CHÚA THÁNH LINH
ĐẤNG BAN SỰ SỐNG và TÌNH YÊU
Giáo Lý dựa trên Kinh Tin Kính do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giảng dạy.
Đây là sách về giảng dạy đầy đủ nhất về Chúa Thánh Thần mà mọi tủ sách gia đình cần có.
G.S. Nguyễn Đức Tuyên và Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi chuyển dịch
Chúa Thánh Linh theo Kinh Tin Kính
“Tôi tin Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa, là Đấng Ban Sự Sống, Ngài bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra. Ngài cũng được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con; Ngài đã dùng các ngôn sứ (tiên tri) mà phán dạy.” Bằng những lời trên đây, kinh Tin Kính Công Đồng Nicene-Constantinopolitan minh định đức tin của Giáo Hội về Chúa Thánh Linh, Đấng được nhìn nhận là Thiên Chúa thật, cùng với Chúa Cha và Chúa Con, trong hiệp nhất Ba Ngôi Thiên Chúa. Tín điều này được Công Đồng Constantinople I (381) minh định, dựa trên bản văn trước là kinh Tin Kính Nicene (theo Công Đồng Nicaea (325) (tc. DS 150).
Trong phụng vụ, Giáo Hội nhắc đi nhắc lại tín điều Chúa Thánh Linh là Ngôi Ba Thiên Chúa, nên không những chỉ là lời tuyên xưng mà còn là lời chứng đức tin. Chẳng hạn trong vinh tụng ca Thiên Chúa Ba Ngôi (kinh Sáng Danh), theo luật, kinh này kết thúc phần cầu nguyện phụng vụ: “Sáng danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Linh.” Như thế vinh tụng ca là những lời cầu nguyện dâng lên Chúa Cha: “nhờ Chúa Kitô Chúa chúng con, Đấng hằng sống và hiển trị cùng với Chúa Cha trong hiệp nhất với Chúa Thánh Linh, Thiên Chúa hằng hữu đời đời.”
Ca từ “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời” cũng bao gồm cấu trúc Tam Vị. Kinh Vinh Danh giúp chúng ta tôn vinh Thiên Chúa Cha và Chúa Con, cùng với Chúa Thánh Linh: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, chỉ có Chúa là Đấng Tối Cao, cùng với Chúa Thánh Linh, trong vinh quang Chúa Cha.”
Đức tin của Giáo Hội có cội nguồn bản thể trong mạc khải Thiên Chúa. Thiên Chúa dứt khoát mạc khải chính Ngài là Chúa Cha trong Chúa Giêsu Kitô, Chúa Con đồng bản tính, là Đấng do quyền năng Chúa Thánh Linh đã làm người và sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria. Chúa Thánh Linh được mạc khải qua Chúa Con. Thiên Chúa duy nhất tự khải là Thiên Chúa Ba Ngôi: (Chúa) Cha, (Chúa) Con và (Chúa) Thánh Linh. Lời cuối cùng của Chúa Con, Đấng đã được Chúa Cha phái đến thế gian, là ủy thác cho các tông đồ việc “giảng dạy muôn dân, làm Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Linh” (Mt 28:19). Chúng ta đã thấy trong các bài giáo lý trước những tiêu biểu về mạc khải liên quan tới Chúa Thánh Linh và Thiên Chúa Ba Ngôi trong những giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô.
Chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu Kitô mạc khải Chúa Thánh Linh trong khi Ngài thi hành sứ mệnh thiên sai. Chúa Giêsu tuyên bố Ngài làm việc “với quyền năng của Chúa Thánh Linh” (chẳng hạn, khi trừ quỉ: tc. Mt 12:28). Nhưng chúng ta có thể nói mạc khải đó tập trung súc tích trong phần kết thúc sứ mệnh của Ngài bằng lời loan báo về việc Ngài trở về với Chúa Cha. Sau khi Chúa Giêsu ra đi, Chúa Thánh Linh sẽ là “Đấng Phù Trợ mới.” Chính Ngài, “Thánh Linh chân ly,” hướng dẫn các tông đồ và Giáo Hội suốt lịch sử: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em Đấng Phù Trợ khác ở với anh em luôn mãi, Thánh Linh chân lý, Đấng mà thế gian không thể chấp nhận, vì thế gian không thấy cũng chẳng biết Ngài” (Jn 14:16-17). Chúa Thánh Linh, Đấng sẽ từ Chúa Cha mà đến nhân danh Chúa Kitô, “sẽ dạy anh em mọi điều và nhắc anh em nhớ lại những điều Thầy đã dạy anh em” (Jn 14:26). Lại nữa: “Khi Ngài đến, Ngài sẽ lên án thế gian về tội lỗi, về công lý và việc xét xử” (Jn 16:8). Đây là lời hứa xác đáng. Chúng ta có thể nói đây là di chúc, song song với những di chúc về tình yêu và Phép Thánh Thể mà Chúa Giêsu đã để lại cho các môn đệ trong Tiệc Ly.
Sau khi Chúa Kitô chịu khổ nạn cứu độ, phục sinh và lên trời, Lễ Hiện Xuống hoàn thành lời Ngài loan báo với các tông đồ và là lúc khởi đầu hoạt động của Chúa Thánh Linh giữa các thế hệ suốt mọi thời đại mai hậu, vì Chúa Thánh Linh “đời đời” ở với Giáo Hội (Jn 14:16). Chúng ta đã nói nhiều về đề tài này trong các bài giáo lý trước.
Nguyên ủy nền tảng về nguồn gốc Giáo Hội trong Công Vụ Tông Đồ cho biết các tông đồ “được tràn đầy Chúa Thánh Linh” và “hiên ngang loan báo lời Thiên Chúa” (Cv 2:4; 4:31). Công Vụ Tông Đồ cũng cho biết từ thời các tông đồ “thế giới” đã chống lại không phải chỉ hành động của các tông đồ, mà còn phản đối hành động của Đấng Vô Hình hoạt động qua các ngài, như được thấy trong việc các ngài lên án những kẻ áp bức: “Các ngươi luôn luôn chống lại Chúa Thánh Linh” (Cv 7:51). Việc đó cũng thường xảy ra trong những thời đại lịch sử kế tiếp. Việc chống đối Đấng vô hình hoạt động nơi các tông đồ có thể lên tới mức độ trọng tội: tội “xúc phạm Chúa Thánh Linh.” Chính Chúa Giêsu nói thêm đây là tội sẽ không được tha thứ (tc. Mt 12:31; Lc 12:10).
Chúa Giêsu hứa Chúa Thánh Linh là Đấng ban phát mọi ân sủng Thiên Chúa trong Giáo Hội từ khởi đầu và tiếp tục suốt mọi thế hệ (dator munerum, như chúng ta gọi Ngài trong Bài Ca Tiếp Liên Lễ Hiện Xuống). Chúa Thánh Linh là Đấng hướng dẫn những ân sủng ban trực tiếp cho việc thánh hóa cá nhân và những ơn ban cho một số người vì lợi ích cho người khác (như trường hợp một số đặc sủng). “Nhưng Thánh Linh là Đấng duy nhất ban mọi ơn này, phân phát từng ơn đó cho mỗi người một cách theo ý Ngài” (1 Cor 12:11). Chúa Thánh Linh ban cả “những ân sủng phẩm trật,” Công Đồng Vatican II (LG 4) gọi các ơn đó là những ơn cần thiết cho việc hướng dẫn Giáo Hội (tc. Cv 20:28).
Dựa trên căn bản những điều Chúa Giêsu mạc khải và các thánh tông đồ truyền lại, kinh Tin Kính tuyên xưng lòng tin vào Chúa Thánh Linh là “Thiên Chúa,” Ngôi Lời Đấng mặc thân xác loài người là Thiên Chúa: “Chỉ có Chúa là Chúa ... cùng với Chúa Thánh Linh.” Kinh Tin Kính cũng minh xác thêm rằng Chúa Thánh Linh ban sự sống. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban sự sống cho nhân loại. Vậy Chúa Thánh Linh là Thiên Chúa. Là Thiên Chúa, nên Chúa Thánh Linh là tác giả sự sống nhân loại. Ngài là tác giả sự sống mới và vĩnh cửu mà Chúa Giêsu đem lại, nhưng cũng là tác giả mọi hình thức sự sống: sự sống nhân loại và sự sống của mọi loài (Creator Spiritus).
Chân lý này của đức tin được hình thành trong kinh Tin Kính Nicene-Constantinopolitan. Chúng ta hiểu và chấp nhận chân lý này là do Thiên Chúa mạc khải qua Chúa Giêsu Kitô và thuộc sở hữu của “kho tàng mạc khải”, mà các thánh tông đồ trao lại cho các cộng đồng tiên khởi, và từ đó chân lý này được trao truyền lại qua giáo huấn liên tiếp của các Giáo Phụ. Theo lịch sử, chúng ta có thể nói Công Đồng Constantinople I đã thêm đề tài đức tin này vào kinh Tin Kính Nicene. Đề tài đức tin này đã phải đương đầu với một số người chối bỏ thiên tính của Chúa Thánh Linh, cũng như những người khác, đặc biệt là những người theo phái Arian, chống lại thiên tính của Chúa Kitô là Chúa Con là Ngôi Lời. Cả hai trường hợp trên những người đó hầu như tâm trí không bình thường vì chủ nghĩa duy lý kiêu căng của họ trước mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi!
Những người chống đối thiên tính của Chúa Thánh Linh mệnh danh là “pneumatomachians = những người phủ nhận thiên tính của Chúa Thánh Linh”, hoặc “Macedonians” (do tên của thủ lãnh những người này là Macedonius). Các vị đại Giáo Phụ chống lại những ý kiến sai lầm này, trong số đó là Thánh Athanasius (+373), đặc biệt là trong thư ngài gửi cho Serapion (1, 28-30) minh xác tính cách đồng vị của Chúa Thánh Linh với Chúa Cha và Chúa Con trong hiệp nhất Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngài minh chứng tính cách đồng vị này căn cứ vào “truyền thống cổ xưa, tín lý của Giáo Hội Công Giáo, mà chúng ta hiểu là đã được Chúa ban cho chúng ta, các tông đồ rao giảng và các Giáo Phụ bênh vực ...” (tc. PG 26,594-595).
Các Giáo Phụ đánh giá mạc khải tích chứa trong Sách Thánh theo tính cách sung mãn và ý nghĩa trọn vẹn của mạc khải, các ngài không những chỉ bênh vực chân lý và quan niệm trọn vẹn về Thiên Chúa Ba Ngôi, mà còn ghi chú thêm rằng nếu chối bỏ thiên tính của Chúa Thánh Linh, thì cũng cần phải loại bỏ việc “thiên chúa hóa (thần linh hóa = divinization)” con người nhờ ân sủng - tức là nhân tính được nâng lên chia sẻ đời sống Thiên Chúa. Theo Phúc Âm, “thiên chúa hóa con người” cũng là công việc của Chúa Thánh Linh, vì chỉ có Đấng là Thiên Chúa mới có thể đem lại sự chia sẻ sự sống thần linh. Và theo lời Chúa Giêsu (tc. Jn 6:63) thì chính Chúa Thánh Linh là Đấng “ban sự sống.”
Chúng ta phải thêm rằng lòng tin vào Chúa Thánh Linh là một Ngôi Thiên Chúa, như kinh Tin Kính Nicene-Constantinopolitan tuyên xưng, đã được Huấn Quyền của Giáo Hội nhiều lần long trọng minh xác. Chẳng hạn, các quy điển của Công Nghị Roma năm 382 là một bằng chứng về điều này. Đức Giáo Hoàng Damasus I phổ biến những quy điển đó: Chúa Thánh Linh “đồng bản tính và đích thực là Thiên Chúa,” và “như Chúa Con và Chúa Cha, Chúa Thánh Linh cũng có thể làm mọi sự, biết mọi sự và hiện diện khắp mọi nơi” (DS 168-169).
Hình thức ngắn gọn súc tích của kinh Tin Kính năm 381 nói về thiên tính của Chúa Thánh Linh: “Ngài là Thiên Chúa” như Chúa Cha và Chúa Con là Thiên Chúa, và thêm vào cách hợp lý: “Ngài được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con.” Chúa Thánh Linh là “Đấng ban sự sống.” Tức là, cùng với Chúa Cha và Chúa Con Ngài sở đắc quyền năng tạo dựng, đặc biệt là quyền năng thánh hóa và ban sự sống trong trật tự ân sủng siêu nhiên. Quyền này được quy chiếu cho Ngôi Vị của Chúa Thánh Linh. Điều chính đáng là Chúa Thánh Linh được phụng thờ và tôn vinh như Chúa Cha và Chúa Con, Chúa Thánh Linh từ Chúa Cha và Chúa Con mà ra là tận điểm tình yêu hằng hữu của Chúa Cha và Chúa Con, trong bản tính bình đẳng và hiệp nhất tuyệt hảo.
Kinh Tinh Kính còn đặc biệt quy chiếu cho Ngôi Ba của Chúa Ba Ngôi vai trò tác giả thần linh các lời tiên tri. Ngài là Đấng “đã dùng các tiên tri mà phán dạy.” Như thế nguồn gốc ơn linh ứng của các ngôn sứ thuộc Cựu Ước được nhìn nhận, khởi đầu từ ông Moses (tc. Tl 34:10) và kéo dài qua ngôn sứ Malachi. Các vị này để lại cho chúng ta những điều Thiên Chúa chỉ dạy được viết thành văn. Chúa Thánh Linh linh ứng các ngôn sứ. Vua David, ngài cũng là một “ngôn sứ” (Cv 2:30), đã nói điều đó về chính ngài (2 Sam 22:2); ngôn sứ Ezekiel cũng đề cập đến điều đó (Ez 11:5). Trong bài giảng đầu tiên vào ngày Chúa Thánh Linh hiện xuống, Thánh Phêrô diễn tả cũng niềm tin dẫn thượng, nhìn nhận “Chúa Thánh Linh đã nói qua miệng vua David” (Cv 1:16). Tác giả Thư gửi các tín hữu Do Thái mô tả tương tự về chính mình (Dt 3:7; 10:15). Với lòng biết ơn sâu xa, Giáo Hội tiếp nhận Sách các tiên tri như hồng ân từ Chúa Thánh Linh, Đấng cho thấy chính Ngài rất gần gũi và hoạt động từ khởi đầu lịch sử cứu độ nhân loại.
Buổi gặp chung ngày 31 tháng Mười, 1990
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
Links:
[1] https://thanhlinh.net/node/10173
[2] http://www.thanhlinh.net/