Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Bài 16

 

 

VÀI NÉT VỀ
CANH TÂN ĐẶC SỦNG CÔNG GIÁO


TÀI LIỆU * LỜI CHỨNG * CẢM NGHIỆM

 

 

BÀI 16: LỜI CHỨNG CỦA CHA RICHARD WANG, SJ


Cha Wang thuộc Dòng Tên, hiện là
Phó Giám Đốc Trung Tâm Giáo Dục tại Đài Bắc, Đài Loan.



Năm 1962, sau bốn năm gia nhập Dòng Tên, tôi học xong chương trình tiểu chủng viện và đang đợi lấy Visa sang Phi Luật Tân để học triết. Vào cuối tháng Ba, tôi cùng một số bạn học đi tham dự tĩnh tâm tại Changhwa. Tôi còn nhớ rất rõ là trong người đầu của khóa tĩnh tâm này, trong giờ ăn trưa, tôi ngồi im lặng tại bàn ăn để lắng nghe và đọc sách. Tôi đọc câu này trong cuốn sách: “Chúa Giêsu muốn bước vào và hoạt động trong đời sống chúng ta mỗi ngày nếu chúng ta cho phép Ngài.” Câu giản dị này đã đánh mạnh vào tôi như tiếng sét, và tôi cảm nghiệm tràn ngập tình yêu của Chúa Giêsu. Bỗng nhiên tôi cảm thấy Ngài sống trong tâm hồn tôi và đang trò chuyện với tôi. Tôi không thể cầm được giòng lệ trào ra trên đôi mắt. Tôi hoàn toàn bị chinh phục bởi tình yêu của Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha. Không có gì khác quan trọng cho tôi trong lúc đó.


Tất cả khóa tĩnh tâm đối với tôi như là tuần trăng mật. Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong tâm hồn tôi làm cho tôi như người mất trí. Ngài luôn hiện diện và trò chuyện với tôi trong âu yếm và bình an. Gài dẫn đưa tôi vào sự trầm ngâm cầu nguyện. Tôi không còn để ý nhiều đến những bài thuyết giảng nữa. Bao lâu tôi tỉnh thức, tôi chỉ trầm ngâm suy tưởng về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể và lòng tôi đầy tràn lửa mến yêu Thiên Chúa Cha. Buổi chiều, sau khi dùng bữa với Chúa Giêsu tôi thường đi dạo trong vườn, lòng suy tưởng về mọi loài tạo vật, về vũ trụ, về những công trình tác tạo của Chúa Cha.



Vào thời gian đó tôi chưa có thể dùng danh từ nào để nói về cảm nghiệm của tôi vì Canh Tân Đặc Sủng chưa hội nhập vào Giáo Hội Công Giáo. Tôi chỉ biết rằng Thiên Chúa đã ban cho tôi một ân sủng quá lớn lao và cho tôi cảm nghiệm được tình yêu không thể nào diễn tả của NgàiChín năm sau tôi gặp gỡ Canh Tân Đặc Sủng, và tôi bắt đầu hiểu rằng cảm nghiệm tôi có được là do Chúa Thánh Linh tuôn đổ vào lòng tôi. Đó là ngã rẽ đời sống tinh thần của tôi. Chúa Giêsu đã thực sự sống động trong tôi. Ngài sống trong trái tim tôi và luôn trung tín với tình yêu của Ngài. Từ đó, trong suốt hai mươi bốn năm qua, không bao giờ Ngài bỏ tôi cô đơn. Ngài luôn là người Mục Tử Tốt Lành. Ngài dẫn đưa tôi qua biết bao đỉnh núi cuộc đời và qua những lối đi u tối trong thác ghềnh của sự chết.


Một tháng sau khóa tĩnh tâm đó tôi sang Phi Luật Tân. Cảm nghiệm trăng mật của khóa tĩnh tâm bỗng dưng giảm xuống thật nhanh rồi ngừng hẳn. tình trạng cô đơn phiền muộn trong đời sống tâm linh và những khó khăn tâm lý lại bắt đầu xuất hiện trong tôi. Phải mất nhiều năm tôi mới được chữa lành, tẩy luyện, và phục hồi sức khỏe trong tình yêu của Chúa Giêsu.



Để hiểu được diễn tiến như thế nào, thiết tưởng tôi cũng nên nhìn lại đời sống của tôi trước khi tham dự khóa tĩnh tâm.
Tôi sinh ra tháng 6 năm 1934, và là con trai trưởng. Cả hai cha mẹ tôi đều được giáo dục trong nền văn hóa tân tiến không có niềm tin tôn giáo. Cha tôi là người theo truyền thống Khổng học. Ông chỉ cố gắng sống đời sống tốt lành ngay thẳng. Theo giáo huấn của Khổng học, là một người đàn ông Trung Hoa, cha tôi thường sống nghiêm nghị hơn là học hỏi để biểu lộ tình cảm ra bên ngoài. Ông ngoại tôi du học bên Pháp về môn chế tạo các dụng cụ đo lường. Mẹ tôi được gửi học ở một trường trung học Tin Lành, nhưng dường như bà cũng chẳng học hỏi gì nhiều về Kitô giáo. Khi cha mẹ tôi kết hôn, ông bà sống ở Hán Khẩu, một thành phố ở bên bờ sông Dương Tử miền trung Hoa Lục, nơi đó tôi đã sinh ra. Một năm rưỡi sau em trai tôi sinh ra đời. Khi chiến tranh bùng nổ năm 1937, chúng tôi phải di chuyển đến Trùng Khánh, thủ đô chiến tranh, và chúng tôi đã sống ở đó 8 năm.



Trong những năm chiến tranh, cha tôi làm việc tại thành phố, còn chúng tôi phải sống ở miền quê để tránh những cuộc ném bom của Nhật. Chỉ hai ba tuần lễ tôi mới được gặp lại cha tôi. Sự thiếu vắng này và những khó khăn trong cuộc sống hôn nhân của cha mẹ tôi đã gây cho tôi vết thương sâu đậm.
Khi chiến tranh Hoa-Nhật chấm dứt, tôi mới 11 tuổi. Khoảng tám tháng sau toàn bộ gia đình tôi di chuyển về Nam Kinh. Bây giờ nhìn lại, thời gian đó tôi là một thiếu niên mang nhiều mạc cảm tự ti, nhưng bề ngoài tôi là một học sinh trung học thông minh, nhiều tài năng, và sống hạnh phúc.



Vào cuối năm 1948, quân đội Cộng Sản tràn tới Nam Kinh, gia đình tôi phải di tản sang Đài Loan. Hai năm đầu tiên, chúng tôi sống tại Đài Trung. Đầu năm 1951, gia đình tôi dọn về Đài Bắc. Bởi vì học phí ở Đài Bắc cao hơn ở Đài Trung, tôi không có đủ tiền theo học lớp Anh văn nên ba tôi phải tìm kiếm xin người khác và em trai tôi giúp đỡ một phần. Một trong số những người bạn của ba tôi giới thiệu tôi đến lớp học của một nữ tu Hoa Kỳ thuộc Dòng Bênêdictin. Đây là lần đầu tôi tiếp xúc với Giáo Hội Công Giáo. Mùa nghỉ hè năm 1951 bà mở một lớp giáo lý dạy bằng tiếng Anh. Tôi và em tôi cùng theo học lớp này. Sau Lễ Giáng Sinh năm đó, tôi bắt đầu được sự hướng dẫn của một linh mục người Trung Hoa. Và rồi tôi được rửa tội vào tháng 6 năm 1952, vào lúc tôi vừa học xong chương trình trung học.

 


Tháng 9 năm 1952 tôi vào Trường Đại Học Quốc Gia Đài Loan, học về môn kỹ sư cơ khí. Bỗng dưng tôi trở thành một người hoạt động trong Hội Sinh Viên Công Giáo. Vào tháng Giêng năm 1953, trong suốt thời gian nghỉ học mùa đông, chúng tôi tham dự khóa tĩnh tâm ba ngày. Và đây là lần đầu tôi có cảm nghiệm mơ hồ như là Chúa Giêsu kêu gọi tôi làm linh mục. Lúc đó thật sự tôi không hiểu ý nghĩa của ơn gọi, nên sau khóa tĩnh tâm tôi đã chẳng để ý nhiếu đến vấn đề này. Hai năm sau, một ngày nọ từ trường học trở về nhà, tôi nảy ra ý nghĩ trong đầu là tôi cần phải nói chuyện với một người nào đó về vấn đề trở thành linh mục. Tôi đã đến xứ đạo của tôi, xứ Holy Family Church ở Đài Bắc và tôi đã kiếm được một linh mục làm linh hướng cho tôi.



Sau khi tốt nghiệp đại học tôi phải phục vụ trong Quân Đội 18 tháng, và được giải ngũ tháng 3 năm 1958. Sau khi tham dự khóa tĩnh tâm 3 ngày, tôi đã nói với ba mẹ tôi về ơn gọi của tôi. Ba mẹ tôi đều tán thành ngay và cho phép tôi được gia nhập Dòng Tên. Tôi gửi đơn đến Cha Tĩnh Dòng, và cuối tháng 8 cùng năm đó tôi được nhận vào tập sự tại Dòng Tên. Tôi là chủng sinh Trung Hoa đầu tiên của Đài Loan. Lúc đó tôi xem ra như một thanh niên hạnh phúc, hoạt động và hướng ngoại, nhưng thật ra trong con người tôi dấu ẩn nhiều vấn nạn tinh và tâm lý. Nếu tôi bị trắc nghiệm tâm lý trước khi nhập Dòng thì có thể đã bị từ chối.


Mùa hè năm 1963, trong khi đang học khóa tâm lý tổng quát, tôi đã đọc cuốn sách mang tên Newrosis and Human Growth (Chứng loạn thần kinh và sự tăng trưởng của con người) của Karen Horney. Tôi đọc hết cuốn sách này và tự nói một mình, “nếu phải viết một bài về tình trạng tâm lý của mình thì không thể nào viết ra đầy đủ và rõ ràng hơn cuốn sách này.”Đó là lần đầu tiên tôi bắt đầu nhận ra mình bị chứng bệnh tâm lý trầm trọng. Tôi đã đến với cha linh hướng để xin ngài giúp đỡ. Trong ít năm sau đó tôi được ngài và những vị linh hướng khác giúp nhiều, nhưng sức mạnh chính yếu vẫn là sự hiện diện liên tục của Chúa Giêsu và Ngài luôn trò chuyện trong tâm hồn tôi.



Mặc dù có sự nâng đỡ từ bên ngoài cũng như bên trong, nhung căn bệnh thần kinh của tôi vẫn cứ nổ bùng vào tháng 10 năm 1967. Tôi xuống tinh thần nột cách kinh khủng. Lúc đó tôi đang học Thần Học năm thứ ba tại Đại Học Fu Jen, Đài Bắc. Lòng tôi ngập tràn lo sợ, có những ngày tôi chẳng làm được gì, chỉ nằm úp mặt trên giường suốt bảy, tám tiếng đồng hồ. Lời cầu nguyện của tôi chỉ vỏn vẹn có một câu, “Lạy Chúa Giêsu, con hoàn toàn bất lực, nhưng Công Giáo có thể cứu con thoát khỏi sự lún bại này.” Ngay cả trong lúc tôi đau khổ nhất Chúa Giêsu cũng ở với tôi. Ngài là nguồn hy vọng nâng đỡ tôi bước qua giai đoạn đen tối này của cuộc đời. Sau ít tháng phấn đấu, tôi bắt đầu thoát khỏi sự suy nhược. Tháng 6 năm 1968, tôi cảm thấy khá hơn. Nhà Dòng cử tôi đến phục vụ tại Trung Tâm Văn Hóa Tien với tư cách là phụ tá linh hướng, và việc thụ phong của tôi bị đình hoãn vô hạn định.

 


Nhờ Chúa Giêsu chúc phúc, công việc mục vụ của tôi cho các sinh viên tại đại học quá thành công nên Nhà Dòng cho tôi được học tiếp thần họcvào tháng 9 năm 1970, nhưng việc thụ phong linh mục của tôi vẫn chưa được đặt ra. Tháng 12 năm 1970, bề trên của Trung Tâm Văn Hóa Tien và Viện Trưởng Viện Thần Học cũng đều viết thư cho Nhà Dòng của tôi, đề nghị cha bề trên Tĩnh Dòng cứu xét việc thụ phong linh mục cho tôi. Cha bề trên Tĩnh Dòng mở lại hồ sơ của tôi và ngài yêu cầu tôi phải trải qua một cuộc thử nghiệm tâm lý. Sau nhiều cuộc phởng vấn của các nhà tâm lý học, cha bề trên Tĩnh Dòng đã ký giấy xác nhận tình trạng tâm lý và sức khoẻ của tôi bình thường. Từ trong tận đáy lòng, tôi biết rằng Chúa Giêsu là Đấng chữa lành duy nhất của tôi. Và tôi đã được thụ phong linh mục ngày 26 tháng 6 năm 1971.



Vào thời gian đó nhiều nhà tuyền giáo người Hoa Kỳ đã cảm nghiệm được Canh Tân Đặc Sủng trong thời gian họ về nghỉ hè ở quê nhà. Một nữ tu Dòng Maryknoll được đầy tràn lửa Chúa Thánh Linh, sau khi trở lại Đài Loan, bà đã thúc đẩy tôi gia nhập Canh Tân Đặc Sủng. Lúc đó chưa có một Nhóm Cầu Nguyện Công Giáo nào tại Đài Loan. Vào tháng 3 năm 1971 một vị mục sư Tin Lành tới thuyết giảng về Canh Tân Đặc Sủng tại một nhà thờ Baptist. Vị nữ tu kéo tôi đến đó tham dự. Vị thuyết giảng nhấn mạnh quá nhiều đến việc chữa lành thể lý nên không đánh động tôi mấy trái lại còn gây cho tôi một vài cảm nghĩ không tốt. Nhưng vị nữ tu vẫn không đầu hàng, bà tiếp tục mời tôi đến tham dự nhiều buổi cầu nguyện do một vị bác sĩ người Anh tổ chức. Trong những buổi cầu nguyện này, tôi bắt đầu cảm nghiệm được sức mạnh tâm linhcủa Canh Tân Đặc Sủng. Nhưng khi họ cầu nguyện cho tôi, tôi đã không cảm nghiệm được gì kể từ khi tôi được đầy tràn Thánh Linh từ năm 1962. Tuy nhiên, qua lần cầu nguyện này tôi hiểu được những gì Chúa Giêsu đã làm trong tôi từ năm 1962. Không bao lâu sau, tôi được ơn tiếng lạ và bắt đầu tổ chức các buổi cầu nguyện cho sinh viên Công Giáo người Hoa tại lưu học xá Đại Học Fu Jen. Nhờ ơn Chúa, tôi là linh mục Công Giáo người Hoa đàu tiên gia nhập Canh Tân Đặc Sủng.



Sau khi trở thành linh hướng cho những sinh viên đại học năm 1968, tôi bắt đầu dùng kỹ thuật đã học được từ triết để áp dụng vào việc chữa bệnh. Chẳng bao lâu sau tôi nhận ra rằng dùng thời gian lâu dài có thể chữa khỏi bệnh tâm trí bị thương tổn trầm trọng. Nhiều lần kỹ thuật này có thể dùng để định bệnh, nhưng lại không có khả năng chữa lành. Sau khi tiếp xúc với Canh Tân Đặc Sủng tôi có đọc sách và nghe nói về việc chữa lành nội tâm, nhưng tôi không biết làm thế nào để áp dụng những gì đã học được. Tôi cảm thấy rằng, tốt nhất là cứ cầu nguyện cho người bệnh hơn là chẳng làm gì, vì thế tôi bắt đầu cầu nguyện cho bất cứ ai đến xin tôi giúp đỡ. Ngay sau khi tôi khám phá ra rằng, chỉ cần một lời cầu nguyện đơn sơ, sốt sắng cũng có thể làm cho người ta cảm nghiệm được tình yêu của Chúa Giêsu, nhưng căn bệnh tâm trí bị tổn thươngtrầm trọng vẫn không được chữa lành . Dù vậy tôi vẫn thích thú và cứ muốn tìm những phương cách cầu nguyện hữu hiệu hơn cho những người bị tổn thương.


Chúa đã đáp lời cầu xin củ tôi một cách bất ngờ. Cuối năm 1973, tôi được gửi tới Trường Thần Học của Dòng Tên tại Berkeley, California, để học tiép về môn thần học. Ngay sau khi tới California, tôi khám phá ra tại khu cư xá tôi ở có một Nhóm Cầu Nguyện sinh hoạt hằng tuần. Lập tức tôi gia nhập với họ. Đó là một nhóm cầu nguyện quốc tế, gồm các linh mục, tu sĩ nam nữ, và giáo dân. Trong một thời gian ngắn, tôi trở thành một phần tử nồng cốt của nhóm, và ở trong Ban Phục Vụ, cầu nguyện cho người khác sau mỗi buổi họp nhóm. Qua việc thực hành này, tôi càng học hỏi được nhiều phương cách hữu hiệu hơn để cầu nguyện cho người khác.

 


Từ tháng Giêng năm 1974 đến tháng 6 năm 1975 tôi rất gần gũi với Nhóm Cầu Nguyện Shalom. Trong thời gian này, tôi học hỏi cách cầu nguyện trong Chúa Thánh Linh và nhiều phương cách thực hành các đặc sủng.
Tôi vẫn còn nhớ rất rõ trong một buổi cầu nguyện đầu năm 1974 khi tôi chia sẻ cảm tưởng. Tôi nói, tôi có cảm tưởng mình như một khúc củi trôi dạt đầy lỗ rỗng và hình thù méo mó, nhưng tôi tin rằng dù tôi có đáng thương đến thế nào chăng nữa thì tôi vẫn cứ trông cậy vào Đấng Tác Tạo Thánh Thiện. Ngài có thể tẩy rửa khúc gỗ vô dụng này và biến nó thành một tác phẩm điêu khắc. Tháng 6 năm 1975 khi tôi rời Berkeley đến phụ việc tại Spokane, Washington, chứng bệnh tâm trí của tôi đã giảm rất nhiều và sức khỏe của tôi rất khả quan.

 


Cuối năm 1975, sau khi học xong, tôi trở về Đài Loan và bắt đầu thực hành ngay tác vụ cầu nguyện chữa lành nội tâm. Tôi cầu nguyện cho bất cứ ai có nhu cầu đến với tôi. Việc cầu nguyện này dần dần trở thành hoạt động mục vụ chính của tôi. Tôi đã chứng kiến rất nhiều phép lạ chữa lành do quyền năng của Chúa Giêsu. Qua việc cầu nguyện này, những người bị tổn thương gặp gỡ Chúa Giêsu trực tiếp, sau đó cuộc đời của họ hoàn toàn thay đổi. Chúa Giêsu Phục Sinh không chỉ sống mà thôi, nhưng Ngài còn hoạt động một cách thích thú trong đời sống người tín hữu. Rất nhiều lần tôi chứng kiến Chúa Giêsu làm phép lạ chữa lành qua quyền lực của Chúa Thánh Linh. Thừa tác vụ chữa lành nội tâm quả là tác vụ tình yêu của Chúa Giêsu. Qua tác vụ này, Chúa Giêsu ban cho tôi thêm khả năng để nhận lãnh và cho đi tình yêu (mặc dù đôi lần tôi cũng lầm lẫn, làm tổn thương ít người vì tính ích kỷ và sự dốt nát của tôi.)

 


Một cách tổng quát, tác vụ này đã giúp rất những người ngoài sức tưởng tượng. Tôi đã đúc kết kinh nghiệm và viết ra hai cuốn sách bằng chữ Trung Hoa. Cả hai sách này đều bán được ít ngàn cuốn, phổ biến tới cả các quốc gia Đông Nam Á và nhiều nơi trên thế giới.

 


Nhìn lại trên mười năm trong tác vụ này, tôi cảm thấy tôi là một tội nhân, nhưng một tội nhân được yêu thương. Dù tôi là một con người bị tổn thương trầm trọng, nhưng Chúa Giêsu đã chữa lành tôi qua quyền lực của Chúa Thánh Linh. Dù tôi chỉ là tên đầy tớ ích kỷ và vô dụng, nhưng Chúa Giêsu đã kêu gọi tôi ra đi rao giảng sự giầu có vô tận và tình yêu của Ngài dành cho mỗi người đang sống với sự tha thứ vô điều kiện.

 


Vào tháng 5 năm 1977, một mục sư Tin Lành đến Đài Loan chủ tọa một số buổi cầu nguyện quốc tế. Tôi tới tham dự, nghe ông thuyết giảng và chia sẻ kinh nghiệm về tác vụ chữa lành thể lý. Ông nhấn mạnh rằng, tác vụ này phải là tác vụ tình yêu của Chúa Giêsu dành cho những người bệnh tật. Từ lâu tôi đã kêu xin Chúa Giêsu ban cho tôi đặc sủng chữa bệnh, nhưng tôi chưa được lãnh nhận. Trong bài giảng dạy của ông mục sư này, tôi ý thức ra rằng động lực đã làm tôi xin Chúa ban cho tôi đặc sủng chữa lành là để tôi thỏa mãn tính ích kỷ và tự kiêu. Lập tức tôi dục lòng ăn năn thống hối. Sau bài thuyết giảng của vị mục sư, người ta xếp hàng dài xin ông cầu nguyện. Tôi cũng xếp hàng đi lên. Khi đến lượt tôi, ông hỏi tôi muốn ông cầu nguyện cho điều gì. Tôi nói, tôi muốn xin Chúa ban cho tôi đặc sủng chữa bệnh. Khi cầu nguyện cho tôi xong, ông yêu cầu tôi đứng kế bên ông. Người xếp hàng kế tiếp đợi xin cầu nguyện là một ông bị đau xương sống. Ông mục sư lập tức quay sang tôi và nói. “Tôi đã cầu nguyện cho cha rồi, bây giờ cha cầu nguyện chữa lành cho ông này đi.” Tôi liền cầu nguyện cho người này, và ông ta đã được khỏi bệnh. Đó là khởi đầu tác vụ cầu nguyện chữa lành của tôi.

 


Chúa Giêsu đã dẫn dắt tôi trong quyền lực Chúa Thánh Linh để tôi được làm một linh mục Công Giáo cầu nguyện chữa lành. Ngài cũng mở ra cho tôi nhiều công việc phục vụ khác. Dần dần tôi nghiệm ra lời Chúa nói, “Những gì Ta dã làm, con cũng đang làm được như vậy.” Giờ dây tôi cũng đang thực hành những gì Chúa Giêsu đã làm trong sứ vụ của Ngài: tha tội, chữa lành nội tâm, chữa lành thể lý, trừ tà và rao giảng Tin Mừng qua lời nói và hành động. Ngài là Đáng trung tín trong tình yêu và lời hứa. Qua Chúa Thánh Linh , Ngài chia sẻ quyền lực cho các tôi tớ và các nữ tì được Ngài kêu gọi để cộng tác vào việc xây dựng Vương Quốc va Giáo Hội của Ngài.

 


Nhìn lại đoạn đường đã đi qua, lòng tôi đầy tràn sự biết ơn và kinh ngạc. Làm sao một người không đức tin lại có thể trở thánh một linh mục Công Giáo của Dòng Tên? Làm sao một con người bị thương tổn trầm trọng và đầy những rắc rối tâm trí lại có thể trở thành một người thi hành tác vụ tình yêu cho Chúa Giêsu? Điều đó có thể bởi vì Chúa Giêsu yêu mến tôi và Ngài luôn trung tín, Ngài đầy quyền năng và giầu lòng thương xót

 

*******************************************************