CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Chúa Thánh Linh Là Đấng Thánh Hóa
Theo Phúc Âm, Thánh Linh Thiên Chúa không những chỉ là ánh sáng chiếu soi bằng cách ban sự hiểu biết và linh ứng lời tiên tri, mà cũng là sức mạnh thánh hóa. Thánh Linh Thiên Chúa truyền thông sự thánh thiện, vì chính Ngài là “Thần Linh sự thánh thiện,” là “Chúa Thánh Linh.” Tước hiệu này được đặc quy về Thần Khí Thiên Chúa trong chương 63 Sách Isaiah, trong bài thơ dài hoặc thánh vịnh dành riêng chúc tụng ân sủng của Đức Yahweh và lên án việc dân chúng đi lạc đường suốt dòng lịch sử dân Israel, khi tác giả nói “chúng nổi loạn và làm phiền Thánh Linh” (Is 63:10). Nhưng tác giả nói thêm, sau khi Thiên Chúa đã trừng phạt, “chúng nhớ lại những ngày xưa kia và ông Moses là tôi tớ của Ngài,” và chúng ngạc nhiên hỏi: “Đâu rồi Đấng đặt thần khí của Ngài giữa chúng?” (Is 63:11).
Tước hiệu Thánh Linh cũng được nhắc tới trong Thánh Vịnh 51, khi cầu xin ơn tha thứ và lòng thương xót của Chúa (Misere mei Deus, secundum, misericordiem tuam), tác giả nài xin: “Xin đừng xua đuổi con khỏi thánh nhan Ngài cũng đừng lấy Thánh Linh của Ngài khỏi con” (Tv 51:13). Đây là một dẫn chiếu về nguyên tắc căn bản của sự thiện hoạt động trong nội tâm, đưa dẫn người ta tới “thần khí của sự thánh thiện”.
Sách Khôn Ngoan xác nhận tính vô song của Chúa Thánh Linh đối với sự thiếu chân thành và công chính: “Thánh Linh là thầy dạy dỗ, luôn tránh thói lừa lọc, rời xa những lý luận ngu dốt, và ghê tởm những chuyện bất công” (Kn 1:5). Điều này diễn tả mối liên hệ hết sức mật thiết giữa sự khôn ngoan với Thánh Linh. Tác giả được thần ứng nói: nơi đức khôn ngoan “có một thần khí tinh tường và thánh thiện” (Kn 7:23), vì thế đức khôn ngoan “tinh tuyền” và “chuộng điều lành.” Thần khí này chính là Thánh Linh Thiên Chúa, vì Ngài “toàn năng và thấu suốt mọi sự” (Kn 7:23). Nếu không có “Thánh Linh của Thiên Chúa” (tc. Kn 9:17) “gửi từ trời cao tới,” nhân loại không thể nhận ra thánh ý Thiên Chúa (Kn 8:13-17) và càng ít trung thành thể hiện thánh ý Ngài.
Trong Cựu Ước, cần thiết tính của sự thánh thiện nối kết mật thiết với chiều kích văn hóa và tư tế trong đời sống dân Israel. Việc thờ phượng phải thực hiện tại địa điểm “thánh,” nơi Thiên Chúa chí thánh ngự (tc. Is 6:1-4). Đám mây là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện (tc. Xh 40:34-35; 1 Vua 8: 10-11). Mọi thứ: lều tạm, Đền Thờ, bàn thờ và các tư tế mà ông Aaron là người tiên khởi được thánh hiến (tc. Xh 29:1 ff.), phải đáp ứng các đòi hỏi “thánh.” “Thánh” ví như vòng hào quang chỉ sự kính trọng và tôn kính tạo chung quanh người ta, các nghi lễ và vị trí ưu tiên dành cho việc thờ phượng hoặc liên quan tới Thiên Chúa.
Một vài văn bản Phúc Âm xác nhận sự hiện diện của Thiên Chúa trong lều tạm nơi sa mạc và ở Đền Thờ Jerusalem (Xh 25:8,40; 40:34-35; 1 Vua 8:10-13, Ez 43:4-5). Trong tường thuật Vua Salomon dâng hiến Đền Thờ, một lời cầu nguyện cũng được kể lại ý hoài nghi nhà vua: “Phải chăng thật sự là Thiên Chúa cư ngụ giữa loài người trên địa cầu này không? Nếu chốn cao xanh và những tầng trời cao nhất còn không dung giữ được Ngài, huống hồ chi ngôi Đền Thờ (nhỏ bé) này mà con đã xây dựng?” (1 Vua 8:27). Trong Công Vụ Tông Đồ, phó tế Stephen mô tả cũng niềm kiên tín đó đối với Đền Thờ: “Tuy nhiên Đấng Tối Cao không ở trong những ngôi nhà do người phàm xây dựng” (Cv 7:48).
Lý do về niềm kiên tín dẫn thượng được chính Chúa Giêsu giải thích khi nói với người phụ nữ Samaria: “Thiên Chúa là Thần Khí, và những người tôn thờ Ngài phải tôn thờ trong tinh thần và sự thật (chân lý)” (Jn 4:24). Một ngôi nhà xây dựng bằng vật liệu không thể nhận đầy đủ hành động thánh hiến của Chúa Thánh Linh và vì thế không thể thực sự là “nơi Thiên Chúa ngự.” Ngôi nhà đích thực của Thiên Chúa phải là “ngôi nhà tinh thần (ngôi nhà thiêng liêng),” như Thánh Phêrô nói, được kiến tạo bằng “những tảng đá sống động,” nghĩa là những người nam và nữ đã được Chúa Thánh Linh thánh hiến nội tâm (tc. 1 Pet 2:4-10; Eph 2:21-22).
Bởi thế, theo lời tiên tri danh tiếng của ngôn sứ Ezekiel, Thiên Chúa hứa ban ơn Thánh Linh trong tâm hồn: “Ta sẽ minh chứng danh thánh vĩ đại của Ta, đã bị xúc phạm giữa muôn dân, giữa chúng (các dân nước đó) các ngươi đã xúc phạm danh thánh Ta ... Ta sẽ thanh tẩy các ngươi khỏi mọi ô uế và tà thần; Ta sẽ cho các ngươi trái tim mới và đặt Thần Khí mới của Ta vào lòng các ngươi ... Ta sẽ đặt Thánh Linh của Ta trong các ngươi ...” (Ez 36:23-27). Kết quả của hồng ân lạ lùng này là sự thánh thiện kiên trì, sống chân thành gắn bó với thánh ý Thiên Chúa. Nhờ sự hiện diện mật thiết của Chúa Thánh Linh, mọi trái tim sẽ thuận thảo đối với Thiên Chúa và đời sống của người tín hữu sẽ phù hợp lề luật Chúa.
Thiên Chúa phán: “Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta trong các ngươi và Ta sẽ làm cho các ngươi sống theo thánh luật của Ta và sẽ làm cho các ngươi tuân giữ thánh luật của Ta và thực hành các luật đó” (Ez 36:27). Như thế Thánh Linh thánh hóa toàn thể sự hiện hữu của nhân vị (the entire existence of the human person).
“Thần dối trá” chống lại Thánh Linh Thiên Chúa (tc. 1 Vua 22:21-23); “thần ô uế” chế ngự các cá nhân và dân tộc, khiến họ cúi đầu trước tà thần (ngẫu tượng). Theo lời tiên tri về việc giải phóng Jerusalem chép trong sách ngôn sứ Zachariah, trong bối cảnh thiên sai, chính Chúa hứa làm cho người ta trở lại và khiến thần ô uế biến mất: “Vào ngày đó ... Ta sẽ hủy diệt tên các ngẫu thần khỏi đất ... Ta cũng sẽ xua đuổi những ngôn sứ và thần ô uế khỏi miền đất ...” (Zech 13:1-2; tc. Jer 23:9 f.; Xh 13:2 ff.).
Chúa Giêsu chống lại “thần ô uế” (tc. Lc 9:42; 11:24). Về điều này, Chúa Giêsu nói tới sự can thiệp của Thánh Linh Thiên Chúa: “Nếu tôi nhờ Thánh Linh Thiên Chúa mà xua trừ ma quỉ, thì nước Thiên Chúa đã đến với các ông rồi” (Mt 12:28). Chúa Giêsu hứa với các môn đệ sự trợ giúp của “Đấng An Ủi,” Đấng “sẽ lên án thế gian ..., vì thủ lãnh thế gian đã bị kết án rồi” (Jn 16:8-11). Thánh Phaolô nói về Thần Khí xét xử theo lòng tin và tình yêu (tc. Gal 5:5-6), vạch rõ những gì là “công việc của xác thịt” và “hoa trái của thần khí” (tc. Gal 5:19 ff.), giảng dạy đời sống mới “theo Thần Khí”; Thần Khí mới mà các ngôn sứ đã nói.
Chúng ta đã đề cập tới và bây giờ cần phải nhắc lại lời ngôn sứ Isaiah nói rằng tất cả những cá nhân hoặc dân tộc theo thứ thần chống lại Thiên Chúa, “làm đau lòng” Thánh Linh Thiên Chúa. Chúng ta tìm thấy lời diễn tả trên đây trong phần thường gọi là Trito-Isaiah về lịch sử Israel: “Không phải người đưa tin cũng chẳng phải thiên thần, mà chính Ngài (Thiên Chúa) đã cứu họ. Vì yêu mến và xót thương mà chính Ngài đã cứu chuộc họ, nâng họ lên và cưu mang họ suốt thời gian quá khứ. Nhưng họ nổi loạn và làm đau lòng Thánh Linh của Ngài” (Is 63:9-10). Ngôn sứ đối chiếu lòng nhân từ đại lượng và tình yêu thương cứu độ của Thiên Chúa dành cho dân Ngài với sự vong ân bội bạc của họ. Trong cách mô tả nhân hình luận quy gán cho Thánh Linh Thiên Chúa sự đau buồn vì bị dân chúng bỏ rơi theo tâm lý loài người.
Tuy vậy, theo ngôn từ tiên tri dẫn thượng, chúng ta có thể nói tội của chúng ta làm buồn lòng Thần Khí Thiên Chúa cách đặc biệt vì Thần Khí này là thánh: tội phạm đến sự thánh thiện thần linh. Tội đó còn nặng nề hơn vì thần khí thánh của Thiên Chúa không những đã được đặt nơi ông Moses tôi tớ của Ngài (tc. Is 63:11), mà cũng được ban cho ông với tư cách người hướng dẫn dân Ngài xuất hành khỏi Ai cập (tc. Is 63:14) như là dấu chỉ và lời hứa ơn cứu độ mai hậu: “và chúng đã nổi loạn ...” (Is 63:10).
Với tư cách người thừa kế quan niệm và ngôn từ này của ngôn sứ Isaiah, Thánh Phaolô cũng khuyến cáo Kitô hữu tại Ephesus: “Anh chị em đừng làm buồn lòng Thánh Linh Thiên Chúa mà với Ngài anh chị em đã được đóng ấn để chờ ngày cứu độ” (Eph 4:30; 1:13-14).
Cách diễn tả: “làm buồn lòng Chúa Thánh Linh” cho thấy rõ dân chúng thời Cựu Ước đã dần dần tiến từ quan niệm về sự thánh thiện, một hình thức có vẻ ngoại tại hơn, tới khát vọng sự thánh hóa được thể hiện nội tại nhờ Thánh Linh Thiên Chúa.
Việc sử dụng tước hiệu “Chúa Thánh Linh” ngày càng nhiều cho thấy sự tiến hóa này. Hầu hết các Sách Thánh thời xưa không có danh hiệu này. Danh hiệu này xuất hiện từ từ, chính vì danh hiệu đó nói về vai trò Chúa Thánh Linh trong việc thánh hóa các tín hữu. Trong nhiều phần khác nhau, thánh ca Qumran cảm tạ Thiên Chúa vì việc thanh tẩy nội tại được thể hiện nhờ Chúa Thánh Linh (chẳng hạn Những Ca Vịnh từ Hốc đá I ở Qumran, 16:12; 17:26 = Hymns from the First Cave of Qumran, 16:12; 17:26).
Ước vọng mãnh liệt của người tín hữu không còn chỉ là được giải phóng khỏi những kẻ áp bức, như trong thời các Thủ Lãnh (Judges), nhưng hơn hết là có thể phục vụ Chúa “trong sự thánh thiện và công chính, ở trước mặt Ngài ngày ngày suốt đời chúng tôi” (Lc 1:75). Muốn việc này xảy ra cần phải có ơn thánh hóa của Chúa Thánh Linh.
Phúc Âm trả lời cho ước nguyện này. Điều có ý nghĩa quan trọng là, trong cả bốn Phúc Âm, từ ngữ “thánh” xuất hiện lần đầu tiên liên hệ với Thánh Linh, cả khi nói về sự chào đời của Thánh Gioan Tẩy Giả, việc Chúa Giêsu giáng sinh (Mt 1:18-20; Lc 1:15-25), và lời loan báo Phép Rửa trong Chúa Thánh Linh (Mc 1:8; Jn 1:33). Trong lời tường thuật thiên sứ Gabriel báo cho Đức Maria thánh ý Thiên Chúa muốn Người cưu mang Ngôi Lời Nhập Thể, Đức Trinh Nữ Maria nghe những lời thiên sứ Gabriel: “Chúa Thánh Linh sẽ ngự xuống trên Trinh Nữ ... vì Đấng sẽ được sinh ra là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1:35). Như thế hành động thánh hóa chính yếu của Chúa Thánh Linh đã bắt đầu, và cũng được an bài lan tràn tới khắp mọi người.
Buổi gặp chung ngày 21 tháng Hai, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
www.thanhlinh.net [2]
Links:
[1] https://thanhlinh.net/node/10173
[2] http://www.thanhlinh.net/