Sứ vụ của chúng ta - Chương 1 Được tạo dựng để vui mừng
I. ĐƯỢC TẠO DỰNG ĐỂ VUI MỪNG
Chúng ta còn hơn một sự ngẫu nhiên của tiến hóa. Chúng ta cao cả hơn tổng hợp sinh vật học của chúng ta. Thiên Chúa hiện hữu. Ngài tốt lành. Ngài yêu thương chúng ta. Ngài tạo dựng chúng ta theo hình ảnh Ngài để chia sẻ niềm vui của Ngài. Ngài dùng cánh tay hành động trong đời sống chúng ta. Ngài sai người Con duy nhất để tái lập lại tước vị của chúng ta và hướng dẫn chúng ta về nhà với Ngài.
Một chương trình cho sự sống và tình yêu nâng đỡ chúng ta
1. Giáo Huấn Công Giáo về hôn nhân và gia đình bắt nguồn từ tâm điểm của đức tin chúng ta. Vì lý do này, chúng ta có thể khởi đầu bằng cách nhìn lại câu chuyện căn bản của Giáo Hội. Thiên Chúa chúng ta không thể không tới gần và xa cách; chúng ta tin rằng Thiên Chúa mặc khải chính Ngài trong Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu là nguồn mạch cho hy vọng, niềm tin, tình yêu, và vui mừng là những gì đem lại sinh khí đời sống gia đình Công Giáo. Ngài là lý do chúng ta có thể tin vào sự khôn ngoan của niềm tin Công Giáo. Tất cả những gì chúng tôi trình bày trong cuốn giáo lý này xuất phát từ chính Chúa Giêsu. 1
2. Như Đức Giáo Hoàng Phanxicô gần đây đã nói về đời gia đình, “Đoan hứa tình yêu chung thủy là điều có thể khi chúng ta nhận ra một dự án lớn lao hơn những gì chúng ta nghĩ và những gì chúng ta chịu đựng, một dự án mà nó nâng đỡ chúng ta và cho chúng ta có thể trao phó hoàn toàn tương lai chúng ta cho người mình yêu.” 2 Nhưng chúng ta sống trong một thời điểm của chủ thuyết khoa học hoài nghi (skepticism) một cách thế tục xâu xa về bất cứ “dự án to lớn hơn” hoặc mang ý nghĩa cao cả hơn nào đối với kinh nghiệm con người. Đối với nhiều người, con người tự nhiên nhỏ bé hơn một sự tiến hóa ngẫu nhiên, những nguyên tử carbon với một dáng dấp bên ngoài. Một cách khác, đối với nhiều người, chúng ta không có mục đích cao hơn những gì chúng ta tạo nên cho chính mình.
3. Trong một kỷ nguyên của kỹ thuật tiến bộ và phồn thịnh vật chất, hình thức lý lẽ không có Thiên Chúa này có thể được xem là chính đáng. Những kết cục của nó, chỉ là một viễn ảnh quá nhỏ bé về con người đàn ông cũng như đàn bà mà chúng ta là. Nó làm giảm giá trị phẩm giá con người. Nó để lại một cơn đói cho những tâm hồn đang đói khát. Nó không phải là thật.
4. Thực ra, chúng ta thao thức về ý nghĩa. Tìm kiếm mục đích, là một kinh nghiệm của mọi người. Vì vậy, con người luôn luôn hỏi câu hỏi căn bản giống như: “Tôi là ai?”, “Tại sao tôi có mặt ở đây?”, “Tôi phải sống như thế nào?” Đức tin Kitô Giáo nhập vào Miền Địa Trung Hải cổ xưa, hòa trộn với văn hóa Hy Lạp, Rôma, Do Thái, và những nền văn hóa khác. Nó là một thế giới ở đó có nhiều câu trả lời khác nhau đối với những câu hỏi căn bản về cuộc sống để tranh dành ưu thế.
5. Tình trạng của chúng ta ngày nay cũng tương tự. Như trong thế giới cổ đại, những nền văn hóa hôm nay chồng chéo, và hòa nhập với nhau. Do đó mà bây giờ, những triết lý về đời sống tranh dành, đưa ra những viễn ảnh khác nhau của cái gì làm cho đời sống trở nên tốt. Cùng một lúc, đau khổ và nghèo đói cũng vậy, và cả đến chủ thuyết ngờ vực - nơi một số nền văn hóa - tới bất cứ tôn giáo hoặc triết lý nào nói là đưa ra sự nối kết và hiểu biết chân lý.
6. Với quá nhiều những câu trả lời trái ngược, thời đại của chúng ta là thời đại nghi hoặc, mập mờ. Nhiều người ngày nay thật lòng tìm kiếm ý nghĩa của nó, nhưng không biết ai để tin tưởng hoặc ở đâu để ký thác cuộc sống của họ.
7. Nhận thức bất ổn này, Kitô hữu là những người tin vào Chúa Giêsu Kitô.3 Mặc dù có những mập mờ về lịch sử con người, đường lối hy vọng và vui mừng, yêu thương và phục vụ của Công Giáo đặt nền móng trên sự gặp gỡ với Chúa Giêsu. Như Thánh Gioan Phaolô II đã công bố trong thông điệp đầu tiên của ngài: “Trong lịch sử con người, mặc khải tình yêu và lòng thương xót đã mặc lấy hình dạng và một tên gọi: đó là Giêsu Kitô.”4 Tất cả những gì theo sau đó, Chúa Giêsu Kitô là căn bản của đức tin Kitô giáo. 5
Chúa Giêsu mặc khải Thiên Chúa, và dự án bắt đầu được khai mở
8. Trong Thánh Kinh, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ của Ngài: “Các con gọi Ta là ai?” (Mt 16:13-20). Lịch sử nhân loại trải qua 2000 năm đã khai mở câu trả lời. Các Kitô hữu là những người, đã từng gặp gỡ Chúa Giêsu bằng nhiều cách thế - qua những chứng từ của các thánh và các tông đồ, qua Kinh Thánh, và các bí tích, trong lời cầu nguyện và việc phục vụ những người nghèo khổ, trong thờ phượng và qua các bạn bạn hữu và gia đình - đã có thể tin vào Chúa Giêsu, và người mà Thánh Phêrô đã nói: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16:16, NRSV).
9. Giữa nhiều việc Ngài đã làm trên trái đất, Chúa Giêsu đã đau khổ và điều này đã được lưu lại trong tình yêu; Chúa Giêsu đã bị đóng đinh do bàn tay con người và đã sống lại chiến thắng trên sự chết. Bởi vì chính Thiên Chúa đã chịu những đau khổ này, các Kitô hữu tin rằng Thiên Chúa không xa cách thân phận con người. Chúng ta không tin ở một vị chúa kỳ cục, hoặc một thần minh tranh dành với con người. Thiên Chúa trong Người chúng ta tin tưởng muốn chúng ta phát triển. Nhờ Chúa Giêsu Kitô, những người Công Giáo có được niềm tự tin vào tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Đức Thánh Cha Phanxicô đã diễn tả trong thông điệp thứ nhất của ngài:
Với những ai đang đau khổ, Thiên Chúa không đưa ra những cuộc tranh luận để giải thích mọi sự; hơn thế, lời Ngài đáp trả chính là sự đồng hành hiện tại, một lịch sử của sự thiện mà nó đã động chạm đến những mẩu chuyện đau thương và mở ra một luồng sáng. Trong Chúa Kitô, tự mình, Thiên Chúa ước muốn được chia sẻ con đường này với chúng ta và cho chúng ta cái nhìn của Ngài để chúng ta có thể nhìn thấy ánh sáng trong đó. Chúa Kitô là Đấng nhẫn nại trong đau khổ, là Đấng “tiên phong và tuyệt vời của đức tin chúng ta”. 6
10. Một nghĩa nào đó, tất cả nền thần học Kitô giáo là chú giải những gì để nói rằng Thiên Chúa trở thành con người, đã chết, và đã sống lại. Thiên Chúa hiện diện trong xác thân con người trong Chúa Giêsu có nghĩa rằng Đấng Tạo Hóa tuyệt vời của thế giới thì cũng là người Cha gần gũi, thân mật, một cách hoàn toàn dễ cảm của chúng ta. Thiên Chúa Ba Ngôi sẽ luôn luôn là một mầu nhiệm vô tận, và cũng một Thiên Chúa đó đã trở thành một con người đặc biệt trong một thời gian đặc biệt và nơi chốn cá biệt. Thiên Chúa đã trở nên yếu đuối như một trẻ thơ trong máng cỏ hoặc một người trên thập giá. Chúa Giêsu đã giảng dậy và nói năng, đã cười và khóc; cuộc sống của Ngài, cái chết của Ngài, và sự phục sinh của Ngài có nghĩa là trong khi Thiên Chúa một cách hoàn toàn lạ lùng, khó lòng giải thích và thấu triệt, Ngài không khó lòng để hiểu. Đó là Chúa Giêsu, Đấng mà chúng ta có thể nói về Thiên Chúa và sự thật thần linh với niềm xác tín.
11. Chúa Giêsu đã nói về Ngài như Con của Chúa Cha, và với Cha Ngài, đã sai Chúa Thánh Thần ở với dân Ngài. Nhờ đó chúng ta học nơi Ngài rằng bản tính của Thiên Chúa là sự hiệp nhất nội tại của ba ngôi vị thần linh. Cha, Con và Thánh Thần. Qua bí tích thánh tẩy để gia nhập Giáo Hội Ngài, Chúa Giêsu mời gọi mọi người trở nên phần tử giao ước của Thiên Chúa và phần tử của sự hiệp nhất thần linh. Lịch sử của Israel, và sau này của Giáo Hội, là một lịch sử với ý nghĩa ý toàn cầu, vì nó là một dấu hiệu để sống như dân Chúa và tham dự trong sự hiệp thông thần linh.
Chúa Giêsu mặc khải căn tính và định mệnh con người
12. Chúa Giêsu mặc khải Thiên Chúa là ai, bao gồm Chúa yêu thương chúng ta và đến với chúng ta. Nhưng Chúa Giêsu cũng mặc khải con người là gì. Công Đồng Vaticanô II trình bày về Chúa Giêsu như “Lời” của Thiên Chúa, dậy rằng “Sự thật là chỉ có mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể đem lại ánh sáng cho mầu nhiệm con người.” 7 Trong Chúa Giêsu Kitô, chúng ta học những sự thật về chính chúng ta, những điều mà chúng ta đã không thể phát minh, và những điều mà chúng ta nếu không cũng chẳng thể hiểu được. Như Thánh Kinh đã ghi nhận, “sự sống anh em được ẩn dấu với Chúa Kitô.” (Col 3:3, NRSV). Người Công Giáo tin rằng Thiên Chúa quá yêu thế gian (Jn 3:16), rằng không để chúng ta trong nghi ngờ, Thiên Chúa đã mặc xác phàm để tỏ ra Thiên Chúa là ai và chúng ta là ai. Công Đồng Vaticanô II giải thích:
Lý do chính về phẩm chức con người nằm trong ơn gọi con người để hiệp thông với Thiên Chúa. Từ tình trạng rất nguyên thủy của nó, con người đã được mời gọi để quay về với Thiên Chúa. Vì con người sẽ không tồn tại nếu nó không được tạo dựng bởi tình yêu Thiên Chúa và một cách không ngừng được giữ gìn; và nó không thể sống một cách trọn vẹn theo chân lý ngoại trừ nó nhận biết một cách tự do để yêu mến và tận hiến chính mình cho Đấng Tạo Hóa của nó. 8
Như Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã huấn dụ trong Đại Hội Gia Đình Thế Giới ở Milan năm 2012, “Chính tình yêu đã làm cho con người tự nhiên trở nên hình ảnh xác thật của Ba Ngôi Chí Thánh, hình ảnh của Thiên Chúa.” 9
13. Cụm từ “hình ảnh của Thiên Chúa” xuất phát từ sách Khởi Nguyên (Gen 1:26-27, 5:1, và 9:6). Điều này gợi ý rằng mỗi một cá nhân rất quí giá với sự cá biệt và phẩm giá không thể coi thường. Chúng ta có thể lạm dụng hoặc lợi dụng người khác hay chính mình, nhưng chúng ta không loại trừ sự thật về việc Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta như thế nào. Phẩm cách căn bản của chúng ta không căn cứ trên những sa ngã hoặc thành đạt của chúng ta. Sự thiện hảo của Thiên Chúa và tình yêu của Ngài đối với chúng ta đi trước và là căn bản vượt xa hơn bất cứ tội lỗi nào của con người. Hình ảnh Thiên Chúa sống động trong chúng ta, dù chúng ta chấp nhận hay không chấp nhận nó. Được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa nói lên rằng sự vui mừng thật của chúng ta hoàn toàn nằm trong sự hiểu biết, yêu mến, và phục vụ tha nhân như Chúa đã làm.
14. Nói về người nam và người nữ như “hình ảnh Thiên Chúa” có nghĩa rằng chúng ta không thể nói về con người mà không tham chiếu từ Thiên Chúa. Nếu bản tính Thiên Chúa là sự hiệp nhất của Ba Ngôi - Cha, Con, và Thánh Thần - và nếu chúng ta được tạo dựng nên theo hình ảnh đó, thì bản tính của chúng ta là tùy thuộc lẫn nhau. Để trở thành một con người, chúng ta cần sự hiệp thông. 10 “Để trở thành một người theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa, vì thế, cũng liên quan đến sự hiện hữu trong tình thân và tương quan với người khác.” 11 “Tôi”, để trở thành chính chúng ta, chúng ta cần đến người khác, và chúng ta cần Chúa. Chúng ta cần người để yêu, và được yêu. Để trở thành con người mà chúng ta được tạo thành, chúng ta phải hy sinh chính mình cho anh chị em của chúng ta. “Là một con người… không chỉ chiếm hữu ‘qua quà tặng trân quí của cái tôi’ Mô hình cho hoạt động trao đổi chung của con người là chính Thiên Chúa, như Ba Ngôi, như một sự hiệp nhất trong các Ngôi. Để nói được con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Thiên Chúa có nghĩa là con người được mời gọi để hiện hữu ‘vì’ người khác, và trở thành một tặng vật cho người khác.” 12 Để cứu mạng sống của mình, chúng ta phải mất nó vì Chúa (Mt 10:39, 16:25). Lối diễn tả thần học về con người này sẽ là bản thảo dự án cho toàn bộ thần học luân lý, bao gồm giáo huấn của Giáo Hội về gia đình.
15. Chúng ta có thể không quan tâm đến những ảo ảnh về việc tự cho mình là đầy đủ. Nhưng chúng ta đã được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa - và nếu chúng ta muốn sống như những người con trai, con gái của Thiên Chúa mà chúng ta là, thì chúng ta phải chấp nhận lời dậy của Ngài để yêu mến Ngài và yêu thương láng giềng. Cũng như Chúa Giêsu đã mặc khải bản tính của Thiên Chúa qua tình yêu và sự hy sinh của Ngài, cũng vậy, chúng ta phải chấp nhận một cách sâu thẳm sự thật con người mình khi bước vào những mối tương quan của tình yêu và phục vụ với anh chị em chúng ta và trong việc thờ phượng Thiên Chúa.
16. Như Công Đồng Vaticanô II đã ghi trong khi tranh luận về phẩm giá con người, nhiều nhà vô thần tin rằng “nguyên nhân khoa học” một mình có thể nói với chúng ta về tất cả những gì chúng ta cần để biết về chính mình, mà không cần tham khảo bất cứ điều gì bên ngoài thế giới tự nhiên. 13 Nhưng người Công Giáo coi thần học này là căn bản nhân chủng học; nói một cách khác, chúng ta tin rằng hiểu biết về Thiên Chúa và mục đích sáng tạo của Ngài rất quan trọng đối với bất cứ tường thuật đầy đủ nào về con người. Người Công Giáo tin rằng mặc khải về chính Ngài của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu đem chúng ta lại với chính mình, mặc khải sự thật chúng ta là ai, tiết lộ rằng - một cách chính yếu nhất - chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa là căn bản cho căn tính của chúng ta, và căn bản hơn bất cứ những băn khoăn nào, tham vọng nào, hoặc vấn nạn nào mà chúng ta có thể có. Như Thánh Gioan Phaolô II đã dậy trước đây trong triều đại giáo hoàng của ngài, “Người nào ước muốn hiểu biết một cách đầy đủ về mình - và không chỉ do trực tiếp, từng phần, thường xuyên nông cạn, và ngay cả những tiểu chuẩn và đo lường về con người của nó - nó phải bao gồm sự băn khoăn, lưỡng lự, và ngay cả những yếu đuối và tội lỗi, với sự sống và cái chết của nó, để đến gần Chúa Kitô.” 14
17. Khi dậy về hôn nhân, chính Chúa Giêsu hướng tới dự án và mục đích tạo dựng của Thiên Chúa. Khi những Pharisiêu chất vấn Chúa Giêsu bằng câu hỏi về ly dị, câu trả lời của Ngài nhắc lại rằng Thiên Chúa đã tạo dựng con người có nam và có nữ, và rằng người chồng và người vợ trở nên một huyết nhục.15 (Mt 19:3-12, Mk 19:2-12). Một cách tương tự, khi Tông Đồ Phaolô viết cho người Côrinthô về đạo đức tính dục, ngài đã nhắc họ về sự hiệp nhất nên một thân xác của người đàn ông và đàn bà trong tạo dựng. (1 Cor 6:16) Khi ngài viết cho người Êphêsô về hôn nhân, một lần nữa ngài nhắc họ về sự kết hợp này, và nói với họ rằng nó là một “mầu nhiệm cao cả” liên quan đến Chúa Kitô và Hội Thánh (Eph 5:32). Viết cho giáo đoàn Rôma, ngài nói về bản thể Thiên Chúa và sẽ được mặc khải qua việc tạo dựng, và nói về tội lỗi - bao gồm tội dâm dục - mà nó dấy lên từ hành động chối bỏ sự hiểu biết của chúng ta về đấng tạo hóa. (Rom 1:18-32)
Tình yêu là sứ vụ của gia đình
18. Giờ đây đã rõ ràng tại sao “tình yêu là sứ vụ của chúng ta” là đề tài cho Đại Hội Gia Đình Thế Giới 2015. Một trong những tài liệu của giáo hoàng đặc biệt nhất về đời sống gia đình của thế kỷ 20 - Familiaris Consortio, một lần nữa của Thánh Gioan Phaolô II - đã tóm lược giáo huấn Công Giáo về Thiên Chúa và bản tính con người qua niềm tin Công Giáo để chúng ta phải sống thế nào:
Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh và giống Ngài: mời gọi con người để hiện hữu qua tình yêu. Ngài gọi con người cùng lúc cho tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu và trong chính Ngài, Ngài sống mầu nhiệm tình yêu ngôi vị hiệp thông. Tạo dựng loài người theo hình ảnh của chính Ngài và tiếp tục giữa cho nó hiện hữu. Thiên Chúa ghi trong lòng người nam và người nữ ơn gọi, cùng với khả năng và lời đáp trả của tình yêu và hiệp thông. Vì thế, tình yêu là căn bản và là ơn gọi thiên phú của mọi người. 16
Tình yêu Thiên Chúa không ngừng thôi thúc chúng ta. Chúng ta không thể bị thu hồi ơn gọi này. Chúng ta đã được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, và mặc dù sự thật của tội lỗi con người, ơn gọi bao hàm trong việc tạo dựng của chúng ta không thể bao giờ bị tẩy xóa.
19. Những viễn cảnh Công Giáo về hôn nhân, gia đình, và tính dục thuộc về sứ vụ rộng lớn hơn để sống theo cách thức làm cho tình yêu Thiên Chúa được nhận biết và sáng chói, để sống sứ vụ này hầu làm cho cuộc sống thường ngày sống với sự vui mừng của Thiên Chúa. Con người đầy đủ - thân xác và linh hồn của chúng ta nam hay nữ và tất cả những gì thuộc về nó - được bao gồm trong lời mời gọi của Thiên Chúa. Chủ đề cho Đại Hội Gia Đình Thế Giới này là “gia đình sống một cách trọn vẹn”, và tốt lành. Đời sống gia đình được trọn vẹn đầy đủ khi chúng ta đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa để trở nên những người con trai, con gái mà Ngài đã tạo dựng.
20. Kỷ nguyên của chúng ta lời thời gian nghi ngờ và hoang mang. Chúa Giêsu là chiếc neo đáng tin cậy. Phẩm giá con người nghỉ yên một cách an toàn trong Chúa Giêsu. Thiên Chúa làm người. Chúa Giêsu mặc khải Thiên Chúa là ai và chúng ta là ai. Trong Chúa Giêsu, chúng ta gặp gỡ một Thiên Chúa, Đấng đã vươn đến chúng ta, Đấng đã thiết lập sự hiệp thông và mời gọi chúng ta chia sẻ niềm vui của Ngài. Chúng ta được tạo nên theo hình ảnh của Thiên Chúa và được mời gọi để hiệp thông với Ngài và với nhau. Tình yêu này đem lại mục đích và định hình tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống con người, bao gồm gia đình.
NHỮNG CÂU HỎI ĐỂ THẢO LUẬN ______________________________________
c ) “Được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa” nghĩa là gì? Có thể hiểu được căn tính con
người ngoài Thiên Chúa không? Tại sao có và tại sao không?
Links:
[1] http://thanhlinh.net/node/6815