LÀM CHO SỐNG
“Thiên Chúa, Đấng làm cho sống”.
Kính thưa Anh Chị em,
Cả hai bài đọc hôm nay cùng nói đến một chủ đề: Thiên Chúa, Đấng làm cho sống. Qua miệng ngôn sứ Amos, Thiên Chúa chỉ cho dân điều đẹp mắt Người, “Hãy tìm điều lành chứ đừng tìm điều dữ rồi các ngươi sẽ được sống”; qua tường thuật Tin Mừng, hai người bị quỷ ám miền Giêrasa được Chúa Giêsu phục hồi sự sống.
Lời của ngôn sứ Amos thật mạnh mẽ khi ông tố cáo lối sống phù phiếm của dân Chúa, một lối sống mà họ tưởng là đẹp lòng Người. Ông vạch trần việc dân Chúa chạy theo một nền phụng tự hình thức vốn đem lại một sự yên tâm giả tạo, đang khi đời sống tâm linh của họ thực ra đã chết. “Hãy tìm sự lành, đừng tìm sự dữ, để các ngươi được sống”; “Ta khinh ghét và chê bỏ những ngày lễ trọng của các ngươi. Ta không thèm ngửi mùi hương trong các kỳ hội của các ngươi. Ta cũng không nhìn đến các lễ khấn tốt đẹp của các ngươi; hãy mang đi cho xa Ta giọng hát, lời ca của các ngươi, Ta sẽ không nghe tiếng đàn ca của các ngươi”. Amos kết luận, “Ta chỉ muốn cho lẽ phải như nước tuôn trào, cho công lý như dòng suối không bao giờ cạn”, nghĩa là ‘Ta lợm tởm lối sống đạo chết chóc vụ hình thức của các ngươi, Ta muốn một lối sống đạo đúng nghĩa’.
Cũng thế, Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu, Đấng phục hồi sự sống. Ngài trả lại phẩm giá, nhân vị và tương quan cho hai người bị quỷ ám sống mà như đã chết đang lây lất giữa mồ mả hoang tàn. Giữa nghĩa trang đìu hiu đó, Ngài cũng trả lại sự sống cho con đường vốn đã chết vì hoang vắng khi chẳng ai buồn qua lại vì sự quấy phá của quỷ. Cả ba thánh sử nhất lãm ghi lại phép lạ này nhưng ở Matthêu, có đến hai người bị quỷ ám đang khi Luca và Marcô chỉ có một; tuy nhiên, điều quan trọng được cả ba tác giả nhấn mạnh ở đây là Giêrasa, một địa danh của dân ngoại vốn tượng trưng cho “vương quốc của Satan”. Phép lạ này chứng tỏ quyền năng của Chúa Giêsu được thực hiện ngay trên đất dân ngoại; Ngài không chỉ cứu sống hai người quỷ ám nhưng còn muốn cả dân ngoại được sống.
Anh Chị em,
Cám dỗ chạy theo một nền phượng tự đạo đức vụ hình thức của Israel thời Amos cũng rất có thể là cám dỗ của chúng ta hôm nay. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhiều lần mạnh mẽ nói đến nền phượng tự thổi bong bóng này, một nền phượng tự như được trời cho những cái bên ngoài, để che những cái sơ sài bên trong. Ngài nói, “Chúng ta dễ rơi vào một Giáo Hội của những sự kiện chứ không phải một Giáo Hội có khả năng tăng trưởng trong giản dị, trong thinh lặng, trong ngợi khen, trong bí tích thánh thể, trong cộng đoàn huynh đệ, chân thành và sản sinh những hoa trái mà không ồn ào, không khua chiêng đánh trống”.
Cũng thế, trong cuộc sống hôm nay, luôn luôn có những con đường chết chóc; ở đó, có thể Satan cũng đang thống trị, điều khiển bằng cách quấy phá, can thiệp khiến con người thuộc mọi đấng bậc đôi lúc tưởng mình đang sống, đang làm điều này điều kia cho Giáo Hội, xã hội nhưng thực ra đã chết. Chết vì bầu khí danh vọng trùm lên bầu khí đạo đức, bầu khí duy vật che khuất bầu khí tri thức mỗi khi con người không cưỡng nổi cám dỗ đặt mình trong những cuộc đua quyền bính danh vọng và tiền tài, đạo cũng như đời. Hôm nay, Chúa Giêsu muốn chúng ta sống, Ngài muốn phục hồi sự sống của chính Ngài, sự sống Kitô nơi chúng ta.
Cha Anthony de Mello nói, “Tôn giáo không phải là vấn đề các nghi thức hay nghiên cứu học viện; nó cũng không là một vài hình thức thờ phượng hay một số việc lành. Tôn giáo nói đến việc nhổ tận căn những vẩn đục khỏi tâm hồn, nó là con đường dẫn đến gặp gỡ Thiên Chúa”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, con sáng lễ chiều kinh, nhưng đôi lúc cảm thấy mình không hơn chi người vô thần. Xin Chúa cũng hãy hồi sinh con”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
NGÀI NGỦ VẮT VẺO TRÊN VÁN VÉO
Kính thưa Anh Chị em,
Cả hai bài đọc hôm nay cho thấy một sự thật khá phũ phàng. Không phải dân tộc có Chúa là cha thì luôn hạnh phúc an vui; không phải môn đệ có Thầy ở cùng thì thuyền luôn xuôi dòng.
Qua miệng ngôn sứ Amos, xem ra Thiên Chúa cưng chiều Israel hơn các dân tộc khác quá mức bình thường, “Hỡi con cái Israel, hãy nghe lời Chúa phán, ‘Trong muôn dân nước trên mặt đất, Ta chỉ nhận biết một mình các ngươi’”. Vậy mà Người cũng không thể cầm mình trước sự bội phản của dân, “Vì thế, Ta sẽ đến sát hạch mọi gian ác của các ngươi, Ta đã triệt hạ các ngươi như Thiên Chúa triệt hạ Sôđôma và Gômôra”. Yêu nhiều, quở phạt cũng nhiều; lưu đày Babylon là một bằng chứng.
Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy một điều tương tự. Không phải có Chúa đồng hội đồng thuyền là môn đệ xuôi chèo mát mái; không phải có Thầy đang ở trong khoang thì thuyền họ xuôi gió thuận buồm. Giữa đêm khuya, con thuyền của môn đệ vẫn chao đảo ngả nghiêng; phong ba, dông tố vẫn không thương tiếc dập vùi cho thuyền họ hòng chìm. Như vậy, không phải có Chúa kề bên là không có bão tố; có Chúa ở cùng là không có nguy nan.
Thế nhưng, câu cuối cùng của bài đọc Amos cũng như cách thức các môn đệ phản ứng hôm nay lại là một cái gì bất ngờ đến tuyệt vời, “Hỡi Israel, hãy sửa soạn đón rước Thiên Chúa của ngươi” và Tin Mừng nói, “Các môn đệ lại gần, đánh thức Người dậy”. Đó là những bài học lớn cho chúng ta. Chờ đợi trong hy vọng, chờ mong trong nguyện cầu.
Trong cuộc sống, chúng ta không bị đày ải như Israel thời Babylon, cũng không gặp giông bão như các môn đệ; thế nhưng, cuồng phong và gió chướng trên dòng đời vẫn không thiếu cho con thuyền linh hồn mỗi người, mỗi cộng đoàn và mỗi gia đình. Mưa sa bão táp vẫn có thể chụp xuống bất cứ lúc nào cả trong nơi sâu kín riêng tư nhất của mỗi tâm can. Thất đoạt, mất mát, tai ương, bệnh tật và bên dưới, còn có cả những dòng lưu cuồng nộ sân si của thất tình hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục; những cám dỗ của lục tặc sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp… để rồi con người ngã sa, ghen ghét, tỵ hiềm khi thì bộc phát, khi thì âm ỉ với những hiểu lầm, đố kỵ trước mặt sau lưng gây thương tổn cho nhân vị của nhau. Cũng có thể là sự không chấp nhận chính mình hoặc đáng sợ hơn, phải giày vò trong một tội lỗi nào đó.
Anh Chị em,
Những gì xảy ra trên con thuyền các môn đệ cũng xảy ra trên thuyền đời mỗi người, rằng ở đó, có Chúa Giêsu, Ngài ngủ vắt vẻo trên ván véo, ngủ như chết. Như các môn đệ, chúng ta hãy đến với Chúa, đánh thức Ngài; nếu Ngài chưa dậy, cứ lay Ngài; nếu Ngài nằm lì, cứ ngồi chờ, hoặc cứ lặng thinh. Lặng thinh một đôi khi là nín lặng nhưng lặng thinh phải luôn luôn là lắng nghe vì có nhiều điều chúng ta chỉ nghe khi mắt đã nhoà lệ.
Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta nhìn ngắm vua Đavít. Rất thánh thiện nhưng cũng rất tội lỗi; bị bắt bớ cũng là người bắt bớ; là nạn nhân cũng là kẻ sát nhân. Thế nhưng, một sợi chỉ đỏ chạy cuộc đời Đavít liên kết mọi thứ xảy ra, đó là lời cầu nguyện; đó là tiếng nói không bao giờ bị dập tắt. Đavít thánh thiện, cầu nguyện; Đavít tội lỗi, cầu nguyện; Đavít bách hại, cầu nguyện; Đavít nạn nhân, cầu nguyện; ngay cả Đavít bạo chúa, cầu nguyện. Đó là những giai điệu tưng bừng hay thở than, nó vẫn luôn là lời cầu nguyện; chỉ có giai điệu thay đổi, cầu nguyện không thay đổi. Như vậy, Đavít dạy chúng ta hãy đưa mọi sự vào cuộc đối thoại với Chúa: niềm vui và tội lỗi, tình yêu và đau khổ, tình bạn và bệnh tật... Tất cả có thể trở thành một lời cầu nguyện “Lạy Thầy, này chúng con chết mất”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, xin đừng để con quên rằng, một đôi khi Chúa đi vào lòng con mang theo những phúc lành bằng cách húc bể cửa kính”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)