Sử Biên Niên II - Chương 30 - 15Họ sát tế súc vật để mừng lễ Vượt Qua vào ngày mười bốn tháng hai. Các tư tế và các thầy Lê-vi lấy làm hổ thẹn nên đã tự thánh hiến và đem các lễ vật toàn thiêu vào Nhà ĐỨC CHÚA. |
Étra - Chương 8 - 22Vì tôi sẽ hổ thẹn, nếu phải xin vua cấp cho một đội quân và những người kỵ mã, để bảo vệ chúng tôi khỏi tay kẻ thù trong lúc đi đường; quả vậy, chúng tôi có thưa với đức vua: "Bàn tay của Thiên Chúa chúng tôi che chở tất cả những ai tìm kiếm Người và giáng phúc cho họ, nhưng sức mạnh và cơn thịnh nộ của Người đè nặng trên mọi kẻ lìa bỏ Người." |
Étra - Chương 9 - 6và thưa: "Lạy Thiên Chúa của con, con thật xấu hổ thẹn thùng khi ngẩng mặt lên Ngài, lạy Thiên Chúa của con, vì tội chúng con quá nhiều, đến nỗi ngập đầu ngập cổ, lỗi chúng con cứ chồng chất lên mãi tới trời. |
Gióp - Chương 27 - 6Tôi vững bước theo đường công chính, không rời bỏ, lòng tôi không xấu hổ thẹn thùng về bất cứ ngày nào trong đời tôi. |
Thánh Vịnh - Chương 35 - 4Chớ gì những ai tìm hại mạng sống con phải xấu hổ thẹn thùng, kẻ tính kế hại con phải tháo lui nhục nhã! |
Thánh Vịnh - Chương 37 - 19Buổi gian nan họ không hề hổ thẹn, ngày đói kém lại được no đầy. |
Thánh Vịnh - Chương 71 - 24Và suốt ngày con nhẩm đi nhắc lại: quả thật Ngài công chính! Vì những kẻ tìm cách gây hoạ cho con sẽ xấu hổ thẹn thùng. |
Thánh Vịnh - Chương 86 - 17Xin ban cho con một điềm báo phúc, để bọn thù ghét con trông thấy mà hổ thẹn, vì, lạy CHÚA, chính Ngài giúp đỡ ủi an con. |
Huấn Ca - Chương 2 - 10Hãy nhìn lại các thế hệ ban đầu mà xem: nào có ai tin vào Đức Chúa mà bị hổ thẹn bao giờ? Hay có ai bền tâm kính sợ Người mà bị bỏ rơi? Hoặc có ai kêu cầu Người mà bị Người khinh dể? |
Huấn Ca - Chương 4 - 26Đừng hổ thẹn xưng thú tội lỗi mình, đừng ngăn chặn dòng sông đang chảy. |
Huấn Ca - Chương 41 - 13Hạnh phúc đến đâu, đời người cũng có hạn, nhưng danh thơm tiếng tốt sẽ tồn tại muôn đời. Hổ thẹn |
Huấn Ca - Chương 51 - 18Vì tôi đã cương quyết sống theo đức khôn ngoan, tôi hăng say tìm điều thiện và sẽ không xấu hổ thẹn thùng. |
Isaia - Chương 23 - 4Hãy hổ thẹn, hỡi Xi-đôn, thành trì trên bờ biển, vì biển lên tiếng nói: "Tôi chẳng quặn đau cũng không sinh nở. Tôi đã chẳng nuôi nấng thanh niên, không dưỡng dục thanh nữ." |
Isaia - Chương 49 - 23Bậc vua chúa sẽ làm dưỡng phụ cho ngươi, hàng công nương sẽ làm nhũ mẫu. Trước mặt ngươi, chúng sẽ sấp mình xuống đất mà bái lạy, sẽ liếm bụi dưới gót chân ngươi. Ngươi sẽ rõ Ta là ĐỨC CHÚA, và ai trông cậy Ta sẽ không phải hổ thẹn bao giờ. |
Isaia - Chương 50 - 7Có ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng. |
Isaia - Chương 54 - 4Đừng sợ chi: ngươi sẽ không phải xấu hổ, chớ e thẹn: ngươi sẽ không phải nhục nhằn. Thật vậy, ngươi sẽ quên hết nỗi hổ thẹn tuổi thanh xuân và không còn nhớ bao nhục nhằn thời goá bụa. |
Giêrêmia - Chương 2 - 26Kẻ trộm xấu hổ khi bị bắt thế nào, con cái nhà Ít-ra-en cũng thẹn thùng như vậy. Tất cả bọn chúng cùng vua chúa và thủ lãnh, tư tế và ngôn sứ đều xấu hổ thẹn thùng, |
Giêrêmia - Chương 14 - 4Đất nứt nẻ vì không có mưa trong xứ, các nông dân hổ thẹn, lấy khăn trùm đầu. |
Giêrêmia - Chương 31 - 19Vì sau khi phạm tội, con hối tiếc ăn năn. Sau khi đã hồi tâm, con đấm ngực tự giác. Con xấu hổ thẹn thùng, vì mang nỗi nhục nhằn của tuổi thanh xuân." |
Baruc - Chương 6 - 38Những khúc gỗ bọc vàng bọc bạc ấy cũng giống như những phiến đá đẽo lấy từ núi ra vậy; những kẻ làm tôi chúng sẽ phải xấu hổ thẹn thùng. |
Đanien - Chương 3 - 23Còn ba người ấy là Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô rơi xuống lò lửa đang cháy phừng phực, mình vẫn bị trói. Thánh ca của A-da-ri-a trong lò lửa (24) Rồi giữa ngọn lửa, họ vừa đi lại, vừa ngợi khen chúc tụng Thiên Chúa. (25) A-da-ri-a đứng giữa đám lửa và cất tiếng cầu nguyện rằng : (26) Lạy Chúa là Thiên Chúa tổ tiên chúng con, xin chúc tụng và ca ngợi Chúa, cùng tôn vinh Danh Thánh mãi muôn đời, (27) vì trong hết mọi việc Chúa làm cho chúng con, Chúa đã xử công minh chính trực. Mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin, đường lối Chúa quả là ngay thẳng, mọi phán quyết của Ngài thật công minh. (28) Ngài đã tuyên án theo công lý, qua mọi điều Ngài bắt chúng con phải chịu, chúng con cũng như Giê-ru-sa-lem là thành thánh của cha ông chúng con. Phải, Chúa đã phán quyết thật công minh khi bắt chúng con phải chịu mọi điều ấy, bởi vì chúng con đã phạm tội. (29) Quả chúng con đã phạm tội, đã làm điều gian ác khi dám lìa xa Ngài. Trong mọi sự, chúng con đã nặng nề sai lỗi, đã chẳng tuân theo mệnh lệnh Ngài. (30) Chúng con đã bất tuân, đã không hành động theo lệnh Ngài truyền, nên không được hưởng nhờ ơn phúc. (31) Phải, mọi sự Ngài đã bắt chúng con phải chịu, mọi sự Ngài đã làm cho chúng con, Ngài đã làm tất cả thật chính trực công minh. (32) Ngài đã nộp chúng con vào tay bọn địch thù gian ác là những kẻ ngoại giáo ác ôn. Ngài đã nộp chúng con cho một vua bất chính xấu xa nhất trên đời. (33) Bây giờ, chúng con đâu còn dám mở miệng, vì phải cùng chịu nhục nhằn xấu hổ với những ai phục vụ và phụng thờ Ngài. (34) Ôi ! Vì danh thánh Chúa, xin đừng mãi mãi bỏ rơi chúng con, đừng huỷ bỏ giao ước của Ngài ! (35) Vì tình nghĩa với bạn thân Ngài là Áp-ra-ham, với tôi tớ Ngài là I-xa-ác, và kẻ Ngài thánh hoá là Ít-ra-en, xin Ngài đừng rút lại lòng thương xót đã dành cho chúng con. (36) Ngài đã hứa làm cho dòng dõi họ đông đảo như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. (37) Thế mà hôm nay, lạy Chúa, vì tội lỗi chúng con, chúng con đã thành dân nhỏ nhất, đã nếm mùi ô nhục trên khắp hoàn cầu. (38) Ngày nay chẳng còn vị thủ lãnh, chẳng còn bậc ngôn sứ, chẳng còn người chỉ huy. Lễ toàn thiêu, lễ hy sinh đã hết, lễ tiến, lễ hương cũng chẳng còn, chẳng còn nơi dâng của đầu mùa lên Chúa để chúng con được Chúa xót thương. (39) Nhưng xin nhận tâm hồn thống hối và tinh thần khiêm nhượng của chúng con, thay của lễ toàn thiêu chiên bò, và ngàn vạn cừu non béo tốt. (40) Ước gì hy lễ chúng con thượng tiến Ngài hôm nay cũng làm đẹp ý Ngài như vậy. Ước gì chúng con theo Ngài mãi đến cùng, vì những ai tin cậy vào Ngài, đâu có phải ê chề thất vọng. (41) Và giờ đây, chúng con hết lòng đi theo Chúa, kính sợ Ngài và tìm kiếm Thánh Nhan. Xin đừng để chúng con phải thẹn thùng xấu hổ. (42) Nhưng xin Ngài tỏ lòng nhân hậu và lòng thương xót vô biên của Ngài khi Ngài đối xử với chúng con. (43) Xin làm những việc lạ lùng kỳ diệu mà giải thoát chúng con và tôn vinh danh Ngài, lạy Chúa. (44) Ước gì những kẻ gây tai hoạ cho các tôi tớ Ngài phải bẽ mặt hổ ngươi. Ước gì chúng phải xấu hổ thẹn thùng, mất hết mọi uy thế và quyền thống trị, và ước gì sức mạnh của chúng bị đập tan. (45) Ước gì chúng nhận biết Ngài chính là Chúa Tể, là Thiên Chúa duy nhất quang vinh trên khắp cõi trần gian. (46) Sau khi quăng ba thanh niên vào lò, các thuộc hạ của vua không ngừng đốt lò bằng dầu, nhựa, xơ gai và cành nho. (47) Ngọn lửa bốc lên trên lò hai mươi bốn thước rưỡi, (48) rồi lan ra, đốt cháy những người Can-đê đứng xung quanh lò. (49) Nhưng thiên sứ của ĐỨC CHÚA trước đây đã xuống trong lò cùng lúc với A-da-ri-a và các bạn, nay đẩy ngọn lửa ra khỏi lò. (50) Thiên sứ làm cho trung tâm lò thành nơi mát mẻ như có một làn gió nhẹ rì rào, khiến cho lửa không hề đụng tới họ và chẳng gây phiền hà đau đớn gì cho họ cả. Thánh ca của ba thanh niên trong lò lửa (51) Bấy giờ trong lò lửa, cả ba người đều đồng thanh ca ngợi, tôn vinh và chúc tụng Thiên Chúa rằng : (52) "Lạy Chúa, chúc tụng Ngài là Thiên Chúa tổ tiên chúng con, xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời. Chúc tụng danh thánh Ngài vinh hiển, xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời. (53) Chúc tụng Chúa trong thánh điện vinh quang, xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời. (54) Chúc tụng Chúa trên ngôi báu cửu trùng, xin dâng lời ca tụng suy tôn muôn đời. (55) Chúc tụng Chúa, Đấng ngự trên các thần hộ giá mà thấu nhìn vực thẳm, xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời. (56) Chúc tụng Chúa trên vòm trời tận chốn cao xanh, xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời. (57) Chúc tụng Chúa đi, mọi công trình của Chúa, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (58) Chúc tụng Chúa đi, các thiên sứ của Người, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (59) Chúc tụng Chúa đi, chín tầng trời thăm thẳm, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (60) Chúc tụng Chúa đi, nguồn nước tận cao xanh, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (61) Chúc tụng Chúa đi, mọi cơ binh thượng giới, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (62) Chúc tụng Chúa đi, mặt trời với mặt trăng, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (63) Chúc tụng Chúa đi, hỡi tinh tú trên trời, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (64) Chúc tụng Chúa đi, nào mưa sương tất cả, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (65) Chúc tụng Chúa đi, mọi luồng gió cơn dông, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (66) Chúc tụng Chúa đi, sức nóng với lửa hồng, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (67) Chúc tụng Chúa đi, trời nồng và khí lạnh, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (68) Chúc tụng Chúa đi, nào sương đọng mưa tuôn, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (69) Chúc tụng Chúa đi, kìa thời đông tiết giá, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (70) Chúc tụng Chúa đi, này băng phủ tuyết rơi, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (71) Chúc tụng Chúa đi, hỡi đêm ngày đắp đổi, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (72) Chúc tụng Chúa đi, ánh sáng và bóng tối, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (73) Chúc tụng Chúa đi, chớp giật với mây trôi, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (74) Chúc tụng Chúa đi, tất cả mười phương đất, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (75) Chúc tụng Chúa đi, này đồi xanh núi biếc, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (76) Chúc tụng Chúa đi, kìa hoa lá cỏ cây, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (77) Chúc tụng Chúa đi, hỡi suối nước tràn đầy, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (78) Chúc tụng Chúa đi, nào sông sâu biển cả, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (79) Chúc tụng Chúa đi, kình ngư cùng thủy tộc, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (80) Chúc tụng Chúa đi, hết mọi loài chim chóc, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (81) Chúc tụng Chúa đi, gia súc lẫn thú rừng, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (82) Chúc tụng Chúa đi, hỡi phàm nhân dương thế, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (83) Chúc tụng Chúa đi, dòng dõi Ít-ra-en, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (84) Chúc tụng Chúa đi, tư tế phụng thờ Chúa, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (85) Chúc tụng Chúa đi, tôi tớ phục vụ Người, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (86) Chúc tụng Chúa đi, hồn thiêng hàng công chính, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (87) Chúc tụng Chúa đi, người thánh kẻ khiêm nhường, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (88) Chúc tụng Chúa đi, này Kha-na-ni-a, A-da-ri-a và Mi-sa-ên hỡi, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. Vì Người đã kéo ta ra khỏi âm phủ, đã cứu ta khỏi tay tử thần, và đã giải thoát ta khỏi lò lửa nóng bừng, khỏi lửa hồng đốt cháy. (89) Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. (90) Hỡi tất cả những ai kính sợ Chúa, hãy chúc tụng Chúa là Thần các thần, hãy dâng lời tạ ơn và ca tụng, vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương." (24) Rồi giữa ngọn lửa, họ vừa đi lại, vừa ngợi khen chúc tụng Thiên Chúa. (25) A-da-ri-a đứng giữa đám lửa và cất tiếng cầu nguyện rằng : (26) Lạy Chúa là Thiên Chúa tổ tiên chúng con, xin chúc tụng và ca ngợi Chúa, cùng tôn vinh Danh Thánh mãi muôn đời, (27) vì trong hết mọi việc Chúa làm cho chúng con, Chúa đã xử công minh chính trực. Mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin, đường lối Chúa quả là ngay thẳng, mọi phán quyết của Ngài thật công minh. (28) Ngài đã tuyên án theo công lý, qua mọi điều Ngài bắt chúng con phải chịu, chúng con cũng như Giê-ru-sa-lem là thành thánh của cha ông chúng con. Phải, Chúa đã phán quyết thật công minh khi bắt chúng con phải chịu mọi điều ấy, bởi vì chúng con đã phạm tội. (29) Quả chúng con đã phạm tội, đã làm điều gian ác khi dám lìa xa Ngài. Trong mọi sự, chúng con đã nặng nề sai lỗi, đã chẳng tuân theo mệnh lệnh Ngài. (30) Chúng con đã bất tuân, đã không hành động theo lệnh Ngài truyền, nên không được hưởng nhờ ơn phúc. (31) Phải, mọi sự Ngài đã bắt chúng con phải chịu, mọi sự Ngài đã làm cho chúng con, Ngài đã làm tất cả thật chính trực công minh. (32) Ngài đã nộp chúng con vào tay bọn địch thù gian ác là những kẻ ngoại giáo ác ôn. Ngài đã nộp chúng con cho một vua bất chính xấu xa nhất trên đời. (33) Bây giờ, chúng con đâu còn dám mở miệng, vì phải cùng chịu nhục nhằn xấu hổ với những ai phục vụ và phụng thờ Ngài. (34) Ôi ! Vì danh thánh Chúa, xin đừng mãi mãi bỏ rơi chúng con, đừng huỷ bỏ giao ước của Ngài ! (35) Vì tình nghĩa với bạn thân Ngài là Áp-ra-ham, với tôi tớ Ngài là I-xa-ác, và kẻ Ngài thánh hoá là Ít-ra-en, xin Ngài đừng rút lại lòng thương xót đã dành cho chúng con. (36) Ngài đã hứa làm cho dòng dõi họ đông đảo như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. (37) Thế mà hôm nay, lạy Chúa, vì tội lỗi chúng con, chúng con đã thành dân nhỏ nhất, đã nếm mùi ô nhục trên khắp hoàn cầu. (38) Ngày nay chẳng còn vị thủ lãnh, chẳng còn bậc ngôn sứ, chẳng còn người chỉ huy. Lễ toàn thiêu, lễ hy sinh đã hết, lễ tiến, lễ hương cũng chẳng còn, chẳng còn nơi dâng của đầu mùa lên Chúa để chúng con được Chúa xót thương. (39) Nhưng xin nhận tâm hồn thống hối và tinh thần khiêm nhượng của chúng con, thay của lễ toàn thiêu chiên bò, và ngàn vạn cừu non béo tốt. (40) Ước gì hy lễ chúng con thượng tiến Ngài hôm nay cũng làm đẹp ý Ngài như vậy. Ước gì chúng con theo Ngài mãi đến cùng, vì những ai tin cậy vào Ngài, đâu có phải ê chề thất vọng. (41) Và giờ đây, chúng con hết lòng đi theo Chúa, kính sợ Ngài và tìm kiếm Thánh Nhan. Xin đừng để chúng con phải thẹn thùng xấu hổ. (42) Nhưng xin Ngài tỏ lòng nhân hậu và lòng thương xót vô biên của Ngài khi Ngài đối xử với chúng con. (43) Xin làm những việc lạ lùng kỳ diệu mà giải thoát chúng con và tôn vinh danh Ngài, lạy Chúa. (44) Ước gì những kẻ gây tai hoạ cho các tôi tớ Ngài phải bẽ mặt hổ ngươi. Ước gì chúng phải xấu hổ thẹn thùng, mất hết mọi uy thế và quyền thống trị, và ước gì sức mạnh của chúng bị đập tan. (45) Ước gì chúng nhận biết Ngài chính là Chúa Tể, là Thiên Chúa duy nhất quang vinh trên khắp cõi trần gian. (46) Sau khi quăng ba thanh niên vào lò, các thuộc hạ của vua không ngừng đốt lò bằng dầu, nhựa, xơ gai và cành nho. (47) Ngọn lửa bốc lên trên lò hai mươi bốn thước rưỡi, (48) rồi lan ra, đốt cháy những người Can-đê đứng xung quanh lò. (49) Nhưng thiên sứ của ĐỨC CHÚA trước đây đã xuống trong lò cùng lúc với A-da-ri-a và các bạn, nay đẩy ngọn lửa ra khỏi lò. (50) Thiên sứ làm cho trung tâm lò thành nơi mát mẻ như có một làn gió nhẹ rì rào, khiến cho lửa không hề đụng tới họ và chẳng gây phiền hà đau đớn gì cho họ cả. Thánh ca của ba thanh niên trong lò lửa (51) Bấy giờ trong lò lửa, cả ba người đều đồng thanh ca ngợi, tôn vinh và chúc tụng Thiên Chúa rằng : (52) "Lạy Chúa, chúc tụng Ngài là Thiên Chúa tổ tiên chúng con, xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời. Chúc tụng danh thánh Ngài vinh hiển, xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời. (53) Chúc tụng Chúa trong thánh điện vinh quang, xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời. (54) Chúc tụng Chúa trên ngôi báu cửu trùng, xin dâng lời ca tụng suy tôn muôn đời. (55) Chúc tụng Chúa, Đấng ngự trên các thần hộ giá mà thấu nhìn vực thẳm, xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời. (56) Chúc tụng Chúa trên vòm trời tận chốn cao xanh, xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời. (57) Chúc tụng Chúa đi, mọi công trình của Chúa, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (58) Chúc tụng Chúa đi, các thiên sứ của Người, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (59) Chúc tụng Chúa đi, chín tầng trời thăm thẳm, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (60) Chúc tụng Chúa đi, nguồn nước tận cao xanh, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (61) Chúc tụng Chúa đi, mọi cơ binh thượng giới, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (62) Chúc tụng Chúa đi, mặt trời với mặt trăng, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (63) Chúc tụng Chúa đi, hỡi tinh tú trên trời, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (64) Chúc tụng Chúa đi, nào mưa sương tất cả, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (65) Chúc tụng Chúa đi, mọi luồng gió cơn dông, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (66) Chúc tụng Chúa đi, sức nóng với lửa hồng, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (67) Chúc tụng Chúa đi, trời nồng và khí lạnh, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (68) Chúc tụng Chúa đi, nào sương đọng mưa tuôn, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (69) Chúc tụng Chúa đi, kìa thời đông tiết giá, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (70) Chúc tụng Chúa đi, này băng phủ tuyết rơi, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (71) Chúc tụng Chúa đi, hỡi đêm ngày đắp đổi, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (72) Chúc tụng Chúa đi, ánh sáng và bóng tối, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (73) Chúc tụng Chúa đi, chớp giật với mây trôi, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (74) Chúc tụng Chúa đi, tất cả mười phương đất, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (75) Chúc tụng Chúa đi, này đồi xanh núi biếc, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (76) Chúc tụng Chúa đi, kìa hoa lá cỏ cây, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (77) Chúc tụng Chúa đi, hỡi suối nước tràn đầy, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (78) Chúc tụng Chúa đi, nào sông sâu biển cả, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (79) Chúc tụng Chúa đi, kình ngư cùng thủy tộc, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (80) Chúc tụng Chúa đi, hết mọi loài chim chóc, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (81) Chúc tụng Chúa đi, gia súc lẫn thú rừng, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (82) Chúc tụng Chúa đi, hỡi phàm nhân dương thế, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (83) Chúc tụng Chúa đi, dòng dõi Ít-ra-en, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (84) Chúc tụng Chúa đi, tư tế phụng thờ Chúa, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (85) Chúc tụng Chúa đi, tôi tớ phục vụ Người, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (86) Chúc tụng Chúa đi, hồn thiêng hàng công chính, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (87) Chúc tụng Chúa đi, người thánh kẻ khiêm nhường, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. (88) Chúc tụng Chúa đi, này Kha-na-ni-a, A-da-ri-a và Mi-sa-ên hỡi, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. Vì Người đã kéo ta ra khỏi âm phủ, đã cứu ta khỏi tay tử thần, và đã giải thoát ta khỏi lò lửa nóng bừng, khỏi lửa hồng đốt cháy. (89) Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. (90) Hỡi tất cả những ai kính sợ Chúa, hãy chúc tụng Chúa là Thần các thần, hãy dâng lời tạ ơn và ca tụng, vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương." |
Đanien - Chương 9 - 7Lạy Chúa Thượng, Chúa là Đấng Công Chính; còn chúng con thì đáng phải hổ mặt hổ mày như ngày hôm nay - chúng con là những người Giu-đa, cư dân thành Giê-ru-sa-lem và toàn thể Ít-ra-en, những người ở gần cũng như ở xa, trong mọi xứ Ngài đã đuổi đến vì tội bất trung đã phạm chống lại Ngài. |
Đanien - Chương 9 - 8Lạy Đức Chúa, chúng con đáng phải hổ mặt hổ mày, cũng như vua chúa quan quyền và tổ tiên chúng con, vì chúng con đã đắc tội với Ngài. |
Đanien - Chương 13 - 27Và sau khi các kỳ lão kể lại chuyện đó, các tôi tớ rất lấy làm hổ thẹn, vì chưa bao giờ nghe nói như thế về bà Su-san-na. |
Hôsê - Chương 2 - 12Giờ đây, trước mặt các tình nhân của nó, Ta sẽ phơi bày ra cái đáng hổ thẹn của nó, và không ai giựt được nó khỏi tay Ta. |
Hôsê - Chương 4 - 19Chúng sẽ bị cuốn đi trong cánh gió, sẽ hổ thẹn vì hiến lễ của mình. |
Hôsê - Chương 10 - 6Nó cũng bị đưa sang Át-sua làm lễ vật triều cống cho vua cả. Ép-ra-im sẽ chuốc lấy nhuốc nhơ, Ít-ra-en phải hổ thẹn về những điều mình suy tính. |
Xôphônia - Chương 3 - 11Ngày ấy, ngươi sẽ không còn phải hổ thẹn vì mọi hành vi ngang trái chống lại Ta. Bấy giờ, Ta sẽ đuổi cho khuất mắt ngươi những kẻ kiêu căng đắc thắng, và ngươi sẽ không còn nghênh ngang trên núi thánh của Ta nữa. |
Mác-cô - Chương 8 - 38Giữa thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, ai hổ thẹn vì tôi và những lời tôi dạy, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các thánh thiên thần, trong vinh quang của Cha Người." |
Thư Rôma - Chương 1 - 16Vâng, tôi không hổ thẹn vì Tin Mừng. Quả thế, Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp. |
Thư Côrintô 2 - Chương 7 - 14Nếu trước mặt anh ấy, tôi đã có đôi chút tự hào về anh em, thì tôi cũng không hổ thẹn. Trái lại, trong mọi sự, chúng tôi đã nói thật với anh em thế nào, thì thái độ tự hào của chúng tôi trước mặt anh Ti-tô cũng chân thật như vậy. |
Thư Philípphê - Chương 1 - 20Đó là điều tôi đợi chờ và hy vọng. Sẽ không có gì làm cho tôi phải hổ thẹn, trái lại tôi hoàn toàn vững tin. Bây giờ cũng như mọi lúc, Đức Ki-tô sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống hay tôi chết: |
Thư Philípphê - Chương 3 - 19chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. |
Thư Timôthê 2 - Chương 1 - 8Vậy anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng. |
Thư Timôthê 2 - Chương 1 - 12Chính vì lý do ấy mà tôi phải chịu những đau khổ này; nhưng tôi không hổ thẹn, vì tôi biết tôi tin vào ai, và xác tín rằng: Người có đủ quyền năng bảo toàn giáo lý đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới Ngày đó. |
Thư Timôthê 2 - Chương 1 - 16Xin Chúa tỏ lòng thương xót gia đình anh Ô-nê-xi-phô-rô, vì đã nhiều lần anh làm cho tôi lên tinh thần, và đã không hổ thẹn vì tôi phải mang xiềng xích; |
Thư Do Thái - Chương 2 - 11Thật vậy, Đấng thánh hoá là Đức Giê-su, và những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em, |
Thư Do Thái - Chương 11 - 16Nhưng thực ra các ngài mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Bởi vậy, Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì Người đã chuẩn bị một thành cho các ngài. |