CN 30 QN
Biết yêu là được lên thiên đàng thẳng cẳng
“Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”(Mt 22,37).
Đó là câu trả lời của Đức Giê-su cho câu hỏi, đâu là điều răn quan trọng nhất. Chúng ta, những người tín hữu công giáo cũng thắc mắc “yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn” có ý nghĩa gì? Yêu mến Chúa hết lòng, chúng ta có thể hiểu được chút; còn hết linh hồn, hết trí khôn nghĩa là sao?
Như chúng ta biết, con người chúng ta có hồn và có xác. Hồn có nghĩa là linh hồn và trong cái “xác” của chúng ta thì trí khôn là quan trọng. Vì nhờ có trí khôn mà chúng ta hơn các thụ tạo khác và nhất là chúng ta nên giống Chúa. Như vậy, yêu mến Chúa hết linh hồn và hết trí khôn, có nghĩa chúng ta yêu mến Chúa với hết con người của chúng ta; yêu mến Chúa với hết những gì mình có và yêu mến HẾT, có nghĩa là trọn vẹn; là tất cả; là trên hết mọi sự.
Theo sách Giáo Lý Công Giáo, thì điều răn trọng nhất này “kêu gọi con người tin vào Chúa; trông cậy nơi Người và yêu mến Người trên hết mọi sự” (số 2134). Chúng ta cùng tìm hiểu xem, chúng ta phải tin, cậy, mến Chúa thế nào mới là “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”; hay yêu mến Chúa thế nào mới là trên hết mọi sự.
- Đức tin
“Đời sống luân lý của chúng ta bắt nguồn trong lòng tin vào Thiên Chúa, Đấng mặc khải tình yêu của Người cho chúng ta. Bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa là tin vào Người và làm chứng về Người” (x. số 2087).
“Luân lý” có thể hiểu là “luân thường đạo lý”, đó là những con đường, những qui tắc giúp chúng ta sống sao cho đúng, cho phải ở trên đời này, nên gọi là “đời sống luân lý”. Đời sống đó bắt nguồn từ lòng tin vào Thiên Chúa. Điều răn trọng nhất đòi buộc chúng ta nuôi dưỡng và gìn giữ đức tin cách cẩn trọng; đồng thời loại bỏ tất cả những gì nghịch cùng đức tin. Có nhiều tội nghịch cùng đức tin mà chúng ta phải loại bỏ như : cố tình hoài nghi hay vô tình hoài nghi; vô tín, lạc giáo; bội giáo; lý giáo.
“Cố tình hoài nghi” trong lãnh vực đức tin là tội xem thường hay không nhìn nhận là chân thật những điều Thiên Chúa mặc khải và Hội Thánh dạy phải tin”.
Như vậy, việc “cố tình hoài nghi” là tội “xem thường”; coi thường Lời Chúa và lời Hội Thánh dạy. Điều đó được biểu lộ qua việc chúng ta không coi trọng và không đem ra thực hành lời của Chúa cũng như lời của Hội Thánh dạy.
“Vô tình hoài nghi” là do dự không tin; không cố gắng vượt qua những vấn nạn đức tin hay khủng hoảng trước bóng tối của đức tin. Nếu cố chấp, hoài nghi sẽ làm cho tâm trí nên mù quáng.(x. số 2088).
Qua thực tế của cuộc sống, chúng ta thấy nhiều sự dữ; những sự bất công; ở hiền gặp dữ; ở dữ gặp lành”; sống công chính, tốt lành thì gặp bao trắc trở, trù dập, thiệt thòi, ...làm cho chúng ta do dự không tin; không cố gắng vượt qua những vấn nạn hay bị khủng hoảng trước những bóng tối. Đó là cái tội “vô tình hoài nghi”. Dù sao đi nữa, việc hoài nghi, không tin vào Thiên Chúa là điều chúng ta cần loại bỏ ngay.
“Vô tín”. Vô tín là khinh thường chân lý mặc khải hay cố tình từ chối không tin. Đây là cái tội biết mà không tin; biết mà khinh thường; biết mà cố tình không chịu tin. Như không tin việc có sự sống lại hay sự phán xét của Chúa.
“Lạc giáo”. Lạc giáo là khi người tín hữu đã chịu phép rửa tội lại ngoan cố phủ nhận hay nghi ngờ một chân lý phải tin nhận, theo đức tin đối thần và công giáo”. Như không tin Đức Giê-su là Thiên Chúa thật hay là người thật 100%.
“Bội giáo”. Bội giáo là tội chối bỏ toàn bộ đức tin ki-tô giáo. Có nghĩa là không tin gì hết; chẳng tin Chúa cũng chẳng tin vào Giáo Hội.
“Ly giáo”. Lý giáo là từ chối tùng phục Đức Giáo Hoàng hay từ chối hiệp thông với các phần tử của Hội Thánh đang phục quyền Người. Như Anh Giáo, Tin Lành, hoặc ngay nay, nếu Hội Đồng Giám Mục Đức, với “tiến trình công nghị” mà không theo chỉ thị của Đức Giáo Hoàng hay của Tòa Thánh, thì sẽ có một sự ly giáo, tách khỏi Giáo Hội Công Giáo La-mã; làm thành Giáo Hội Đức.
Tóm lại, nếu chúng ta loại bỏ những tội nghịch lại cùng đức tin đó mà hằng nuôi dưỡng và gìn giữ đức tin bằng cách tin vào Chúa và thực hành lời Chúa dạy; đồng thời tin vào Hội Thánh và thực hành những điều Hội Thánh dạy, thì chúng ta đang sống đúng niềm tin của mình. Chúng ta sẽ trung thành sống niềm tin đó trong đời dù có gặp muôn vàn khó khăn hay thiệt thòi.
- Đức cậy
“Cậy trông là hết lòng mong đợi được Thiên Chúa chúc phúc cho diện kiến Tôn
Nhan Người. Cậy trông còn bao hàm thái độ sợ mất lòng Chúa và bị trừng phạt” (số 2090). Điều răn trọng nhất, cũng nhắm đến các tội nghịch cùng đức cậy như ngã lòng và tự phụ.
“Ngã lòng” là khi không còn trông cậy Chúa sẽ ban cho mình ơn cứu độ; không trợ giúp mình đạt tới ơn cứu độ hay không tha thứ tội lỗi của mình. Điều này nghịch với Thiên Chúa là Đấ
ng nhân từ, công bằng. Bởi vì Chúa luôn trung thành với mọi lời Chúa hứa và giàu lòng xót thương” (số 2091).
Chúng ta ngã lòng khi nói : Chúa quên tôi rồi; Chúa bỏ tôi rồi. Chúa nào có quên ta; Chúa nào có bỏ ta bao giờ, có ta quên Chúa, ta bỏ Chúa thì có.
Hoặc tội của tôi lớn quá, Chúa không tha thứ cho tôi đâu. Chúa không tha thứ cho hay ta không chịu tha thứ cho người khác. Có những điều mà người ta gây hại cho ta, ta nhất quyết không chịu tha, dù người ta có xin lỗi; có bồi thường. Ta nói : “Đến chết tôi cũng không tha”. Chúa không tha là do ta không tha, chứ không phải do Chúa. Chúa có tha đi nữa thì ta cũng không nhận được ơn tha thứ của Chúa đâu, vì tâm hồn ta đã đóng chặt cửa lại.
Hay tôi không có vé lên thiên đàng; Chúa tiền định cho tôi phải xuống hỏa ngục. Chúa nào có tiền định cho ai xuống hỏa ngục bao giờ. Chúa có tiền định là tiền định cho tất cả mọi người lên thiên đàng thì có. Còn ta không lên được thiên đàng là do ta lười biếng, không cố gắng nên thánh nên thiện thôi.
Ngoài sự ngã lòng, chúng ta còn tự phụ nữa. “Có hai loại tự phụ: một là quá tin vào sức riêng mình (tưởng mình có thể tự cứu rỗi mà không cần sự giúp đỡ của ơn trên. Hai là ỷ lại vào Thiên Chúa toàn năng và giàu lòng xót thương, (tưởng mình sẽ được tha thứ mà không cần hối cải và được vinh quang mà không cần lập công) (số 2092).
Hai thái độ này đều nghịch lại với sự cậy trông vào Chúa. Tự sức riêng của ta, ta không làm gì để có thể lãnh được cứu độ cả. Chúa toàn năng, nhưng Chúa không làm gì mà không có sự ưng thuận hay đồng ý của ta; Chúa giàu lòng xót thương, nhưng không thể tha thứ nếu ta không ăn năn hối cải; Chúa công bằng, nên không thể ban vinh quang cho ta nếu ta không lập công gì.
- Đức mến
Điều răn trọng nhất dạy chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu toàn thể thụ tạo vì Người và cho Người.(x, số 2093). Có nhiều điều nghịch lại với lòng yêu Thiên Chúa như lãnh đạm, vong ân, nguội lạnh, lười biếng, oán ghét Thiên Chúa,....(x. số 2094)
Lãnh đạm. Lãnh đạm là tội xem thường hay không lưu tâm đến tình yêu Thiên Chúa, không biết đến bản chất và sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa. Nói tóm là không biết yêu là gì; không biết cảm động là gì; đứt dây thần kinh cảm giác rồi. Không biết yêu ai; không biết cảm động hay rung động trước một vẻ đẹp; trước một cử chỉ đẹp; trước một hành động đẹp; trước một cảnh đẹp; trước một bông hoa đẹp; trước một người đẹp,... mà tạ ơn Thiên Chúa; mà cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình.
Vong ân. Vong ân là tội quên lãng hay từ chối nhận biết tình yêu Thiên Chúa và không đáp trả tình yêu Thiên Chúa bằng tình yêu của mình. Thiên Chúa vì yêu thương mình mà làm tất cả mọi sự, thế mà ta chẳng nhận ra hay đáp trả gì cả. Hoặc người khác vất vả, khổ sở vì thương yêu ta mà ta chẳng nhận ra hay chẳng quí trọng gì cả. Đó là tội vong ân.
Nguội lạnh. Nguội lạnh là tội do dự, chểnh mảng trong việc đáp lại tình yêu của Thiên Chúa hay từ chối dấn thân theo đức mến. Có thể nói đó là sự không quyết đoán; không quyết tâm, không ý thức những việc mình phải làm đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân.
Lười biếng. Lười biếng trong việc thiêng liêng có thể đưa tới từ khước niềm vui Thiên Chúa ban và khinh chê mọi lợi ích thiêng liêng. Lười biếng nói lên sự sợ mệt, sợ vất vả; sợ cố gắng; sợ làm việc, sợ cầu nguyện; sợ học; sợ luyện tập,...cả việc đời thường lẫn việc thiêng liêng. Người mà lười biếng như vậy, chắc chắn sẽ không đón nhận được niềm vui và những kết quả. Không làm mà lại muốn hưởng, thì có cách đi chôm, đi chỉa; đi hớt tay trên của người khác thôi. Đương nhiên họ sẽ không có được niềm vui Chúa ban và không lãnh nhận được những lợi ích thiêng liêng.
Tội oán ghét Thiên Chúa là do kiêu ngạo, chống lại tình yêu của Người. Cho rằng Người không tốt lành và từ chối Thiên Chúa vì Người cấm phạm tội và trừng trị bằng hình phạt. Không yêu thì ghét. Không yêu Chúa thì ghét Chúa thôi. Ghét Chúa thì cho rằng Chúa không tốt lành và nói xấu Chúa, cho rằng Chúa nghiêm khắc, cấm cái này, cấm cái kia và trừng phạt.
Như thế, “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” là sống đức tin, đức cậy và đức mến. Đó là bổn phận của con người chúng ta đối với Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. “Thiên Chúa là Đấng toàn năng, nhân từ và hằng giáng phúc thi ân. Nên ai mà không hy vọng vào Người! Ai mà không yêu mến Người khi thấy Người yêu thương và trìu mến đổ tràn muôn ơn trên chúng ta!!! (x. số 2086).
Vậy, chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn chúng ta. Đó là điều quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ (x. Mc 12,33-34). Theo tôi, khi chúng ta sống được như thế là đã trở thành lễ toàn thiêu và hy lễ Chúa thích nhất. Và chúng ta sẽ nghe Lời Đức Giê-su nói: “Ngươi không còn xa Nước Thiên Chúa đâu”. Nghĩa là “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn” là chúng ta được lên thiên đàng. Biết yêu kiểu này là được lên thiên đàng thẳng cẳng.
Lm. Bosco Dương Trung Tín