CN XXXIV
Bài đọc 1 : ( 2 Sm. 5:1-3). Bài đọc 2: ( Cl. 1:11-20)
Tin Mừng : ( Lc. 23: 35-43)
CUỘC PHONG VƯƠNG TRÊN NUÍ SỌ
Khi bắt được Chúa Giêsu, đoàn kỳ mục trong dân, các thượng tế và kinh sư điệu Ngài ra trước tòa Thượng Thẩm. Sau một cuộc tra vấn, cuối cùng họ hỏi Ngài: “ Vậy ông là Con Thiên Chúa sao?” Ngài trả lời : “ Đúng như các ông nói, chính tôi đây.” Thế là dựa vào lời nói ấy, họ kết án Ngài là phạm thượng, và còn vu cáo cho Ngài nhiều tội khác nữa.
Họ dẫn Ngài đến quan tổng trấn Philatô. Ông này hỏi Ngài: “ Ông là Vua dân Do thái sao?” Chúa Giêsu trả lời: “ Chính ngài nói đó”, và Ngài còn khẳng định: “ Nước tôi khôg thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này”( Ga. 19: 36).
Rõ ràng Chúa Giêsu là Vua, nhưng con người đã không chấp nhận sự thật ấy; thậm chí vì ghen tức, vì quyền lợi riêng tư, con người đã chà đạp lên công lý và lẽ phải, đã đánh gía người vô tội không đáng tha bằng một tên bạo động, giết người: Giết Giêsu! Tha Baraba!
Ngày xưa, để phong ai lên làm vua, thì thầy thượng phẩm sẽ là người nhân danh Thiên Chúa xức dầu và tấn phong người ấy trước mặt đông đảo dân chúng chứng kiến.
Cuộc đăng quang của Vua Giêsu lại là một bản án tử hình!
Không một vua chúa trần thế nào lại đăng quang như Vua Giêsu!
Thay vì hoan hô chúc tụng , thì lại là những tiếng la hét xin đóng đinh vào thập giá. Vương miện đặt trên đầu Vua là một vòng gai nhọn đâm thấu vào đầu. Cuộc diễn hành đưa vị Vua ấy lên lễ đài không phải bằng cờ xí nhưng bằng những đòn roi quất vào mình, không phải là những người ủng hộ mà là những thành phần đối nghịch, không xe ngựa lộng lẫy nhưng lê lết ngã lên ngã xuống với một cây thánh giá nặng vác trên vai và đã nhiều lần ngã qụy!
Đoàn diễn hành tiến lên lễ đài là nuí sọ. Cuộc phong vương bắt đầu. Áo cẩm bào là mình trần không một tấm vải che thân. Ngai vàng là cây thập giá. Người ta giương cao vị Vua ấy lên bằng những chiếc đinh đóng chặt hai tay hai chân vào cậy thập giá cùng với hai tên gian phi ở hai bên, trên đầu là bản án: Đây là vua dân Do thái.
Thay vì những lời tung hô chúc tụng, thì người ta bắt đầu lên tiếng thách đố, mĩa mai. Các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “ Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!” Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: “ Nếu ông là vua dân Do thái thì cứu lấy mình đi!”.
Từ trên lễ đài, một trong hai tên gian phi cũng thách thưc, nhục mạ: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”. Nhưng tên gia phi kia vạch trần bộ mặt thật của hắn: “ Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” !”
Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “ Ông Giêsu ơi, khi nào vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!”. Tên trộm biết nhận lỗi và ăn năn là người đầu tiên nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa khi anh bảo với tên trộm kia: “vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ”, và anh đã công nhận Ông Giêsu có một vương quốc khi anh ta bảo: “ Nước của ông”; như thế, gián tiếp anh công nhận Ngài là Vua của một Vương quốc nào đó. Và Người nói với anh ta: “ Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” Chúa đã cho anh ta biết Nước Ngài là Thiên Đàng, vương quốc của Thiên Chúa.
Thần dân của Nước Chúa là những ai? Hai tên trộm cùng chịu đóng đinh với Ngài, tiêu biểu cho hai thành phần: người làm điều lành và người làm điều dữ. Tên trộm thư nhất, không tin Thiên Chúa, anh có tội, nhưng anh lại không ra mình là người đáng phạt, lại thách thức Thiên Chúa. Anh không quên nghĩ đến quyền lợi, và lòng ích kỷ của anh khi anh nói với Chúa Giêsu cứu anh để anh trở lại cuộc sống trần thế: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”
Trái lại tên trộm kia, nhận ra Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhận mình là kẻ có tội. Anh có lòng thống hối ăn năn và tin vào quyền năng của Thiên Chúa và anh là người đầu tiên được Chúa đưa vào Thiên Đàng ngay hôm đó.
Vua Cứu Thế vẫn im lặng, không chịu xuống khỏi thập giá dù Ngài có thừa quyền năng để làm điều họ thách đố. Từ trên cao, dù cho con người thách thức, nhục mạ, đá đảo, khẩu hiệu của vị Vua ấy vẫn là: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” ( Lc. 23:34). Vị vua ấy đã chấp nhận không xuống khỏi thập giá cho đến khi trút hơi thở cuối cùng bằng một lời cuối: mọi sự đã hoàn tất!( Ga.19:29)
Là Thánh Tử Giêsu, Vua Cứu Thế: “Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm và đưa vào vương quốc Thánh Tử; trong Thánh Tử, ta dược ơn cứu chuộc, đước tha thứ tội lỗi”.( Cl. 1: 12-13).
Là Vua Kitô, Đấng Hằng Hữu, Đấng có trước muôn loài, Đấng Sáng tạo vũ trụ hữu hình và vô hình. Ngài là“ hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình”.( Cl. 1: 15-16)
Vị Vua ấy là Vua sự sống và sự sống lại. Ngài là“khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại; vì thế, Người “ cũng là đầu của thân thể, là đầu Hội Thánh”. ( Cl. 1:18). Ngài đã chiến thắng Tử thần để trở thành Vua của sự sống đời đời bằng sự Phục sinh.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Chỉ có một vương quyền là tình yêu và vương quốc của Ngài là vương quốc của tình yêu phục vụ, “ vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm gía chuộc muôn người ( Mc. 10:45)
Nhiệm vụ của Vua Kitô không phải để được phục vụ, nhưng để cứu vớt thần dân, qui phục mọi loài dưới quyền bính của Ngài và đặt dưới quyền năng vô biên của Ngài, không phải bắt thần dân phục vụ mình nhưng để đưa họ vào một vương quốc hạnh phúc vĩnh cửu, vương quốc của sự thật và sự sống, vương quốc của thánh thiện và ân sủng, vương quốc của tình yêu, công chính và an bình.
Có những lúc chúng ta cũng thách thức Chúa xuống khỏi thập giá như một trong hai tên gian phi, khi chúng ta quá tự phụ kiêu căng, sống theo ý riêng, theo dục vọng đam mê của mình. Nhưng Vua Kitô, Vua vũ trụ,
Đấng Cứu Thế vẫn khiêm nhường, hy sinh, yêu thương con người, nên đã không xuống khỏi thập giá.
Nếu Vua Giêsu chấp nhận những thách thức của con người để xuống khỏi thập giá, thì niềm hy vọng của nhân loại trở nên ảo vọng. Ngài vẫn chịu treo trên thập giá cho đến khi:“ Mọi sự đã hoàn tất”. Đó là niềm hy vọng sẽ cùng Ngài phục sinh trong vinh quang trên Nước Thiên Chúa như lời Ngài đã nói:“ Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” ( Ga. 12: 32).
Lm Trịnh Ngọc Danh