V. TẠO DỰNG TƯƠNG LAI
Hôn nhân có nghĩa là sinh sản và đón tiếp một đời sống mới. Trẻ em hình thành tương lai, cũng như các em được hình thành trong gia đình của mình. Không có trẻ em sẽ không có tương lai. Trẻ em được nuôi dậy bằng tình yêu và hướng dẫn sẽ là nền tảng cho một tương lại yêu thương. Trẻ em bị thương tích báo trước một tương lai thương tích. Các gia đình là nền đá kiên cố cho tất cả những cộng đồng rộng lớn hơn. Các gia đình là những giáo hội tại gia, là nơi ở đó cha mẹ dậy dỗ con cái khám phá ra rằng Thiên Chúa yêu thương chúng và có một chương trình cho đời sống mỗi em.
Hôn nhân đem bối cảnh thần linh lại với những cơ hội được tạo nên bởi sinh vật học
68. Hôn nhân bao gồm tình yêu, trung thành, và giao ước. Nhưng thực hành thế sẽ đem lại những mối tương giao giá trị. Hôn nhân là một cái gì minh bạch. Hôn nhân là một giao ước được xây trên quyền hạn sinh sản của người nam và người nữ. Đời sống động vật của chúng ta đặt ra những giới hạn và những cơ hội nhất định, và hôn nhân là câu trả lời để sống tình trạng này trong sự thánh thiện.
69. Chúng ta sẽ bàn về một câu trả lời khác - độc thân - ở chương sau. Chúng ta sẽ thảo luận những thách đố về tư tưởng sinh sản trong hôn nhân, những thách đố từng nêu lên từ những câu hỏi về ngừa thai trong hôn nhân và những liên quan mật thiết đồng phái tính ở chương 7. Trong phần này, chúng ta cần để thảo luận tình yêu hôn nhân liên quan với việc sinh sản của những người nam và những người nữ như thế nào đối với bí tích của giao ước của Thiên Chúa.
70. Hôn nhân là lời đáp trả đối với khả năng sinh sản của giữa những người đàn ông và những người đàn bà. Khi một người đàn ông và người đàn bà kết hôn bằng cách tiến thêm một bước nữa của việc ưng thuận một cách tự do đối với những lời cam kết hỗ tương của chung thủy và vĩnh viễn, 61 hôn nhân đặt việc sinh sản con cái trong bối cảnh của phẩm giá con người và tự do. Những lời hứa hôn phối cũng giống như giao ước của Thiên Chúa với Isreal và Giáo Hội. Hôn nhân, theo như giáo huấn của Giáo Hội, là “giao ước hôn phối, từ đó một người đàn ông và một người đàn bà thiết lập giữa họ mối tương quan mật thiết trọn đời và nó có mục đích do đặc tính của nó trở nên tốt lành giữa những người phối ngẫu và việc sinh sản và giáo dục con cái, được nâng cao bởi Chúa Kitô, Thiên Chúa đối với phẩm giá của một bí tích giữa những người đã được thanh tẩy.” 62 Một cách vắn tắt, hôn nhân là sự hiệp nhất của cả đời sống và tình yêu.
71. Bí Tích Hôn Phối làm cho sức mạnh của giáo ước Thiên Chúa thành chung thủy, cũng như sự hiệp nhất của Ba Ngôi như Cha, Con và Thánh Thần, sẵn sàng cho người chồng và người vợ. Nền tảng thần linh này trở thành một lý do mới và sâu sa hơn cho việc sản sinh, cho việc đón tiếp những đứa trẻ là một sự nối dài của lòng quảng đại thiêng liêng. Trong cách này, chúng ta có thể thấy câu nói xưa của Augustine “ba điều tốt lành của hôn nhân” (con cái, chung thủy, và bí tích) được đâm rễ trong dự án thần linh. 64
Ơn gọi tinh thần của cha mẹ
72. Như bất cứ câu hỏi ơn gọi nào, câu hỏi phải chăng và khi nào có con không phải là điều để quyết định một cách đơn giản theo tự qui chiếu tiêu chuẩn con người. Có những điều kiện con người “thể lý, kinh tế, tâm lý, và xã hội” thật sự và chính đáng mà những người chồng và những người vợ cần quan tâm trong nhận thức của họ. 65 Nhưng, sau cùng câu hỏi trở thành cha mẹ tùy thuộc cùng một lý do như chính bí tích hôn phối: tình yêu hình thành sự phục vụ, hy sinh, tin tưởng, và mở rộng cho lòng rộng lượng của Thiên Chúa. Hôn nhân Công Giáo được khởi đầu trên những bí tích và sự hỗ trợ của cộng đồng Kitô hữu, và do đó, khi những người phối ngẫu Công Giáo quan tâm trở thành những cha mẹ Công Giáo, họ tiếp tục trong cùng ý nghĩa tinh thần và cộng đoàn.
73. Khi những người phối ngẫu trở thành cha mẹ, sức mạnh nội tại của công trình sáng tạo Thiên Chúa và bí tích hôn phối được tỏ hiện trong cách thế đẹp đẽ và rõ ràng một cách cá biệt. Khi một người chồng và người vợ có những đứa con sau khuôn mẫu của tình yêu Chúa Kitô đối với chúng ta, cùng một tình yêu này cũng định hướng cho những cha mẹ mới trong việc giáo dục và sự hình thành tinh thần cho con cái họ. 66 “Những người con là những mắt trong một giây xích”, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói khi rửa tội cho 32 em bé mới đây. “Các bạn là những cha mẹ có con trai hay con gái được rửa tội, nhưng trong ít năm, chúng sẽ có con để rửa tội, hoặc một đứa cháu; và như vậy, là một giây xích của đức tin.” 67
74. Giây xích cha mẹ và con cái nối dài cả thiên kỷ. Hai lần mỗi ngày - và mãi đến hôm nay - những lời cầu Sh’ma xưa của người Do Thái, một lời cầu được tìm thấy trong Đệ Nhị Luật:
Nghe đây, hỡi Isreal! Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng, hết linh hồn, và hết sức anh em. Những lời này tôi truyền cho anh em hôm nay, anh em phải ghi lòng tạc dạ. Hãy lặp lại những lời ấy cho con cái anh em, phải nói lại cho chúng lúc chúng trong nhà, cũng như lúc đi đường, khi chúng ngủ và khi chúng thức. 68
75. Chúng tôi nhắc lại: Hãy lặp lại những lời ấy cho con cái anh em. Trọng tâm của lệnh truyền này, trách nhiệm nền tảng này, là tái khẳng định mỗi ngày giao ước giữa Thiên Chúa và Israrel. Cha mẹ phải nuôi nấng và hướng dẫn con đi vào tương quan cộng đồng với Thiên Chúa. Điều mà Đệ Nhị Luật nói: nhắc lại và chia sẻ những vinh quang Thiên Chúa với con cái anh chị em. Chúa Giêsu nói giống như vậy với các môn đệ của Người: Hãy để chúng đến với Thầy. (Mt 19:14) Cả Chúa Giêsu và sách Đệ Nhị Luật đều đang nói với chúng ta. Cả hai đều nói: Để bảo đảm con cái dưới sự chăm sóc của anh chị em có được mối liên kết với Thiên Chúa và Dân Ngài. Hãy dậy các em cầu nguyện và suy niệm lời Chúa. Nuôi dưỡng điều này mỗi ngày trong nhà anh chị em, và không làm cản trở nó.
76. Ơn gọi này đem lại mục đích cho cha mẹ Công Giáo. Cùng một tình yêu đó chuyển đổi mau chóng những người đàn ông và đàn bà, dậy họ những con đường của giao ước và đem họ tới Bí Tích Hôn Phối, hướng dẫn một đôi vợ chồng thành một gia đình. 69 Người chồng và người vợ trở nên người cha và người mẹ: “Khởi đi từ hôn nhân của người Kitô hữu dẫn đến một gia đình, trong đó những người công dân mới của xã hội được sinh ra, những người do ân sủng của Chúa Thánh Thần đã lãnh nhận qua thánh tẩy được trở nên con Chúa, nhờ vậy nối tiếp dân Thiên Chúa qua các thế kỷ.” 70 Những người Kitô hữu có con không chỉ tiếp nối giòng dõi và xây dựng xã hội, nhưng toàn thể gia đình ấy phải được hình thành cho một cộng đoàn các thánh. Trong ngôn ngữ của Thánh Augustine, tình yêu sinh lý của người nam và người nữ “là mảnh đất, như nó là, của một thành phố,” 71 và cái ngài có trong đầu không phải là một thành phố của trái đất, một thành phố của xã hội dân sự, nhưng cũng là một thành phố thiên quốc, Giáo Hội đến từ bông hoa rực rỡ.
Đời sống trong giáo hội tại gia
77. Công Đồng Vaticanô II đã gọi gia đình là “giáo hội tại gia”, Ecclesia domestica:
Gia đình, vì thế được gọi là giáo hội tại gia. Trong đó cha mẹ bằng lời nói và gương sáng phải là những bậc thầy đầu tiên của đức tin đối với con cái; họ phải khuyến khích chúng trong ơn gọi phù hợp với mỗi người con, thúc đẩy chúng, một cách đặc biệt săn sóc cho ơn gọi tiến tới bàn thánh. 72
Ơn gọi tự nhiên của đời sống gia đình đòi hỏi sống với những quan tâm. “Tất cả cuộc sống con người được Thiên Chúa mời gọi thi hành một số bổn phận,” 73 nhưng, giống như xây dựng một hôn nhân, sự thấu triệt về một ơn gọi không “rơi xuống từ trời.” 74 Những thói quen nhận thức có thể được dậy dỗ và vun trồng. Nó là trách nhiệm của người mẹ và người cha với các con tại nhà và trong thánh đường, và thường xuyên cầu nguyện chung với nhau. Chúng sẽ không học làm sao để thực hiện nó, nếu các em không được dậy dỗ. Cha mẹ có thể tìm kiếm sự giúp đỡ từ những cha mẹ đỡ đầu, ông bà, thầy cô, linh mục, tu sỹ để giúp họ hoàn tất trách nhiệm và từ đó chính họ cũng có thể phát triển và học về cầu nguyện. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, một tu sỹ dòng Tên với nhiều năm đào luyện trong nghệ thuật vọng thức, diễn tả cầu nguyện và phân biệt ơn gọi đi chung với nhau như sau: “Điều quan trọng để có sự liên lạc hằng ngày với [Thiên Chúa], để lắng nghe Ngài trước Nhà Tạm và đi sâu vào chính mình, để nói với Ngài, để đến gần với các Bí Tích. Có được mối tương giao thân tình này với Chúa, giống như giữ cho cánh cửa sổ của đời sống chúng ta mở ra nhờ đó Ngài có thể làm cho chúng ta nghe được tiếng Ngài và nghe những gì Ngài muốn chúng ta làm.” 75
78. Thực hành và giáo dục nhận thức như một gia đình bao gồm nhẫn nại và cầu nguyện, một ước muốn mạnh mẽ để tinh luyện những nguyên nhân, để hòa giải và thống hối, để nhẫn nại trong công việc tiệm tiến lớn lên trong nhân đức, để mở tầm nhìn của chúng ta đối với Thánh Kinh và chứng từ của Giáo Hội, và để hiểu đời sống nội tâm của con người. Học nhận thức đối với chúng ta và chuyển nó cho các con của chúng ta là những công tác bao hàm sự khiêm nhường, cởi mở đối với sự phân tích lợi ích và hữu dụng, và trao đổi làm cách nào Chúa có thể hành động trong đời sống của chúng ta. Đem ơn gọi vào đời sống bao gồm thiện ý muốn trở nên thành thật với những ước muốn của chính mình, nhưng, trên tất cả, là dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa, mở lòng cho những bất ngờ và những dự án mới mà chúng có thể xẩy ra khi chúng ta nói “ý Chúa, không phải ý con”. Thánh Têrêsa de Lisieux đã cầu nguyện cách này như một trẻ nhỏ, “Lạy Chúa con, con chọn tất cả. Con không muốn nên thánh nửa vời, con không ngại đau khổ vì Chúa. Con chỉ sợ duy nhất một điều - là con theo ý riêng mình. Vì thế xin hãy nhận lấy, vì con đã chọn tất cả những gì mà Chúa muốn.” 77
79. Một cách đặc biệt khi gia đình có nhiều con nhỏ, cha mẹ đối diện với nhiều căng thẳng. Đây là sự đòi hỏi của bậc làm cha mẹ. Đúng vậy, nếu mục đích của đời sống gia đình Kitô hữu là mở cửa sổ gia đình cho ân sủng Thiên Chúa đi vào trong đời sống thường ngày, thì ngay khi ở giữa những mệt mỏi, và những hỗn loạn bên trong, cha mẹ có thể tiếp tục mở cửa cho Chúa Thánh Thần. Không ai muốn làm gánh nặng của cha mẹ nặng nề hơn. Nhưng “tình yêu linh thánh… không phải là cái gì được dành riêng cho những chuyện quan trọng, nhưng phải được tìm kiếm trước nhất trong những tình huống thông thường của cuộc sống.” 78 Trong cái mong manh của những giây phút như vậy, cha mẹ có thể khám phá những gì khi Thánh Phaolô có ý nói “chính khi tôi yếu đuối, là lúc tôi mạnh khỏe.” (2 Cor 12:10, NRSV)
80. Nuôi dưỡng con cái là cách thế làm giảm bớt những tự phụ, để làm chúng ta nhỉn ra rằng chúng ta không tự mình đầy đủ nhưng cần sự giúp đỡ và sức mạnh từ Thiên Chúa, gia đình, giáo xứ và bạn hữu. Cách thức một gia đình ứng phó với những bất hạnh và bệnh tật, hoặc tụ họp bên bàn ăn và cầu nguyện, hoặc những quyết định tài chính, và hoặch định những ưu tiên, hoặc hình thức gia đình thực hiện những chọn lựa giải trí, việc làm hoặc nghề nghiệp của cha mẹ, học vấn của con cái, ngay cả thói quen ngủ nghỉ - những điều này và những lãnh vực khác thường ngày của “kinh tế gia đình” hình thành những hình ảnh và những chân trời của con cái. Những thói quen trong gia đình có thể là “những nơi chốn bé nhỏ” ở đó Thánh Thần chiếu dãi vào, ở đó một cử chỉ nhẹ nhàng và lòng hiếu khách Kitô giáo lưu lại suốt cuộc sống.
Hiện tình văn hóa chúng ta đòi hỏi các gia đình phải biết phân biệt
81. Đức Giáo Hoàng Phanxicô diễn ta những ý tưởng này bằng một đường lối thực dụng:
Tôi nghĩ chúng ta tất cả tiến bộ một chút trong sự kính trọng này: bằng việc trở thành những người biết lắng nghe tốt hơn Lời của Chúa, để ít lời trong những ngôn từ của chúng ta, và giầu có hơn bằng Lời Ngài… Tôi nghĩ rằng những người cha và những người mẹ, những nhà giáo dục đặc biệt [của con cái]: Làm cách nào họ có thể giáo dục chúng nếu lương tâm chúng không được chiếu sáng bởi Lời của Thiên Chúa? Nếu cách chúng suy nghĩ và hành động không được hướng dẫn bởi Lời Chúa, lấy gương sáng nào họ có thể cho con cái của họ? Điều này quan trọng, bởi vì có những cha mẹ kêu ca: “Ôi! Đứa trẻ này…” Nhưng các bạn, chứng từ nào các bạn cho đứa trẻ? Làm cách nào các bạn nói với nó? Có bao giờ các bạn nói với nó về Lời Chúa chưa, hoặc về những tin trức trên truyền hình? Những người cha và những người mẹ cần phải nói về Lời Chúa! Và tôi nghĩ tới những giáo lý viên và tất cả những ai dấn thân trong việc giáo dục; nếu trái tim của họ không được sưởi ấm bằng Lời Chúa, làm sao họ có thể sưởi ấm trái tim người khác, của các em, của giới trẻ, của người lớn? Nhưng đọc Thánh Kinh mà thôi chưa đủ, chúng ta cần phải lắng nghe Chúa Giêsu trong đó… Chúng ta hãy tự hỏi mình… Lời Chúa chiếm vị trí nào trong đời tôi, trong sinh hoạt hàng ngày của tôi? Tôi nghe tiếng Chúa hay những tiếng vo ve hoặc chính tôi? Đây là câu hỏi mà mỗi người trong chúng ta cần tự hỏi chính mình.” 79
82. Đức Thánh Cha Phanxicô đã ám chỉ đến những tin tức trên TV, mà chúng ta thông thường dựa vào khi nêu lên vấn đề truyền thông đại chúng, truyền thông xã hội internet, và những hình thức khác của văn hóa đại chúng. Chú tâm đến những hình thức này của văn hóa không phải là cái gì mà có thể xẩy ra trên hệ thống định vị; để kết hợp những hình thức văn hóa một cách có hiệu quả, cũng đòi hỏi sự phán đoán. Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, trong phần thảo luận về giáo hội tại gia, ghi chú rằng thế giới hôm nay “thường xa lạ và ngay cả thù nghịch với đức tin.” 80 Trong một nền văn hóa phân hóa, nơi mà môi trường truyền thông và xã hội có thể xói mòn quyền bính cha mẹ một cách tổng quát, và đặc biệt bổn phận làm cha mẹ Công Giáo, cả cha mẹ và con cái cần phản ảnh trong cách sống của họ là ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian. 81
83. Khi bất cứ ai trong chúng ta - đặc biệt là trẻ em - va chạm với văn hóa, nó sẽ khuôn mẫu tư tưởng và tham vọng của chúng ta. Phần đông, tất cả chúng ta - nhưng đặc biệt là trẻ em - học biết những kỳ vọng của chúng ta về một đời sống tốt đẹp từ những hình ảnh, phim ảnh, âm nhạc, và những câu truyện trong đời sống chúng ta. Chính vì thế, tùy thuộc vào cha mẹ, đại gia đình, cha mẹ đỡ đầu, những người lớn tuổi khôn ngoan, và những nhà giáo dục để hướng dẫn cách thức trình bày này, và để chắc rằng những tưởng tượng của con cái được khuyến khích và nuôi dưỡng do của ăn luân lý lành mạnh, với chất liệu bảo vệ sự đơn sơ của chúng, cho chúng niềm khao khát về sự thích thú của đời sống Kitô hữu, và tiến tới đón nhận ơn gọi để sống. Vẻ đẹp và nhìn ngắm là một phần môi trường thông thường của một đứa trẻ vì thế các trẻ em có thể học để nhận ra chiều kích bí tích đối với thực tế. Các bậc cha mẹ, những người cao niên, những cha mẹ đỡ đầu, những thân nhân, những giáo dân của một giáo xứ, các giáo lý viên, và các thầy cô cần làm gương những điều này này cho các em. Nhận thức của tuổi trẻ cần thiết gồm “cuốn sách hiểu biết”. Khả năng đọc và viết tinh thần bao gồm biết những dữ kiện đề về đức tin. Nhưng còn quan trọng hơn nữa để dậy con cái biết cầu nguyện như thế nào, và cho chúng những gương sáng, những kiểu mẫu của các người lớn đối với chúng để làm chứng và khuyến khích chúng tiến tới.
84. Những trẻ em lớn hơn và những em vị thành niên có thể trở nên tự ý thức và phản tỉnh một cách thích hợp về nền văn hóa quanh mình, cũng như bắt đầu hình thành một viễn cảnh trưởng thành về cầu nguyện và nhận thức ơn gọi. Những chủ đề quan trọng này phải là một phần của việc chuẩn bị để đón nhận Bí Tích Thêm Sức, mà tự nó sẽ ban ơn để nâng đỡ người môn đệ trung thành trong những vấn nạn này. 82
Gia đình và giáo xứ tùy thuộc lẫn nhau
85. Dĩ nhiên Giáo hội tại gia (Ecclesia domestica) không thể tồn tại mà không có Giáo Hội (Ecclesia). Giáo hội tại gia bao hàm mối giây liên lạc đối với Giáo Hội hoàn vũ: “Gia đình là một ‘Giáo Hội nhỏ bé’, phải liên kết mật thiết với ‘Giáo Hội lớn’, đó là, vào trong gia đình của Thiên Chúa mà Chúa Kitô đã đến để thiết lập.” 83 Thường xuyên tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật với Giáo Hội hoàn vũ là một sine qua non cho giáo hội tại gia để hoàn tất cái tên của nó. Giáo Hội hoàn vũ là người cưu mang và là thầy của giao ước Thiên Chúa với Dân Ngài, cùng một giao ước mà nó cung ứng sức mạnh và bênh đỡ đời sống hôn nhân và gia đình.
86. Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã nói về giáo xứ như một “gia đình của các gia đình” nghĩa là “có thể chia sẻ với mỗi phần tử, không phải những vui mừng nhưng còn những khó khăn không thể tránh được khi bắt đầu đời sống gia đình.” 84 Dĩ nhiên, những bí tích và rất thông thường những hành động tay chân của lòng thương xót có thể trở thành thuận tiện một cách hữu dụng nhờ giáo xứ. Các trẻ em cần nhìn vào đời sống của cha mẹ và những người lớn qua chứng minh mối liên hệ với người nghèo khó và làm những việc phục vụ người nghèo. Các giáo xứ và các giáo phận có thể giúp cung cấp những cơ hội này. 85 Giáo hội tại gia phục vụ giáo xứ và được phục vụ bởi giáo xứ.
87. Giáo xứ, giáo phận và những tổ chức Công Giáo khác như các trường sở, các phong trào, và các hiệp hội, là chìa khóa đặc biệt đối với các trẻ em không có đủ cha lẫn mẹ. Trẻ em có thể không có một người hoặc cả cha lẫn mẹ vì nhiều lý do, bao gồm chết, bệnh tật, ly dị, di dân, chiến tranh, nghiện ngập và hút sách, bạo hành gia đình, ngược đãi, bắt bớ chính trị, thất nghiệp, hoặc nghèo túng do công ăn việc làm bấp bênh. 86 Buồn thay, một đôi khi những người chồng, những người vợ và những người cha, những người mẹ chia lìa nhau, với những lý do thường khiến chúng ta xót xa. “Thay đổi tình cảm đã khiến đau khổ cho con cái những vợ chồng ly tán, những đứa trẻ bỗng nhiên thấy mình ở với cha mẹ đơn chiếc hoặc trong một gia đình “mới” đặt ra một thách đố cho các giám mục, những giáo lý viên, những thầy cô, và tất cả những ai có trách nhiệm với tuổi trẻ… Nó không phải là câu hỏi đặt ra cho cha mẹ chúng, nhưng còn chung với chúng nữa.” 87
88. Để một giáo xứ chính thức trở thành một “gia đình của những gia đình” đòi hỏi những việc làm sáng tạo về hiếu khách và quảng đại. Thánh Gioan Phaolô II đã nói rằng “mở cửa của ngôi nhà một người, nhưng hơn nữa là mở trái tim người đó,” là một cách bắt chước Chúa Kitô. 88 Để cho đi sự giúp đỡ và đón nhận sự giúp đỡ là những việc làm thân thiện. Không ai, đặc biệt là một em nhỏ, những cha mẹ phấn đấu với những khủng hoảng không chờ đón, những người già cả yếu đuối, hoặc bất cứ một ai đang đau khổ, có thể bị lẻ loi trong gia đình giáo xứ. Không có sự thay thế nào cho những giáo hữu thường ngày đơn thuần trở thành bạn hữu và phục vụ nhau trong tuần, tiếp tục nhà thờ ngoài những sáng Chúa Nhật. Những giáo dân đối xử với nhau thế nào sẽ định giá giáo xứ đó có hoàn tất sứ vụ của nó bằng cách đó hay không. Viễn tượng này về đời sống của một giáo xứ phải được hướng dẫn và làm gương bởi giáo sỹ, dĩ nhiên một cách đặc biệt nơi những giáo xứ đông người, ở đó có thể là một cám dỗ đối với những người nặc danh. Nhưng, cuối cùng để làm một giáo xứ sống động trong cách này không thể là việc làm của giáo sỹ. Đây là tầm nhìn của đời sống giáo hội mà nó đòi hỏi người tín hữu. Thánh Phaolô đã nói với dân thành Galata rằng nếu anh em “mang lấy gánh nặng của nhau” thì anh em “sẽ hoàn tất lề luật của Chúa Kitô.” (Gal 6:2, NRSV) Do mối liên hệ, nếu chúng ta không mang lấy những gánh nặng của nhau, nếu chúng ta bỏ rơi những gia đình có vấn đề và những người độc thân đang giam mình trong cô đơn, thì chúng ta đang mau chóng tự bán mình. Nếu lối sống chúng ta không đặt trên sự hiệp thông và phục vụ, thì chúng ta không thể phát triển. Chúng ta được tạo dựng cho người khác, và sống như buồn phiền không có thật, một cách thua thiệt để hoàn tất luật hiến trao mạng sống của Chúa Kitô.
89. Hiếu khách đối với những trẻ em bơ vơ sẽ làm dấy lên một cách tự nhiên câu hỏi về việc nhận con nuôi. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói với một hội nghị các gia đình nhận con nuôi như sau:
Nhận nuôi một em nhỏ là một hành động cao cả của tình yêu. Khi việc này đã hoàn tất, thì cho đi nhiều, nhưng cũng nhận lại nhiều. Nó đúng là một việc trao đổi những tặng vật.
Trong lãnh vực này, bất hạnh thay, ở thời đại chúng ta thấy có nhiều mâu thuẫn. Mặc dù con số những trẻ em do cái chết của cha mẹ hoặc do sự bất lực của cha mẹ, bị bỏ rơi không gia đình, còn lại quá nhiều cặp vợ chồng quyết định không có con thường là vì những lý do ích kỷ. Một số khác để mình bị nhát đảm vì kinh tế, xã hội, hoặc những khó khăn hành chính. Số khác còn lại trong ước muốn có con “tự mình” bằng mọi giá, đi vượt khỏi sự giúp đỡ chính đáng của y khoa có thể cung ứng trong việc sinh sản, ngay cả những phương pháp đối với những ứng dụng sai trái một cách luân lý. Liên quan đến những khuynh hướng này, phải nói rằng những cách thức của luật luân lý là những nguyên tắc hơi trìu tượng, nhưng lại bảo đảm cho con người tốt thực sự, và trong trường hợp này, cái tốt của một đứa trẻ với sự tôn trọng đối với những quan tâm của cha mẹ. 89
Thánh Gioan Phaolô II hy vọng rằng “Các gia đình Kitô giáo sẽ có thể cho thấy những sẵn sàng
lớn hơn để nhận nuôi những đứa trẻ không cha mẹ hoặc bị cha mẹ bở rơi.” 90 Người ta có thể mạo hiểm với hy vọng này bởi vì tình yêu mà nó làm sống động hôn nhân Kitô giáo là giao ước của Thiên Chúa, một tình yêu trong đó sẵn sàng đón tiếp một cách vĩnh viễn và đổ đầy với sự sống.
90. Sự thân mật tính dục giữa những người đàn ông và những người đàn bà nêu lên thực trạng về con cái. Không có sự liên kết nào mang theo tình trạng căn bản, cơ thể và sinh vật học này. Hôn nhân giữa một người đàn ông và một người đàn bà đem cơ hội sinh sản này vào trong một ý nghĩa thiêng liêng. Cha mẹ là một ơn gọi tinh thần, vì nó mang ý nghĩa căn bản chuẩn bị con cái chúng ta thành những vị thánh. Tham vọng gắn kết này đem đến lòng khiêm nhường nhưng là những thực hành quan trọng trong gia đình giống như cầu nguyện và vun trồng tình trạng tinh thần. Nó đòi hỏi cha mẹ phải quan tâm đến cách thức gia đình liên hệ trong một nền văn hóa rộng lớn hơn. Giới thiệu Thiên Chúa cho con cái có nghĩa là một giáo hội tại gia sẽ muốn liên kết với giáo xứ cũng như Giáo Hội hoàn vũ rộng lớn hơn. Những thách đố của đời sống gia đình hòi hỏi sự giúp đỡ - không một gia đình nào có thể tự chính mình phát triển. Để phát triển, những gia đình cần những giáo xứ, và những giáo xứ cần chúng. Người giáo dân cần để thiết lập và phục vụ những sứ vụ này.
NHỮNG CÂU HỎI ĐỂ THẢO LUẬN ________________________________
Links:
[1] http://thanhlinh.net/node/6815