "thấy một cái thang, chân thang chấm đất và đầu thang chạm đến trời: các thiên thần lên xuống trên thang ấy", thì ý nghĩa của bài đọc này có liên hệ gì với bài Phúc Âm hôm nay nói riêng và phụng vụ Lời Chúa nói chung (bao gồm cả bài Đáp Ca) hay chăng? Thưa có - ở chỗ như thế này:
Cả việc chữa lành cho người đàn bà loạn huyết 12 năm lẫn việc cải tử hoàn sinh cho người con gái của gia chủ thân phụ xin Chúa Giêsu cứu giúp, đều được Chúa Giêsu thực hiện bằng những thứ tiếp xúc khác nhau với thân xác của Người: Trước hết, người đàn bà loạn huyết 12 năm được chữa lành nhờ "chạm đến gấu áo Người. Vì bà nghĩ thầm rằng: Nếu tôi được chạm đến áo Người thôi, thì tôi sẽ được khỏi", còn người con gái được cải tử hoàn sinh nhờ "Người vào cầm tay đứa bé".
Có nghĩa là quyền năng chữa lành bệnh nạn tật nguyền và cải từ hoàn sinh của Chúa Giêsu là những gì xuất phát từ thân xác của Người, thậm chí từ cả "gấu áo" Người mặc, hay nói cách khác, thân xác của Người và những gì liên hệ tới Người đều có thể trở thành phương tiện cứu độ con người, như "cái thang" đưa con người từ đất lên trời.
Thật vậy, tổ phụ Giacóp đã mơ thấy hình bóng của một Vị Cứu Tinh nơi hình ảnh "cái thang" có "các thiên thần lên xuống trên thang ấy", ám chỉ nhân tính của Người nói chung và thân xác của Người nói riêng, một nhân tính và một thân xác được các thiên thần hầu cận và phục vụ,như trong biến cố Người chay tịnh 40 ngày trong hoang địa ngay sau khi Người bị cám dỗ (xem Mathêu 4:11), hay biến cố Người sầu thương trong Vườn Cây Dầu trước khi Người toát mồ hôi như máu nhỏ xuống đất (xem Luca 22:43), hoặc biến cố Người phục sinh từ trong cõi chết có hai thiên thần ngồi trong mồ một vị đằng đầu và một vị đằng chân của vị thế thi thể Người được mai táng (xem Gioan 20:12).
Tâm trạng của con người sống với bản tính đã bị hư hoại bởi nguyên tội và mang nơi thân xác của mình những hậu quả của nguyên tội là đau khổ (như người đàn bà loạn huyết 12 năm) và sự chết (như đứa con gái của gia chủ thân phụ) trong bài Phúc Âm hôm nay đều cảm thấy cần được Thiên Chúa cứu độ, Đấng thực sự đã thực hiện việc cứu độ họ qua Con Một của Ngài đã hóa thân làm người mặc lấy bản tính con người là Chúa Giêsu Kitô. Tâm trạng của họ có thể phản ảnh qua bài Đáp ca hôm nay:
1) Bạn sống trong sự che chở của Đấng Tối Cao, bạn cư ngụ dưới bóng của Đấng Toàn Năng, hãy thưa cùng Chúa: "Chúa là chiến lũy, nơi con nương náu; lạy Chúa, con tin cậy ở Ngài".
2) Vì chính Ngài sẽ cứu bạn thoát lưới dò của kẻ bẫy chim, và thoát khỏi quan ôn tác hại. Ngài sẽ che chở bạn trong bóng cánh của Ngài, và dưới cánh Ngài, bạn sẽ nương thân: lòng trung tín của Ngài là mã giáp và khiên thuẫn.
3) Vì người quý mến Ta, Ta sẽ giải thoát cho, Ta sẽ che chở người bởi lẽ người nhìn biết danh Ta. Người sẽ kêu cầu Ta và Ta sẽ nhậm lời; Ta sẽ ở cùng người trong lúc gian truân.
sự sống thương tật
Bài Đọc I: (Năm I) St 32, 22-32
Đáp Ca: Tv 16, 1. 2-3. 6-7. 8b và15
Phúc Âm: Mt 9, 32-38
Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho Thứ Ba Tuần XIV Thường Niên hôm nay bao gồm 2 sự kiện khác nhau: trước hết về việc Chúa Giêsu trừ quỉ, và sau đó về tình trạng chiên cần chủ chiên.
Về việc Chúa Giêsu trừ quỉ, Thánh ký Mathêu thuật lại ở phần trên của bài Phúc Âm hôm nay thế này: "Khi ấy, người ta đem đến Chúa Giêsu một người câm bị quỷ ám. Khi đã trừ quỷ, thì người câm nói được, đám đông dân chúng kinh ngạc và nói rằng: 'Chưa bao giờ thấy xảy ra như vậy trong dân Israel'. Nhưng các người biệt phái nói rằng: 'Ông ta đã nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ'".
Về tình trạng chiên cần chủ chiên, Thánh ký Mathêu thuật lại ở phần dưới của bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn. Người liền bảo môn đệ rằng: 'Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa'".
Ý tưởng chính yếu của bài Phúc Âm hôm nay đó là câu Thánh ký Mathêu ghi nhận về Chúa Giêsu rằng: "Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn".
Đúng thế, tất cả những gì Thiên Chúa làm cho con người đều do bởi tình thương của Ngài trước thân phận tháp hèn và khốn khổ của con người, thành phần không thể tự cứu được mình mà chỉ hoàn toàn trông chờ vào Ngài, Đấng quả thực đã sai Con của Ngài đến với loài người, cũng chỉ vì thương con người, và Con của Ngài trở thành hiện thân sống động của tình thương Ngài đối với chung nhân loại và riêng thành phần nạn nhân của "mọi thứ bệnh hoạn tật nguyền" hay bị quỉ ám về thể lý, như "người câm bị quỷ ám" trong bài Phúc Âm hôm nay, nhất là thành phần đáng thương tiêu biểu của nhân loại ngay trước mắt Người bấy giờ không được ai giúp đỡ và phục vụ.
Bởi thế, trong dự án thần linh của mình, Người cần tuyển mộ thêm một số cộng sự viên đắc lực với Người trong sứ vụ cứu độ bất khả thiếu của Người. Đó là lý do Người "liền bảo với các môn đệ" là thành phần được Người gọi theo Người, chứ không bảo chung dân chúng, rằng: '"Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa".
"Lúa chín đầy đồng" đây nghĩa là gì, nếu không phải là thành phần dân chúng đáng thương cần được cứu vớt, họ là thành phần bình dân chất phác thường cởi mở và dễ tin tưởng vào Chúa cùng chấp nhận Lời Chúa hơn thành phần luật sĩ và biệt phái vốn hay tự phụ kiêu căng nên khó tin, khó chấp nhận những gì không hợp với họ hay họ có thành kiến, ngay cả khi họ thấy Người trừ quỉ câm trong bài Phúc Âm hôm nay mà họ vẫn cho rằng "Ông ta đã nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ'".
Và cũng vì thế mới xẩy ra tình trạng "thợ gặt thì ít", nghĩa là những người lãnh đạo tinh thần cho dân chúng thì nhiều đấy nhưng về phẩm thì vẫn quá ít ỏi và hiếm hoi, hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả (xem Gioan 10:8 - "tất cả những kẻ đến trước Tôi đều là trộm cướp)" vừa bất xứng về tinh thần và uy tín vừa bất khả về cung cách và hiệu quả, đến không phải là để phục vụ như Người mà chỉ lo hưởng thụ ở chỗ tìm cầu những gì là danh dự và uy quyền mà thôi (xem Mathêu 20:28 và đoạn 23).
Do đó, cần phải "xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa", nghĩa là sai những con người sống tinh thần của Chúa Kitô và như Chúa Kitô đến mới có thể đáp ứng nhu cầu cùng lòng mong đợi của dân chúng, nhờ đó hoàn thành dự án cứu độ thần linh vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa.
"Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn" là những gì chứng tỏ cho thấy dù con người hèn yếu nhưng vẫn thắng được cõi lòng nhân hậu của Thiên Chúa, đến độ đã khiến cho Thiên Chúa phải cúi mình xuống phục vụ họ.
Chẳng khác gì tổ phụ Giacóp trong bài đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, tuy là một con người yếu kém hơn "một người vật lộn với ông cho đến sáng" nhưng kể như vị tổ phụ này đã thắng trận đấu: "Người ấy thấy mình không thể vật ngã Giacóp được, nên đá vào gân đùi ông, và lập tức gân ấy khô bại". Chính chỗ "gân khô bại" bị "thiên thần đã đá vào gân đùi ông" ấy, khiến "ông đi khập khễnh một chân" như thế cũng là và chính là dấu chứng tỏ "ông có sức mạnh chống lại Thiên Chúa" đúng như tên gọi "Israel" mới được vị ấy đặt cho ông cuối trận đấu.
Một con người dám đấu với Thiên Chúa và "có sức mạnh chống lại Thiên Chúa" như thế phải là một con người công chính, như tổ phụ Giacóp, cho dù là yếu hèn về mọi phương diện, như thành phần dân chúng trong bài Phúc Âm, nhưng càng vì thế họ lại càng hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, nhờ đó Thiên Chúa toàn năng có thể tỏ mình ra cho họ và qua họ, khiến họ trở thành quyền năng và vô địch như Thiên Chúa. Bài Đáp ca hôm nay đã bày tỏ tâm tình của một con người công chính đối với Thiên Chúa như sau:
1) Lạy Chúa, xin nghe điều chính nghĩa của con; xin để ý đến lời con kêu cứu, lắng tai nghe con thốt ra từ cặp môi chân thành!
2) Từ cái nhìn của Chúa hãy diễn ra sự phán quyết về con: vì mắt Ngài thấy rõ điều chân chính. Nếu Ngài lục soát lòng con, nếu ban đêm Ngài thăm viếng, nếu Ngài thử con trong lửa, Ngài sẽ không gặp điều gian ác ở nơi con.
3) Con kêu van Ngài, bởi Ngài nhậm lời con; lạy Chúa, xin lắng tai về bên con, xin nghe rõ tiếng con. Xin tỏ ra đức từ bi lạ lùng của Chúa, là Đấng giải thoát khỏi bọn đối phương những ai tìm nương tựa tay hữu của Ngài.
4) Xin che chở con trong bóng cánh tay Ngài. Phần con, nhờ công chính, sẽ được thấy thiên nhan; khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa.
sự sống lạc loài
Bài Đọc I: (Năm I) St 41, 55-57; 42, 5-7a. 17-24a
Đáp Ca: Tv 32, 2-3. 10-11. 18-19
Phúc Âm: Mt 10, 1-7
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần XIV Thường Niên, tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, ở chỗ, trong bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Giêsu thấy dân chúng bơ vơ như chiên không chủ chăn, và ngỏ ý muốn có thêm cộng sự viên trong công cuộc cứu độ với Người kêu gọi, bằng cách kêu gọi các môn đệ hãy xin thêm thợ gặt đến làm mùa, thì trong bài Phúc Âm hôm nay "Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ Người lại, và ban cho các ông quyền hành trên các thần ô uế để các ông xua đuổi chúng và chữa lành mọi bệnh hoạn, tật nguyền".
Thành phần được Chúa Giêsu ưu tuyển này là những ai, được Thánh ký Mathêu cho biết như sau: "Đây là tên của mười hai Tông đồ: Trước hết là Simon cũng gọi là Phêrô, rồi đến Anrê em của ông, Giacôbê con ông Giêbêđê và Gioan em của ông, Philipphê và Bartôlômêô, Tôma và Matthêu người thu thế, Giacôbê con ông Alphê và Tađêô, Simon nhiệt tâm và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người".
Và sứ vụ của 12 môn đệ được gọi là tông đồ này như thế nào, cũng được Thánh ký Mathêu cho biết như thế này: "Chúa Giêsu đã sai mười hai vị này đi và truyền rằng: 'Các con đừng đi về phía các dân ngoại và đừng vào thành của người Samaria. Tốt hơn, các con hãy đến cùng các chiên lạc nhà Israel. Các con hãy đi rao giảng rằng: 'Nước Trời đã gần đến'".
Ở đây có 2 vấn đề được đặt ra: thứ nhất là danh xưng môn đệ và tông đồ có khác nhau không, nếu có thì như thế nào? Và thứ hai là địa bàn hoạt động của các tông đồ tại sao chỉ giới hạn vào "các chiên lạc nhà Israel" mà thôi?
Trước hết về danh xưng "môn đệ" (disciple) và "tông đồ" (apostle), căn cứ vào Phúc Âm, chúng ta nên hiểu như thế này:
1) Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm; với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. Hãy ca mừng Người bài ca mới, hát mừng Người với tiếng râm ran.
2) Chúa phá tan ý định của các nước, làm cho vô hiệu tư tưởng của chư dân. Ý định của Chúa tồn tại muôn đời, tư tưởng lòng Ngài còn mãi đời nọ sang đời kia.
3) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.
1) Chúa đã gọi cảnh cơ hàn về trên đất nước, và rút đi mọi sự nâng đỡ bằng cơm bánh. Ngài đã sai một người đi trước họ: Giuse đã bị bán để làm nô lệ.
2) Thiên hạ đã lấy xiềng để trói chân người, và cổ người bị cột bằng xích sắt, cho tới khi ứng nghiệm lời tiên đoán của người, lời của Chúa đã biện minh cho người.
3) Vua đã sai cởi trói cho người, Chúa của chư dân cũng đã giải phóng người. Vua đã tôn người làm chủ của mình, và làm chúa trên toàn diện lãnh thổ.
sự sống trốn chạy
Bài Đọc I: (Năm I) St 46, 1-7. 28-30
Đáp Ca: Tv 36, 3-4. 18-19. 27-28. 39-40
Phúc Âm: Mt 10, 16-23
Tiếp tục bài huấn dụ sai đi của mình với các tông đồ, trong bài Phúc Âm cho Thứ Sáu Tuần XIV Thường Niên tuần này, Chúa Giêsu nói đến số phận gian nan khốn khổ bất khả phân ly với sứ vụ chứng nhân của các vị.
"Này, Thầy sai các con đi như những con chiên ở giữa sói rừng. Vậy các con hãy ở khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ câu. Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết".
Thế nhưng, Chúa Giêsu đồng thời cũng trấn an các vị với 3 điều để các vị có thể tin tưởng chống đỡ, khôn ngoan tồn tại cho đến khi hoàn thành sứ vụ của các vị như sau:
"Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì? Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì; vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con.
... Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ. Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật các con: Các con sẽ không đi khắp hết các thành Israel trước khi Con Người đến".
Điều thứ nhất trong 3 điều này đó là tin tưởng chống đỡ: "khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì? Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì; vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con". Đúng thế, vì là việc của Thiên Chúa, Ngài sẽ lo việc của Ngài và bảo vệ thành phần thừa sai của Ngài, nhất là trong những lúc chúng từ của họ lên đến mức tột đỉnh và hùng hồn nhất.
Điều thứ hai trong ba điều đó là khôn ngoan tồn tại: "Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác". Ở đây Chúa Giêsu cho phép các tông đồ được trốn tránh những bách hại xẩy ra, không phải vì sợ chết cho bằng vì lợi ích cho chung đoàn chiên, không phải vì liều lĩnh cho bằng quí trọng mạng sống. Chính Chúa Giêsu mấy lần cũng tự thoát khỏi tay những kẻ tìm bắt Người khi chưa tới giờ của Người (xem Luca 4:30; Gioan 8:59).
Điều thứ ba trong ba điều đó là hoàn thành sứ vụ: "Các con sẽ không đi khắp hết các thành Israel trước khi Con Người đến". Câu này có thể Chúa Giêsu ám chỉ đến Cuộc Vượt Qua của Người hơn là đến việc Người tái giáng lần thứ hai. Nghĩa là các tông đồ chưa rao giảng xong cho thành phần "chiên lạc của Nhà Israel" thì đã đến thời điểm các vị cần phải theo Người lên Giêrusalem, nơi Người 3 lần đã tiên báo cho các vị về số phận kết thúc của Người ở đó.
Nếu "khi người ta bắt nộp các con, các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì?" và "khi người ta bắt bớ các con trong thành này, hãy trốn sang thành khác" thì cũng thế, trong bài đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, khi đại gia đình của tổ phụ Giacóp gặp nạn đói ở đất Canaan, Thiên Chúa cũng đã lo liệu trước mọi sự cho tổ phụ Giacóp cùng với toàn thể đại gia đình 72 người của ông, trong việc tỏ cho ông biết ý định của Ngài muốn gia đình ông lánh nạn sang Ai Cập để tránh nạn đói này ở Canaan là nơi Ngài đã hứa ban đất ấy cho dân Do Thái, và cũng là nơi Ngài còn hứa với chính tổ phụ Giacóp rằng Ngài sẽ đem họ từ Ai Cập trở về mảnh đất hứa này:
"Ta là Thiên Chúa rất hùng mạnh của cha ngươi, nên ngươi đừng sợ, hãy xuống xứ Ai-cập, vì ở đó Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân tộc vĩ đại. Ta sẽ xuống đó với ngươi. Cũng chính Ta sẽ đưa ngươi trở về, (sau khi) tay Giuse đã vuốt mắt cho ngươi".
Bài Đáp Ca hôm nay đã bày tỏ cảm nhận tin tưởng cậy trông nơi Vị Thiên Chúa quan phòng thần linh đầy quyền năng và yêu thương, nhất là trong lúc những gian nan khốn khó:
1) Hãy trông cậy Chúa và hãy làm lành, để được cư ngụ trong đất nước, thọ hưởng an ninh. Hãy hân hoan tin tưởng vào Chúa, Người sẽ ban cho sự lòng bạn thỉnh cầu.
2) Chúa chăm lo cho mạng sống người nhân đức, và phần gia nghiệp họ còn mãi muôn đời. Ngày tai hoạ, những người đó không tủi hổ, và trong nạn đói, họ sẽ được ăn no.
3) Hãy tránh ác và hãy làm lành, hầu được an cư tới ngàn thu, bởi vì Chúa yêu điều chân lý, và không bỏ rơi những tôi tớ trung thành.
4) Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ: trong cơn khốn khó, Người là chỗ họ dung thân, Chúa bang trợ và giải thoát họ. Người giải thoát và cứu họ khỏi lũ ác nhân, vì họ đã nương tựa vào Người.
1) Hãy ca tụng Chúa, hãy hoan hô danh Người, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa.
2) Hãy tự hào vì danh thánh của Người, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn.
3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn. Chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu.