(Bản dịch của Ban Biên Tập Công Giáo Việt Nam)
Gioan - Chương 1
I. Lời mở đầu (1:1–18)
1Từ khởi đầu đã có Ngôi Lời,
Ngôi Lời hướng về§ Thiên Chúa,
và Ngôi Lời là Thiên Chúa.
2Ngài hằng hướng về Thiên Chúa ngay từ khởi đầu.
3Nhờ Ngài mà tất cả được tạo thành,
không có Ngài thì chẳng có gì được tạo thành;
4nơi Ngài có sự sống,
và sự sống là sự sáng của nhân loại,
5sự sáng chiếu soi trong bóng tối,
và bóng tối đã không ngăn chặn được ánh sáng.
6Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên ông là Gioan; 7ông đến như chứng nhân, để làm chứng về ánh sáng, hầu mọi người nhờ ông mà tin. 8Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. 9Sự sáng đích thật đã đến trần gian để soi sáng cho mọi người.
10Ngài ở trong trần gian,
và trần gian nhờ Ngài mà có,
nhưng trần gian lại không nhận biết Ngài.
11Ngài đã đến với dân tộc mình
nhưng họ chẳng đón tiếp Ngài.
12Còn những ai tiếp nhận Ngài, tức là tin vào Danh Ngài, thì Ngài ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa, 13những người ấy được sinh ra không phải bởi máu huyết, xác thịt hay ý muốn của loài người nhưng bởi Thánh Ý Thiên Chúa.
14Ngôi Lời đã trở nên người phàm,
và đã ở giữa chúng ta;
và chúng ta đã thấy vinh quang của Ngài,
vinh quang Ngài có được từ Cha Ngài,
Ngài là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.
15Gioan làm chứng về Ngài khi công bố: “Chính Ngài là Đấng mà tôi đã nói: Đấng đến sau tôi nhưng lại cao trọng hơn tôi, vì Ngài có trước tôi”. 16Mỗi người chúng ta đã nhờ Ngài mà nhận lãnh hết ân sủng này đến ân sủng khác vì Ngôi Lời chính là Ân Sủng; 17bởi vì qua ông Môsê, lề luật được ban cho chúng ta; nhưng qua Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa ban cho chúng ta ân sủng và sự thật. 18Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ; chỉ Người Con Một, vốn là Thiên Chúa và ở trong cung lòng Cha, mới là Đấng tỏ cho chúng ta biết Cha.
II. Sách các dấu lạ
(1:19–12:50)
Gioan nói về chính mình.
19Gioan đã làm chứng khi những người Do Thái từ Giêrusalem cử các tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi: “Ông là ai?”. 20Ông không úp mở mà công khai tuyên bố: “Tôi không phải là Đấng Kitô”. 21Họ hỏi ông: “Vậy là sao? Ông có phải là ngôn sứ Êlia không?”. Ông trả lời: “Tôi không phải là ngôn sứ Êlia”. “Ông có phải là Vị Ngôn Sứ?”. Ông trả lời: “Không”. 22Vậy họ nói với ông: “Ông là ai để chúng tôi trả lời cho những người đã sai chúng tôi? Ông nói gì về mình?”. 23Ông trả lời:
“Tôi là tiếng hô trong sa mạc:
“Hãy san phẳng con đường của Chúa”,
như ngôn sứ Isaia đã nói”. 24Những người đó đã được nhóm Pharisêu cử đến; 25họ hỏi rằng: “Tại sao ông làm phép rửa nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là Êlia, hay Vị Ngôn Sứ?”. 26Gioan trả lời: “Chính tôi làm phép rửa trong nước; nhưng giữa các ông có Đấng mà các ông không biết, 27Đấng ấy đến sau tôi, và tôi không xứng đáng xỏ giầy cho Ngài”. 28Việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi Gioan làm phép rửa.
Gioan nói về Chúa Giêsu.
29Ngày hôm sau, khi thấy Chúa Giêsu đến với mình, Gioan công bố: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. 30Chính Ngài là Đấng tôi đã nói: Ngài đến sau tôi nhưng cao trọng hơn tôi, vì Ngài đã có trước tôi. 31Tôi không biết Ngài, nhưng để Ngài được tỏ ra cho Israel mà tôi đến làm phép rửa trong nước”. 32Và Gioan tiếp tục đưa ra chứng cứ: “Tôi đã thấy Thần Khí từ trời như chim bồ câu xuống ngự trên Ngài; 33dù tôi không biết Ngài, nhưng Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước đã nói với tôi: “Con thấy Thần Khí ngự xuống trên ai, thì đó chính là Đấng làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần”. 34Chính tôi đã thấy, và tôi làm chứng Ngài là Con Thiên Chúa”.
Những môn đệ đầu tiên.
35Hôm sau nữa, Gioan đứng đó với hai trong số các môn đệ của ông, 36đưa mắt nhìn Chúa Giêsu đang đến, ông nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. 37Hai môn đệ nghe vậy và họ đi theo Chúa Giêsu. 38Quay lại và thấy họ theo mình, Chúa Giêsu hỏi: “Các con tìm kiếm gì?” Họ trả lời Ngài: “Thưa Rabbi§ ¾ nghĩa là: Thưa Thầy ¾ Thầy ở đâu?”. 39Ngài nói với các ông: “Hãy đến, và các con sẽ thấy”. Vậy họ đi xem nơi Ngài ở và lưu lại với Ngài ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười§. 40Anđrê, em ông Simon Phêrô, là một trong hai môn đệ đã nghe lời Gioan và đã đi theo Chúa Giêsu. 41Vừa gặp Simon anh mình, Anđrê nói ngay: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia” ¾ nghĩa là Đấng Kitô§; 42Anđrê dẫn Simon đến với Chúa Giêsu. Ngài nhìn ông và nói: “Con là Simon, con ông Gioan, con sẽ được gọi là Kêpha” ¾ nghĩa là Đá.
43Ngày hôm sau, Chúa Giêsu quyết định đi Galilê. Ngài gặp Philipphê và nói với ông: “Hãy theo Thầy”. 44Philipphê là người Bétsaiđa, cùng làng với Anđrê và Phêrô. 45Philipphê tìm Nathanael và bảo: “Chúng tôi đã gặp Đấng mà Môsê đã viết trong sách Luật và sách Các Ngôn Sứ, đó là Chúa Giêsu, con ông Giuse, người Nagiarét”. 46Nathanael đáp lại: “Từ Nagiarét mà lại có điều tốt sao?”. Philipphê trả lời: “Hãy cứ đến mà xem”. 47Khi Chúa Giêsu thấy Nathanael đến với mình, Ngài nói về ông: “Đây quả thực là một người Israel§, nơi ông không có gì gian dối”. 48Nathanael hỏi Ngài:
“Bởi đâu Ngài biết con?”. Chúa Giêsu trả lời ông: “Trước khi Philipphê gọi con, Thầy đã thấy con đứng dưới cây vả”. 49Nathanael nói với Ngài: “Thưa Rabbi, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Israel!”. 50Chúa Giêsu trả lời và nói với ông: “Thầy nói với con rằng Thầy đã thấy con dưới cây vả và vì thế con tin? Con sẽ thấy những việc lớn lao hơn nữa”. 51Và Ngài nói thêm: “Amen, amen§, Thầy bảo các con: các con sẽ nhìn thấy trời mở ra, và các thiên thần của Thiên Chúa lên xuống trên Con Người”.
================
§ Ga 1, 1 Giới tự “pros”: có thể dịch theo hai nghĩa: “hướng về”; hoặc: “ở bên, ở với, ở cùng”. Ở đây bản dịch chọn nghĩa “hướng về” để diễn tả sự chuyển động nội tại trong Ba Ngôi; giới thiệu căn tính của Chúa Giêsu theo Tin Mừng Gioan: “Chúa Giêsu là ai?, Ngài từ đâu tới? Và Ngài đi đâu?”.
§ Ga 1, 38 Danh hiệu “Rabbi”: được dùng để kính cẩn xưng hô với một bậc thầy sáng giá về luật Do Thái. Chúa Giêsu được mọi người xưng hô là “Rabbi” trong các Tin Mừng Gioan cũng được các môn đệ của mình xưng hô là “Rabbi”. (Ga 3, 26).
§ Ga 1, 39 “Giờ thứ mười” tức khoảng 4 giờ chiều (x. Mt 20, 3-6).
§ Ga 1, 41 Từ ngữ “Kitô” hay “Đấng Kitô” được phiên âm từ chữ “Khristos” trong tiếng Hy Lạp. Tuy nhiên, từ “Khristos” ở câu Ga 1, 41 này và Ga 4, 25 lại được tác giả dịch từ một công thức tiếng Hípri là “Messia” và từ này có nghĩa là “Đấng Được Xức Dầu” hay là “Đấng Thiên Sai”.
§ Ga 1, 47 Tên gọi “Do Thái” thường được hiểu theo nghĩa chung, còn tên “Israel” sẽ được hiểu là dân riêng (được tuyển chọn) của Thiên Chúa. (x. Mt 27, 42).
§ Ga 1, 51 “Amen”: (x. Mt 5, 18).
Gioan - Chương 2
Đám cưới tại Cana.
1Ngày thứ ba, có một đám cưới tại Cana xứ Galilê, và Mẹ Chúa Giêsu có mặt ở đó; 2Chúa Giêsu cũng được mời dự cùng với các môn đệ của Ngài. 3Khi thấy hết rượu, Mẹ Chúa Giêsu nói với Ngài: “Họ không còn rượu nữa”. 4Chúa Giêsu trả lời: “Thưa mẹ, mẹ và Con có liên can gì đây? Giờ của Con chưa tới”. 5Mẹ Ngài nói với những người giúp việc ở đó rằng: “Ngài bảo gì, các anh cứ làm theo”. 6Ở đấy có sáu cái chum đá đựng nước, dùng để thanh tẩy theo nghi thức của người Do Thái; mỗi chum chứa khoảng hai hay ba thùng§. 7Chúa Giêsu bảo các người giúp việc: “Các anh hãy đổ nước đầy những chum ấy”. Và họ đổ đầy tới miệng. 8Ngài lại nói với họ: “Bây giờ hãy múc một ít đưa cho ông chủ tiệc”. Họ liền làm theo. 9Ông này nếm chút nước đã biến thành rượu và không biết rượu này ở đâu ra, nhưng những người giúp việc, những người múc nước thì biết rõ. Người chủ tiệc mới gọi chàng rể 10và nói: “Tiệc nào cũng đãi rượu ngon trước, rồi khi khách đã ngà ngà thì mới mang rượu kém ra. Đàng này, anh lại giữ rượu ngon đến tận bây giờ”. 11Thực hiện dấu lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilê, Chúa Giêsu đã bày tỏ vinh quang của Ngài, và các môn đệ tin vào Ngài.
12Sau đó, Ngài xuống Caphanaum với mẹ, anh em và các môn đệ, và họ lưu lại đó vài ngày.
Thanh tẩy Đền Thờ.
13Lễ Vượt Qua§ của người Do Thái đã gần kề, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. 14Trong Đền Thờ, Ngài thấy la liệt những người buôn bán bò bê, chiên cừu và chim bồ câu, cùng với những người đổi tiền; 15Ngài lấy dây thừng làm roi, và xua đuổi tất cả ra khỏi Đền Thờ cùng với chiên cừu, bò bê của họ; Ngài hất tiền bạc xuống đất, lật đổ bàn đổi tiền của họ; 16và nói với những người bán bồ câu rằng: “Mang những thứ này ra khỏi đây! Đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán”. 17Các môn đệ của Ngài nhớ lại Lời đã được viết: “Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa sẽ thiêu đốt con”. 18Những người Do Thái nói với Ngài rằng: “Ông lấy dấu nào để chúng tôi thấy là ông có quyền làm như vậy?”. 19Chúa Giêsu trả lời và nói với họ: “Cứ phá hủy Đền Thờ này đi, và nội trong ba ngày Tôi sẽ dựng lại”. 20Những người Do Thái nói: “Phải mất bốn mươi sáu năm để xây Đền Thờ này, vậy mà ông chỉ cần ba ngày thôi sao?”. 21Nhưng Ngài có ý nói đến Đền Thờ là chính thân thể Ngài. 22Khi Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết, các môn đệ nhớ lại Ngài đã nói điều này, nên họ tin Kinh Thánh và những lời Ngài đã nói.
23Trong thời gian Ngài ở lại Giêrusalem mừng Lễ Vượt Qua, rất nhiều kẻ tin vào Danh Ngài, vì đã tận mắt chứng kiến những dấu lạ Ngài thực hiện. 24Nhưng Chúa Giêsu không tin tưởng họ, bởi vì Ngài biết tất cả, 25và cũng không cần phải có ai làm chứng về con người; vì chính Ngài đã biết có gì nơi con người rồi.
==============
§ Ga 2, 6 Mỗi thùng khoảng 40 lít, như vậy mỗi chum chứa khoảng từ 80 tới 120 lít.
§ Ga 2, 13 “Lễ Vượt Qua”: (x. Mt 26, 17).
Gioan - Chương 3
Ông Nicôđêmô.
1Có một người trong nhóm Pharisêu tên là Nicôđêmô, một thủ lãnh của người Do Thái; 2ông đến gặp Chúa Giêsu ban đêm và thưa với Ngài: “Thưa Rabbi, chúng tôi biết Thầy là bậc Tôn Sư Thiên Chúa gửi đến, bởi vì không ai làm được những dấu lạ như Thầy làm nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy”. 3Chúa Giêsu trả lời và nói với ông: “Amen, amen, Tôi nói cho ông biết: nếu không được tái sinh bởi trời cao§, người ta sẽ không thể thấy Nước Thiên Chúa”. 4Nicôđêmô hỏi lại Ngài: “Làm sao một người có thể tái sinh khi đã lớn tuổi? Chẳng lẽ phải vào trong dạ mẹ một lần nữa để rồi được sinh ra sao?”. 5Chúa Giêsu trả lời: “Amen, amen, Tôi nói cho ông biết: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa nếu không được tái sinh bởi Nước và Thần Khí§. 6Sự gì sinh ra bởi xác thịt, là xác thịt; còn sự gì sinh ra bởi Thần Khí, là Thần Khí. 7Xin đừng ngạc nhiên vì Tôi đã nói các ông cần phải được tái sinh bởi trời cao. 8Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió nhưng không thể biết được gió từ đâu tới và sẽ đi đâu. Mọi kẻ được sinh ra bởi Thần Khí cũng thế. 9Nicôđêmô đáp lại và thưa với Ngài: “Làm sao điều đó có thể xảy ra được?”. 10Chúa Giêsu trả lời và nói với ông: “Ông là bậc thầy dạy dỗ Israel mà lại không biết những điều ấy sao? 11Amen, amen, Tôi bảo cho ông biết: chúng tôi nói đến những điều chúng tôi biết, chúng tôi làm chứng về những điều chúng tôi đã nhìn thấy, thế mà các ông lại không đón nhận chứng cứ của chúng tôi. 12Nếu các ông không tin được khi Tôi nói với các ông về những điều ở dưới đất, thì làm sao các ông có thể tin được khi Tôi nói với các ông về những sự ở trên trời? 13Không ai đã lên trời ngoại trừ chính Đấng đã từ trời xuống, là Con Người§. 14Cũng như Môsê đã giương cao con rắn lên trong sa mạc thế nào thì Con Người cũng phải được giương cao như vậy, 15để tất cả những ai tin vào Ngài thì có sự sống đời đời”.
16Bởi Thiên Chúa quá yêu thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một của Ngài để bất cứ ai tin vào Người Con ấy sẽ không bị hư mất nhưng được sống đời đời. 17Thiên Chúa không cử Con đến thế gian để lên án, nhưng để nhờ Ngài mà thế gian được cứu thoát. 18Ai tin vào Ngài sẽ thoát khỏi án phạt; kẻ nào không tin thì đã bị kết án rồi, bởi vì không chịu tin vào Danh Con Một Thiên Chúa. 19Và đây là lời tuyên án: Ánh sáng đã đến trong thế gian, nhưng con người lại thích bóng tối hơn ánh sáng; bởi vì các việc làm của họ xấu xa. 20Kẻ làm điều xấu thì ghét ánh sáng và không đến với ánh sáng vì sợ những việc xấu xa mình làm bị phơi bày dưới ánh sáng; 21nhưng kẻ nào làm sự thật thì đến với ánh sáng để cho thấy rằng họ đã làm mọi việc trong Thiên Chúa.
Lời chứng cuối cùng của Gioan.
22Sau sự việc trên, Chúa Giêsu cùng với các môn đệ của Ngài đến Giuđê; Ngài lưu lại đấy với các ông và làm phép rửa. 23Còn Gioan thì làm phép rửa ở Enôn, gần Salim, nơi có nhiều nước và người ta tuôn đến để được thanh tẩy; 24khi đó Gioan còn chưa bị tống ngục. 25Và xảy ra có cuộc tranh cãi giữa các môn đệ của Gioan và một người Do Thái về việc thanh tẩy. 26Các môn đệ của Gioan đến gặp và nói với ông: “Thưa Rabbi, người đã từng đến với thầy ở bên kia sông Giođan, người mà thầy đã đứng ra làm chứng cho, giờ đây ông ta cũng làm phép rửa và mọi người đều tuốn đến với ông ấy!”. 27Gioan trả lời và nói: “Nếu trời cao không ban cho thì không ai có gì hết. 28Chính anh em làm chứng cho thầy rằng thầy đã từng nói: tôi không phải là Đấng Kitô mà chỉ là kẻ được cử đi trước Ngài thôi. 29Ai có cô dâu thì là chú rể; còn bạn của chú rể thì đứng đó, lắng nghe tiếng của chàng và thấy hạnh phúc vì tiếng ấy. Vậy là niềm vui của thầy đã được trọn hảo. 30Ngài phải lớn lên; còn thầy phải nhỏ đi”.
Đấng từ Trời xuống.
31Đấng từ trời cao mà đến thì ở trên tất cả mọi người; kẻ bởi đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Đấng đến từ trời thì ở trên mọi sự; 32và Ngài làm chứng về điều đã thấy và đã nghe, nhưng chẳng ai chịu đón nhận chứng cứ của Ngài. 33Ai đón nhận chứng cứ của Ngài thì tin chắc rằng Thiên Chúa là Đấng Chân Thật. 34Đấng Thiên Chúa gửi đến đã nói Lời của Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Ngài vô ngần vô tận. 35Cha yêu
mến Con và đặt để tất cả trong tay Ngài. 36Người nào tin Con thì có sự sống đời đời; người nào không tin Con thì không có sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa vẫn đè nặng trên người ấy.
=================
§ Ga 3, 3 Việc sinh ra này “bởi trời cao” (từ trên), có nghĩa đó là công việc của một mình Thiên Chúa, và như vậy, việc sinh ra mà Đức Giêsu nói với Nicôđêmô chính là sự “tái sinh” và là “sự bắt đầu lại” (một lần nữa). Tái sinh “từ trên”, nghĩa là từ Thánh Thần Thiên Chúa. Sinh lại “một lần nữa”, nghĩa là từ Nước Thanh Tẩy.
§ Ga 3, 5 “Thần Khí”: (x. Ga 4, 24, Mt 4, 1).
§ Ga 3, 13 “Con Người”: (viết hoa): (x. Mt 8, 20).
Gioan - Chương 4
1Chúa Giêsu biết người Pharisêu đã nghe đồn rằng Ngài có nhiều môn đệ hơn, và cũng làm phép rửa cho nhiều người hơn Gioan ¾ 2thật ra thì không phải đích thân Chúa Giêsu làm phép rửa nhưng là các môn đệ của Ngài ¾ 3cho nên Ngài rời Giuđê mà đi đến Galilê.
Người phụ nữ Samari.
4Và như vậy, Ngài phải đi ngang qua Samari. 5Ngài đến một thành của xứ Samari có tên là Sika, gần ngay vùng đất Giacóp đã cho con mình là Giuse; 6ở đó có cái giếng Giacóp. Chúa Giêsu mệt mỏi vì cuộc hành trình nên đến ngồi bên bờ giếng; lúc đó vào giờ thứ sáu§.
7Một phụ nữ người Samari đến giếng múc nước, Chúa Giêsu nói với chị: “Xin cho tôi chút nước uống”; 8các môn đệ của Ngài lúc đó đã vào thành để mua thức ăn. 9Chị phụ nữ Samari thưa với Ngài: “Tại sao ông là người Do Thái mà lại đi xin phụ nữ Samari nước uống?”. Bởi vì người Do Thái vốn không giao thiệp với người Samari. 10Chúa Giêsu trả lời: “Nếu chị biết những ân sủng của Thiên Chúa và ai là người đang nói với chị: “Cho tôi chút nước uống”, thì chính chị sẽ xin Ngài nước, và Ngài sẽ cho chị Nước Hằng Sống”. 11Chị thưa với Ngài: “Thưa ông, ông không có gì để múc mà giếng lại sâu. Vậy làm sao ông có thứ Nước Hằng Sống ấy được? 12Chẳng lẽ ông lớn hơn cả cha chúng tôi là Giacóp sao? Chính người đã đào cho chúng tôi giếng này, rồi người cùng con cái và đàn gia súc cũng đã uống nước giếng này?”. 13Chúa Giêsu trả lời và nói với chị: “Tất cả những ai uống nước giếng này rồi sẽ lại khát; 14nhưng ai uống nước chính Tôi sẽ ban cho thì không bao giờ còn khát nữa; vì nước Tôi sẽ ban cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời”. 15Chị ta thưa với Ngài: “Thưa Ngài, xin cho tôi thứ nước ấy để tôi không còn khát, và khỏi phải đến đây múc nước nữa”.
16Ngài nói với chị ấy: “Chị hãy đi gọi chồng chị rồi trở lại đây”. 17Chị ta trả lời và thưa với Ngài: “Tôi không có chồng”. Chúa Giêsu nhìn chị và nói: “Chị rất đúng khi nói rằng: “Tôi không có chồng”; 18bởi chị đã chung sống với năm người đàn ông, và người đàn ông hiện đang ở với chị cũng không phải là chồng chị. Chị đã thật lòng khi nói như vậy”. 19Người phụ nữ thưa: “Thưa Ngài, tôi nhận ra Ngài chính là một vị Ngôn Sứ. 20Cha ông chúng tôi đã thờ phượng trên núi này, còn các ông lại bảo phải thờ phượng ở Giêrusalem”. 21Chúa Giêsu nói: “Này chị, hãy tin Tôi: vì đến giờ, người ta sẽ thờ phượng Cha không phải ở trên núi này, cũng không phải ở Giêrusalem. 22Các người thờ phượng điều các người không biết; còn chúng tôi biết điều chúng tôi thờ phượng, vì Ơn Cứu Độ đến từ người Do Thái. 23Nhưng sẽ đến giờ, và chính là giờ này, khi những người thờ phượng chân chính sẽ thờ phượng Cha trong Thần Khí và chân lý; đó là những người thờ phượng mà Cha hằng tìm kiếm. 24Thiên Chúa là Thần Khí§, và những ai thờ phượng Cha thì phải thờ phượng trong Thần Khí và chân lý”. 25Người phụ nữ nói với Ngài: “Tôi biết rằng Đấng Messia, Đấng mà người ta gọi là Kitô§ sẽ đến. Và khi đến, Ngài sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. 26Chúa Giêsu trả lời: “Đấng ấy chính là Tôi, kẻ đang nói với chị đây”.
27Lúc đó các môn đệ Ngài cũng vừa trở về; họ ngạc nhiên thấy Ngài đang chuyện trò với một phụ nữ. Tuy nhiên không ai hỏi xem Ngài tìm gì hoặc tại sao Ngài lại trao đổi với chị ấy. 28Còn người phụ nữ thì để cái vò nước của chị lại đó, quay về thành và nói với bà con: 29“Xin hãy đến mà xem người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ngài không phải là Đấng Kitô sao?”. 30Họ đi theo chị ra khỏi thành và chị dẫn họ đến gặp Ngài. 31Trong thời gian đó, các môn đệ thưa Ngài rằng: “Thưa Rabbi, mời Thầy dùng bữa”. 32Nhưng Ngài trả lời: “Thầy đã có thức ăn rồi mà các con không biết”. 33Các môn đệ nói với nhau: “Chắc có ai đã mang đồ ăn đến cho Thầy?”. 34Chúa Giêsu nói: “Lương thực của Thầy đó là làm theo ý của Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công việc của Ngài. 35Chẳng phải các con nói rằng: “Bốn tháng nữa sẽ là mùa gặt sao?”. Còn Thầy, Thầy cho các con biết: hãy ngước mắt lên và hãy nhìn những cánh đồng đã chín muồi§ đợi chờ mùa gặt. Và ngay từ lúc này 36thợ gặt đã nhận công của mình rồi: anh ta thu gặt hoa trái cho đời sống vĩnh cửu, để cả người gieo lẫn kẻ gặt đều vui mừng.
37Thật là chí lý câu ngạn ngữ: “Kẻ này gieo, người kia gặt”. 38Ta cử các con đi gặt thứ các con đã không gieo. Người khác đã gieo và các con được chia hoa màu công khó của họ”. 39Rất nhiều dân Samari trong thành đã tin vào Chúa Giêsu dựa trên lời người phụ nữ làm chứng: “Ngài đã nói đúng tất cả những gì tôi đã làm”. 40Khi gặp Ngài, họ mời Ngài ở lại với họ. Và Ngài đã lưu lại đó hai ngày. 41Có thêm nhiều người tin khi nghe Lời Ngài rao giảng; 42và họ nói với chị phụ nữ: “Không phải vì lời chứng của chị mà chúng tôi tin; nhưng vì chính Lời của Ngài mà chúng tôi biết quả thực Ngài là Đấng Cứu Thế”.
Trở về Galilê.
43Hai ngày sau, Chúa Giêsu rời nơi đó để đi Galilê; 44chính Ngài đã từng nói: một ngôn sứ không được trân trọng nơi quê hương của mình. 45Ngài đến Galilê, dân Galilê niềm nở tiếp đón Ngài, bởi đã chứng kiến tất cả những gì Ngài thực hiện tại Giêrusalem vào dịp lễ, mà chính họ cũng có tham dự.
Dấu lạ thứ hai tại Cana.
46Rồi Chúa Giêsu về lại Cana xứ Galilê, nơi Ngài đã biến nước thành rượu. Một vị quan của nhà vua có đứa con nằm bệnh ở Caphanaum; 47nghe tin Chúa Giêsu từ Giuđê đến Galilê, ông đến xin Ngài xuống Caphanaum để chữa cho con mình đang thập tử nhất sinh. 48Chúa Giêsu nói với ông: “Nếu không thấy dấu lạ, chắc các ông sẽ không tin”. 49Ông quan van nài: “Lạy Ngài, xin hãy đến trước khi con tôi chết”. 50Chúa Giêsu trả lời: “Ông cứ về đi, con ông sống”. Và tin vào Lời Chúa Giêsu, ông ta trở về. 51Khi ông đang trên đường về thì gia nhân chạy đến gặp ông để báo cho biết là con ông vẫn sống. 52Ông muốn biết rõ cậu con khỏe lại lúc mấy giờ. Họ cho hay: “Ngày hôm qua, cậu hết sốt vào giờ thứ bẩy”§. 53Người cha nhận ra đó chính là giờ mà Chúa Giêsu nói với ông: “Con ông sống”. Ông và cả nhà ông đều tin. 54Đó là dấu lạ thứ hai Chúa Giêsu thực hiện khi Ngài từ Giuđê về Galilê.
===============
§ Ga 4, 6 Giờ thứ sáu tức giữa trưa (x. Mt 20, 3-6).
§ Ga 4, 24 “Thần Khí”: Từ “Pneuma [1]” trong tiếng Hy Lạp được dịch từ Cựu Ước là “ruah” có nghĩa là: Thần khí, gió, hơi thở, thần linh, tinh thần… Từ ngữ này diễn tả sức mạnh và hoạt động của Thiên Chúa. (Latinh: Spiritus; Anh: Spirit; Pháp: Esprit). (x. Mt 4, 1).
§ Ga 4, 25 “Đấng Kitô”: (x Ga 1, 41).
§ Ga 4, 35 “Chín muồi”: rất chín, đạt đến độ phát triển cao nhất.
§ Ga 4, 52 Giờ thứ bảy tức khoảng một giờ chiều (x. Mt 20, 3-6).
Gioan - Chương 5
Chữa bệnh vào ngày Sabát.
1Sau đó, nhân dịp lễ của người Do Thái, Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem. 2Tại Giêrusalem, gần Cửa Chiên, có một cái hồ tiếng Hípri gọi là Bétsatha. Quanh hồ có năm hành lang. 3Trong những hành lang đó, la liệt những người bệnh tật: đui mù, què quặt, bất toại. (4)5Trong số đó, có một người đã bị bệnh suốt ba mươi tám năm. 6Chúa Giêsu thấy anh ta nằm đó và biết rằng anh ta đã bị bệnh lâu rồi nên Ngài hỏi: “Anh có muốn được lành bệnh không?”. 7Người bệnh thưa với Ngài: “Lạy Ngài, không có ai giúp đỡ đưa tôi xuống hồ khi nước động, và khi tôi lết tới được thì người khác đã xuống hồ trước tôi rồi” §. 8Chúa Giêsu nói với anh: “Anh hãy đứng thẳng lên, vác giường của anh mà đi”. 9Tức thì anh ta được lành bệnh, Anh vác giường mà đi.
Ngày hôm ấy lại là một ngày Sabát. 10Những người Do Thái nói với người vừa được Chúa chữa lành: “Hôm nay là ngày Sabát, anh không được vác giường như thế”. 11Anh ta trả lời họ: “Người chữa bệnh cho tôi đã bảo tôi: “Vác giường mà đi””. 12Họ hỏi: “Ai là người đã bảo anh: “Vác giường mà đi”?”. 13Thế nhưng người được chữa lành không biết là ai, vì Chúa Giêsu đã lánh khỏi đám đông ở nơi đó. 14Sau đó, khi gặp anh ta trong Đền Thờ, Ngài nói với anh: “Anh đã lành bệnh rồi; đừng phạm tội nữa kẻo sẽ phải khốn khổ hơn xưa”. 15Người ấy đi nói cho người Do Thái biết là chính Chúa Giêsu đã chữa anh lành. 16Vì thế người Do Thái liền bức hại Chúa Giêsu bởi vì Ngài đã làm điều đó trong ngày Sabát. 17Chúa Giêsu trả lời họ: “Cho đến bây giờ Cha Tôi vẫn làm việc, vì thế Tôi cũng làm việc”. 18Chính vì vậy mà người Do Thái càng tìm cách để giết Ngài, bởi lẽ không những Ngài không giữ luật ngày Sabát mà còn gọi Thiên Chúa là Cha của mình, nghĩa là tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Công việc của Con.
19Vì thế, Chúa Giêsu đáp lại và nói với họ rằng: “Amen, amen, Tôi nói cho các ông biết: Con không tự mình làm gì, nếu không thấy Cha làm; điều gì Cha làm, thì Con cũng làm như vậy. 20Bởi vì Cha yêu mến Con và chỉ cho Con thấy tất cả những việc Ngài làm. Ngài sẽ còn chỉ cho Con những việc còn lớn lao hơn nữa khiến các ông phải kinh ngạc. 21Cũng như Cha làm cho người chết trỗi dậy và làm cho họ sống thế nào, thì Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống là tuỳ ý Ngài muốn. 22Bởi Cha không xét xử ai cả, nhưng trao trọn quyền xét xử cho Con, 23để tất cả tôn kính Con như tôn kính Cha. Kẻ nào không tôn kính Con thì cũng không tôn kính Cha là Đấng đã sai Con đến. 24Amen, amen, Tôi nói với các ông: kẻ nào lắng nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã sai Tôi thì có được sự sống đời đời, và sẽ không bị xét xử, bởi kẻ ấy đã từ cõi chết mà vào cõi sống. 25Amen, amen, Tôi nói cho các ông hay: đã đến giờ, và là ngay bây giờ, những kẻ chết sẽ nghe tiếng của Con Thiên Chúa, và ai nghe được thì sẽ sống. 26Như Cha có sự sống nơi mình thế nào thì Ngài cũng cho Con có sự sống nơi chính mình như vậy; 27và Ngài đã trao cho Con quyền xét xử, bởi vì Con là Con Người. 28Các ông đừng ngạc nhiên về điều này, sẽ đến giờ mà tất cả những người nghỉ yên trong mồ nghe được tiếng Ngài 29và đi ra: những ai đã làm lành sẽ sống lại để được sống, còn ai đã làm dữ cũng sẽ sống lại để bị kết án.
30Tôi không thể tự mình làm điều gì; nghe sao, Tôi xét xử vậy, và phán quyết của Tôi thì công minh; bởi Tôi không tìm ý riêng Tôi, nhưng tìm ý Đấng đã sai Tôi.
Làm chứng cho Chúa Giêsu.
31Nếu Tôi làm chứng về mình thì chứng cứ của Tôi không xác thực; 32có Đấng khác làm chứng về Tôi và Tôi biết chứng cứ của Ngài là xác thực. 33Chính các ông đã cử người đến với Gioan, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật; 34còn Tôi, Tôi không nhận chứng cứ của con người, nhưng Tôi nói những điều này để các ông được cứu độ. 35Gioan là ngọn đèn chiếu sáng; các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng ấy trong thoáng chốc. 36Nhưng Tôi còn có một chứng cứ lớn hơn cả lời chứng của Gioan; đó là những việc mà Cha đã giao để Tôi thực hiện; chính những việc mà tôi đang làm cho thấy là Cha đã sai Tôi; 37và Cha, Đấng đã sai Tôi, chính Ngài làm chứng về Tôi. Các ông chưa bao giờ được nghe tiếng Ngài hay được thấy tôn nhan Ngài; 38và các ông cũng không giữ Lời Ngài trong lòng, vì các ông không tin vào Đấng Ngài sai đến. 39Các ông tra cứu Kinh Thánh, bởi các ông nghĩ rằng trong đó có sự sống đời đời; thế mà Kinh Thánh lại làm chứng về Tôi. 40Nhưng các ông lại không chịu đến với Tôi để có sự sống.
Những người nghe Chúa Giêsu không chịu tin.
41Tôi không nhận vinh quang người đời mang đến, 42nhưng Tôi biết các ông chẳng có lòng yêu mến Thiên Chúa. 43Tôi đến nhân Danh Cha và các ông không chịu đón nhận, thế nhưng nếu có một ai khác nhân danh chính bản thân mình mà đến thì các ông lại đón nhận. 44Làm sao các ông có thể tin được, khi các ông là những người tôn vinh lẫn nhau, mà không tìm vinh quang đến từ Thiên Chúa Duy Nhất? 45Đừng nghĩ rằng Tôi sẽ lên án các ông trước mặt Cha; kẻ lên án các ông là Môsê, người mà các ông hết lòng kỳ vọng. 46Nếu các ông tin Môsê thì các ông cũng tin Tôi, bởi chính ông đã viết về Tôi. 47Nếu các ông không tin những gì ông Môsê viết, làm sao các ông tin vào Lời Tôi được?”.
==================
§ Ga 5, 4 Vì thiên thần của Chúa thỉnh thoảng xuống hồ và nước bị khuấy động. Sau khi nước được khuấy động ai xuống được hồ trước nhất thì dù mắc bệnh gì cũng được chữa lành.
Gioan - Chương 6
Hóa bánh ra nhiều.
1Sau những việc đó, Chúa Giêsu qua bờ bên kia biển Galilê, cũng gọi là hồ Tibêriát. 2Một đám đông rất lớn đi theo Ngài, bởi đã chứng kiến những dấu lạ Ngài làm cho các bệnh nhân. 3Chúa Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ của Ngài. 4Lúc bấy giờ, Lễ Vượt Qua của người Do Thái đã gần. 5Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám đông tuốn đến với Ngài. Ngài nói với ông Philipphê: “Ta mua đâu đủ bánh để cho những người này ăn?”. 6Ngài hỏi thế để thử ông, vì thật ra Ngài đã biết việc mình sắp làm. 7Ông Philipphê thưa với Ngài: “Hai trăm đênari§ mua bánh cũng chẳng đủ mỗi người một miếng”. 8Một người trong nhóm các môn đệ là Anđrê, em trai Simon Phêrô, thưa với Ngài: 9“Ở đây có một cậu bé mang theo năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá; thế nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu với đám đông từng ấy người?”. 10Chúa Giêsu nói: “Cứ bảo người ta ngồi xuống đi”. Chỗ ấy là một bãi cỏ. Họ ngồi xuống. Số đàn ông độ năm ngàn người. 11Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, và phân phát cho mọi người; Ngài cũng phát cá cho người ta như vậy, ai muốn dùng bao nhiêu tùy ý. 12Khi họ đã ăn no nê, Ngài nói với các môn đệ: “Các con hãy thu lượm những mảnh vụn lại, đừng để phí”. 13Các ông đi nhặt lại và được mười hai thúng đầy những mẩu bánh thừa, từ năm chiếc bánh lúa mạch sau khi đám đông đã no nê. 14Khi những người thấy dấu lạ Ngài thực hiện, họ nói rằng: “Ngài thực sự là Vị Ngôn Sứ, Đấng phải đến thế gian!”. 15Chúa Giêsu biết họ muốn bắt Ngài để tôn lên làm vua, nên Ngài lánh đi lên núi một mình.
Đi trên mặt nước.
16Chiều đến, các môn đệ của Ngài đi xuống ven biển. 17Họ xuống thuyền để đến Caphanaum ở bờ bên kia. Đêm tối bao trùm rồi mà Chúa Giêsu vẫn chưa đến với họ. 18Biển động mạnh vì cuồng phong nổi lên. 19Khi chèo chống đưa thuyền đi được khoảng hai mươi lăm hay ba mươi dặm§, thì Chúa Giêsu đi trên biển và tiến lại gần thuyền, các ông đều hoảng sợ. 20Ngài bảo các ông: “Chính Thầy đây, đừng sợ!”. 21Các môn đệ muốn rước Ngài lên thuyền nhưng thuyền đã cập bến nơi họ muốn tới.
Diễn từ Bánh Hằng Sống.
22Ngày hôm sau, đám đông còn ở lại bờ biển bên kia thấy rằng ở đấy chỉ còn lại một chiếc thuyền và các môn đệ đã ra khơi mà không có Chúa Giêsu đi cùng; 23cũng có rất nhiều thuyền khác nữa đến từ Tibêriát và cập bến ngay tại chỗ Chúa đã tạ ơn và phân phát bánh cho họ. 24Khi thấy Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài không có ở đó, họ lập tức xuống thuyền đi đến Caphanaum để tìm Chúa Giêsu. 25Gặp Ngài ở bờ bên kia, họ hỏi rằng: “Thưa Rabbi, Thầy đến đây từ bao giờ?”. 26Ngài đáp: “Amen, amen, Tôi nói cho các ông biết: các ông tìm Tôi không phải vì đã chứng kiến những dấu lạ Tôi làm nhưng chỉ vì đã được ăn bánh no nê. 27Hãy ra công làm việc không phải vì thứ lương thực dễ hư nát, nhưng vì của ăn trường tồn đem lại sự sống đời đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ông; vì Con Người là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã đóng ấn xác nhận. 28Họ thưa Ngài rằng: “Chúng tôi phải làm gì mới là làm công việc của Thiên Chúa?”. 29Chúa Giêsu trả lời và nói với họ: “Công việc của Thiên Chúa là các ông tin vào Đấng Ngài sai đến”. 30Họ hỏi Ngài: “Thầy làm dấu lạ nào cho chúng tôi thấy và tin? Thầy làm gì đây? 31Trong sa mạc, cha ông chúng tôi đã ăn manna, như đã chép rằng:
“Ngài cho họ ăn bánh từ trời ban xuống””.
32Chúa Giêsu nói với họ: “Amen, amen, Tôi nói cho các ông hay: không phải Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, nhưng chính Cha Tôi mới là Đấng ban cho các ông bánh bởi trời đích thực; 33bởi vì bánh của Thiên Chúa chính là từ trời xuống và ban sự sống cho trần gian”.
34Họ liền thưa với Ngài: “Lạy Chúa, xin ban cho chúng tôi thứ bánh ấy luôn mãi”. 35Chúa Giêsu nói với họ: “Chính Tôi là Bánh Sự Sống. Ai đến với Tôi sẽ không hề đói; ai tin vào Tôi sẽ không hề khát bao giờ. 36Nhưng Tôi nói với các ông rằng: các ông đã thấy Tôi, và các ông đã không tin. 37Tất cả những ai Cha ban cho Tôi thì sẽ đến với Tôi, và ai đến với Tôi, Tôi sẽ không xua đuổi ra ngoài, 38bởi Tôi đã từ trời xuống không phải để làm theo ý Tôi, nhưng là để làm theo ý Đấng đã sai Tôi. 39Và đây là ý của Đấng đã sai Tôi: đó là Tôi không để mất một ai trong những người Ngài đã ban cho Tôi, nhưng Tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. 40Thật vậy, ý của Cha Tôi là mọi người thấy Con và tin vào Ngài thì có sự sống đời đời. Còn Tôi, Tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết”.
41Những người Do Thái lẩm bẩm kêu trách Chúa Giêsu, vì Ngài đã nói: “Tôi là Bánh từ trời xuống”, 42họ nói: “Chẳng phải ông này là Giêsu, con ông Giuse sao, mà chúng ta quá rõ cha mẹ của ông ta hay sao? Vậy mà lúc này ông ta dám nói: “Tôi từ trời xuống”?”. 43Chúa Giêsu trả lời và nói với họ: “Các ông đừng có lẩm bẩm với nhau. 44Không ai có thể đến với Tôi nếu Cha là Đấng sai Tôi không lôi kéo người ấy, và Tôi, Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. 45Có lời viết trong sách Các Ngôn Sứ rằng:
“Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo”.
Bất cứ ai đã nghe và học nơi Cha thì đến với Tôi. 46Thật vậy, không ai đã nhìn thấy Cha ngoại trừ Đấng từ Thiên Chúa mà đến, Đấng ấy đã thấy Cha. 47Amen, amen, Tôi nói cho các ông hay: ai tin Đấng ấy thì có được sự sống đời đời. 48Tôi chính là Bánh Sự Sống. 49Trong sa mạc, cha ông của các ông đã ăn manna và họ đã chết. 50Thế nhưng bánh đến từ trời là thứ bánh mà ai ăn sẽ không chết. 51Tôi chính là Bánh Hằng Sống§ từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời. Bánh Tôi sẽ ban chính là Thịt Tôi được trao ban để thế gian được sống”.
52Những người Do Thái tranh luận kịch liệt với nhau: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt của mình được?”. 53Chúa Giêsu nói với họ: “Amen, amen, Tôi nói cho các ông biết: nếu các ông không ăn thịt và không uống máu của Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. 54Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì có sự sống đời đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. 55Vì thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống. 56Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì ở trong Tôi, và Tôi ở trong người ấy. 57Cũng như Cha, Đấng Hằng Sống, đã sai Tôi đến, và Tôi sống nhờ Cha thế nào thì ai ăn Tôi cũng sống nhờ Tôi như vậy. 58Đây là Bánh từ trời xuống, không như thứ bánh cha ông của các ông đã ăn và đã chết; ai ăn bánh này thì sẽ sống muôn đời”. 59Đấy là những gì Chúa Giêsu đã giảng dạy trong hội đường Caphanaum.
Lời Hằng Sống.
60Rất nhiều các môn đệ của Ngài đã nghe và đã phản kháng: “Lời gì khó nghe quá! Làm sao chịu nổi?”. 61Chúa Giêsu quá biết là các môn đệ của Ngài đang lẩm bẩm về điều ấy. Ngài nói với họ: “Điều đó làm các con vấp ngã sao? 62Thế nhưng nếu các con thấy Con Người lên nơi mà Ngài đã từng ở trước đây thì sao? 63Chính Thần Khí mới làm cho sống chứ xác thịt chẳng được việc gì. Những Lời Thầy nói với các con là Thần Khí và là sự sống. 64Tuy nhiên giữa các con có những kẻ không tin”. Thật ra ngay từ đầu, Chúa Giêsu đã biết những ai không tin và ai sẽ nộp Ngài. 65Ngài nói: “Vì thế, Thầy đã nói với các con: không ai có thể đến với Thầy, nếu không được Cha ban ơn cho kẻ ấy”.
66Bắt đầu từ đó, rất nhiều môn đệ đã rút lui không đi theo Chúa Giêsu nữa. 67Nhìn Nhóm Mười Hai, Ngài hỏi: “Còn các con, các con có muốn bỏ đi không?”. 68Simon Phêrô thưa với Ngài: “Lạy Thầy, chúng con sẽ theo ai? Thầy mới có những Lời mang lại sự sống đời đời; 69phần chúng con, chúng con tin và nhận biết rằng Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. 70Chúa Giêsu nói với các ông: “Không phải chính Thầy đã chọn nhóm các con đủ Mười Hai người sao? Vậy mà một trong các con lại là Quỷ”. 71Ngài nói về Giuđa con của Simon Iscariốt, là kẻ sẽ nộp Ngài sau này, và là một người trong Nhóm Mười Hai.
===============
§ Ga 6, 7 Một đênari tương đương với khoảng tiền lương một ngày của người làm công (x. Mt 18, 24-28).
§ Ga 6, 19 “Dặm”: = 185 mét. Hai mươi lăm hay ba mươi dặm bằng khoảng 5 đến 6 km. (x. Mt 14, 24; Lc 24, 13; Ga 11, 18).
§ Ga 6, 48-51 “Bánh Sự Sống” hay “Bánh Hằng Sống” là Bánh đem lại cho con người sự sống đời đời. “Bánh Sự Sống”: (nhấn mạnh đến hiệu quả của bánh), do đó, khác với manna trong sa mạc. Manna đem lại cho con người sự sống thể lý vốn nay còn mai mất. “Bánh Hằng Sống”: là Bánh tự bản chất có sức mang lại sự sống đời đời (nhấn mạnh bản chất của bánh). Nói cách khác, Bánh Hằng Sống là bánh có sự sống vĩnh cửu nơi chính mình.
Gioan - Chương 7
1Sau đó, Chúa Giêsu rong ruổi khắp miền Galilê. Ngài không muốn đi lại vùng Giuđê vì người Do Thái đang tìm cách giết Ngài. 2Dịp Lễ Lều§ của người Do Thái đã gần đến. 3Khi ấy anh em§ của Chúa Giêsu nói với Ngài: “Hãy rời khỏi đây đến Giuđê để các môn đệ của Ngài cũng có thể chiêm ngưỡng những việc mà Ngài thực hiện. 4Không ai hoạt động cách thầm kín, khi muốn mình là người của công chúng. Nếu Ngài làm những việc ấy thì Ngài cũng phải tự bày tỏ chính mình cho thế gian”. 5Thật ra thì ngay cả anh em của Chúa Giêsu cũng không tin Ngài. 6Nghe vậy, Chúa Giêsu nói với họ: “Giờ của Tôi chưa đến, nhưng với anh em thì lúc nào cũng là cơ hội thuận lợi. 7Thế gian không ghét bỏ anh em nhưng thế gian ghét Tôi, bởi vì chính Tôi làm chứng về nó là các việc của nó thì xấu xa. 8Anh em cứ đi dự lễ; nhưng Tôi không đi vì giờ của Tôi chưa tới”. 9Nói vậy rồi, Ngài ở lại Galilê.
10Thế nhưng sau khi các anh em đã lên Giêrusalem dự lễ thì Chúa Giêsu cũng đi, không công khai mà kín đáo. 11Người Do Thái lùng kiếm Ngài trong thời gian diễn ra lễ. Họ hỏi nhau: “Ông ta ở đâu nhỉ?”. 12Nhiều người trong các đám đông xầm xì về Ngài. Có kẻ nói: “Đó là một người tốt”, kẻ khác lại bảo: “Đâu có, ông ta là một tay mê hoặc quần chúng!”. 13Tuy nhiên không một ai dám công khai nói về Ngài vì sợ người Do Thái.
Diễn từ thứ nhất.
14Khi lễ qua được nửa tuần thì Chúa Giêsu xuất hiện ở Đền Thờ, và giảng dạy. 15Những người Do Thái ngạc nhiên nói với nhau: “Làm sao ông ta chẳng đi học mà lại có thể giảng dạy như vậy nhỉ?”. 16Chúa Giêsu đáp: “Giáo huấn Tôi dạy không phải là của Tôi mà là của Đấng đã sai Tôi. 17Ai sẵn lòng làm theo ý muốn của Thiên Chúa thì sẽ biết rằng giáo huấn của Tôi đến từ Thiên Chúa hay do Tôi tự mình nói ra. 18Ai nói theo ý riêng mình thì tìm vinh danh cho chính mình. Ai tìm vinh danh cho Đấng sai mình thì người ấy chân thật và nơi người ấy không có gì bất chính. 19Môsê đã chẳng ban lề luật cho các ông sao? Thế nhưng chẳng một ai trong các ông chịu làm theo luật cả. Tại sao các ông lại tìm giết Tôi?”. 20Đám đông đáp trả: “Rõ ràng ông bị quỷ ám! Ai mà tìm giết ông?”. 21Chúa Giêsu trả lời và nói với họ: “Các ông ngạc nhiên chỉ vì một việc Tôi đã làm. 22Môsê đã truyền cho các ông phép cắt bì ¾ thực ra phép cắt bì không phải do Môsê mà đã có từ thời các tổ phụ ¾ và các ông cắt bì cho người ta cả trong ngày Sabát. 23Nếu trong ngày Sabát, một người có thể được cắt bì mà không lỗi luật Môsê, thì tại sao các ông lại tức giận khi Tôi chữa lành một người trong ngày Sabát? 24Đừng xét đoán theo vẻ bên ngoài nhưng hãy thẩm định mọi sự một cách công chính”.
25Một số người ở Giêrusalem thắc mắc: “Đấy chẳng phải là kẻ mà người ta đang tìm giết sao? 26Ông ta giảng dạy công khai mà có ai làm gì đâu! Phải chăng các thủ lãnh của chúng ta đã nhận ra ông ta chính là Đấng Kitô? 27Chúng ta biết rõ gốc gác ông này; còn khi Đấng Kitô đến, không ai biết nguồn gốc của Ngài”. 28Trong Đền Thờ nơi đang giảng dạy, Chúa Giêsu nói lớn tiếng rằng: “Các ông biết Tôi ư? Các ông biết Tôi từ đâu đến ư? Tôi không tự mình mà đến. Nhưng Đấng đã sai Tôi là Đấng Chân Thật mà các ông đã không nhận biết; 29còn Tôi, Tôi biết rõ Ngài, vì Tôi từ Ngài mà đến, và chính Ngài đã sai Tôi đến”. 30Người ta tìm cách bắt Ngài nhưng không một ai dám ra tay vì Giờ của Ngài chưa đến. 31Trong đám đông có rất nhiều người tin vào Ngài. Họ nói với nhau: “Khi Đấng Kitô xuất hiện, liệu Ngài có làm được nhiều dấu lạ hơn vị này không?”.
Lính tráng đi bắt Chúa Giêsu.
32Nhóm Pharisêu nghe dân chúng bàn tán về Chúa Giêsu, họ liền cùng với các thượng tế cho lính đi bắt Ngài. 33Chúa Giêsu nói: “Tôi sẽ còn ở với các ông một thời gian nữa, rồi sau đó Tôi sẽ về cùng Đấng đã sai Tôi. 34Các ông sẽ đi tìm Tôi nhưng không thể gặp, bởi vì nơi Tôi đến, các ông không thể tới được”. 35Vì thế, người Do Thái nói với nhau: “Ông ta đi đâu mà bảo rằng chúng ta không thể tìm ra được? Hay ông ta đến với bà con chúng ta tản mát trong thế giới Hy Lạp để giảng dạy cả cho người Hy Lạp nữa? 36Lời ông ta nói: “Các ông sẽ tìm Tôi và các ông không thấy, nơi Tôi đến, các ông không thể tới được”, lời ấy có ý nghĩa gì?”.
Những dòng Nước Hằng Sống.
37Vào ngày long trọng kết thúc dịp đại lễ, Chúa Giêsu đứng lên và lớn tiếng nói: “Ai khát hãy đến với Tôi và hãy uống; 38kẻ nào tin vào Tôi thì ¾ như Kinh Thánh nói rằng:
“Tự lòng người ấy [Ngài] sẽ tuôn trào
những dòng Nước Hằng Sống”.
39Nói những điều đó, Chúa Giêsu nhắm đến Thần Khí mà những người tin vào Ngài sẽ được lãnh nhận. Lúc đó Thần Khí chưa có vì Chúa Giêsu chưa được vinh thăng.
Bàn luận về nguồn gốc Đấng Messia.
40Từ giữa đám đông, khi nghe những lời đó, người thì nói: “Quả thực Ngài là Vị Ngôn Sứ!”; 41người khác lại bảo: “Chính Ngài là Đấng Kitô!” Tuy nhiên, người khác nữa lại nói: “Đấng Kitô mà đến từ Galilê ư?”. 42Nào Kinh Thánh đã chẳng bảo rằng: “Đấng Kitô thuộc dòng dõi Đavít và sinh ra ở Bêlem, quê hương của Đavít đó sao”?”. 43Và đám đông chia rẽ vì Ngài. 44Một vài kẻ trong họ có ý muốn bắt Ngài nhưng chẳng ai dám ra tay.
45Đám lính tráng quay về, các thượng tế và nhóm Pharisêu tra hỏi: “Tại sao các anh không bắt ông ta về đây?”. 46Họ trả lời: “Chúng tôi chưa hề thấy một ai nói được như ông ta”. 47Nhóm Pharisêu trả lời cho họ: “Chính các anh cũng bị mê hoặc rồi sao? 48Hãy xét xem có ai trong các thủ lãnh và Pharisêu tin vào ông ta không? 49Còn cái đám đông ấy thì có biết gì về lề luật đâu, chúng chỉ là bọn đáng nguyền rủa thôi!”. 50Nicôđêmô là một người trong số họ, trước đây ông đã từng đến gặp Chúa Giêsu, ông lên tiếng: 51“Luật pháp của chúng ta có lên án một người mà không nghe họ nói và chẳng biết họ đã làm gì không?”. 52Họ đáp lại và nói với ông: “Hay ông cũng là người Galilê? Hãy nghiên cứu cho rõ và ông sẽ thấy là chẳng có ngôn sứ nào xuất thân từ Galilê cả!”. 53Rồi họ bỏ đi, ai về nhà nấy.
===============
§ Ga 7, 2 Người Do Thái có ba lễ quan trọng là: Lễ Vượt Qua (Pesah): Lễ này tưởng niệm lại biến cố tổ tiên họ đã được Chúa cứu thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập. Lễ Ngũ Tuần (Shavout): Lễ này được cử hành bảy tuần sau ngày Lễ Vượt Qua. Lễ Lều (Sukkot): Trong cuộc hành trình ở sa mạc, người dân phải trú ngụ trong các lều.
§ Ga 7, 3 "Anh em của Chúa Giêsu": (x. Mt 12, 46-50).
Gioan - Chương 8
Người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình.
1Về phần Chúa Giêsu, Ngài lên núi Ôliu. 2Ngay từ sáng sớm, Ngài quay trở lại Đền Thờ, và bởi đám đông tuốn đến với Ngài nên Ngài ngồi xuống và giảng dạy. 3Các kinh sư và những người Pharisêu dẫn đến với Ngài một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, họ lôi chị ra đứng ở giữa 4và nói với Ngài: “Thưa Thầy, người phụ nữ này bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. 5Trong lề luật, Môsê đã ra lệnh ném đá loại đàn bà như thế. Còn Thầy, Thầy dạy sao?”. 6Họ nói như thế để thử Ngài, nhằm tìm cớ mà tố cáo Ngài. Chúa Giêsu cúi xuống và dùng ngón tay viết trên đất. 7Họ cứ nài ép Ngài trả lời, vì thế Ngài đứng lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội thì ném đá chị này trước đi”; 8Ngài lại cúi xuống và tiếp tục viết trên đất. 9Nghe Ngài nói thế, họ rút lui từng người một, trước hết là những người lớn tuổi, sau cùng chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu và người phụ nữ vẫn ở đó trước mặt Ngài. 10Bấy giờ Chúa Giêsu đứng dậy và bảo: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”. 11Chị ta thưa: “Lạy Chúa, không có ai”. Chúa Giêsu nói: “Tôi cũng không, Tôi không lên án chị. Chị hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Ánh sáng thế gian.
12Chúa Giêsu lại nói với họ: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi thì không đi trong tối tăm nhưng có được ánh sáng sự sống”. 13Những người Pharisêu nói với Ngài: “Ông tự làm chứng cho chính mình, nên chứng của ông không thật”. 14Chúa Giêsu đáp lại và nói với họ: “Ngay cả Tôi tự làm chứng cho chính mình thì chứng của Tôi vẫn thật, bởi Tôi biết rõ mình từ đâu đến và sẽ đi đâu; còn các ông, các ông không biết Tôi từ đâu đến và sẽ đi đâu. 15Các ông xét đoán theo kiểu người phàm. Còn Tôi, Tôi không xét đoán ai cả. 16Và nếu Tôi có xét đoán ai, thì xét đoán của Tôi vẫn đúng đắn, bởi Tôi không làm một mình, nhưng cùng với Cha là Đấng đã sai Tôi. 17Hơn nữa, lề luật của các ông đã ghi rõ, nếu có hai nhân chứng thì đấy là chứng xác thực. 18Tôi làm chứng về mình, và Cha, Đấng sai Tôi, cũng làm chứng về Tôi nữa”. 19Họ nói với Ngài: “Cha của ông ở đâu?”. Chúa Giêsu trả lời: “Các ông không biết Tôi nên cũng không biết Cha Tôi, nếu các ông biết Tôi thì cũng sẽ biết Cha Tôi”. 20Chúa Giêsu đã nói tất cả những lời đó khi Ngài giảng dạy trong Đền Thờ, tại nơi đặt thùng tiền dâng cúng; và không ai dám tra tay bắt Ngài, vì giờ của Ngài chưa đến.
Chúa Giêsu: Sứ Giả của Cha.
21Chúa Giêsu còn nói: “Tôi ra đi, các ông sẽ kiếm tìm Tôi và các ông sẽ chết trong tội lỗi của các ông! Nơi Tôi đi, các ông không thể đến được”. 22Những người Do Thái bảo nhau: “Ông ta đi tự tử hay sao mà nói rằng: “Nơi Tôi đi, các ông không thể đến được”?”. 23Ngài trả lời: “Các ông thuộc hạ giới, còn Tôi thuộc thiên giới. Các ông thuộc trần thế này, còn Tôi không thuộc trần thế này. 24Chính vì thế Tôi đã nói với các ông, các ông sẽ chết trong tội của các ông. Tôi nói cho các ông biết: nếu các ông không chịu tin Tôi là Đấng Hằng Sống§, các ông sẽ chết trong tội của các ông”. 25Họ hỏi Ngài: “Ông bảo ông là ai?”. Chúa Giêsu trả lời: “Ngay từ đầu, Tôi đã nói với các ông điều đó! 26Đối với các ông, Tôi còn rất nhiều điều để nói và để xét đoán; hơn nữa, Đấng đã sai Tôi đến, là Đấng Chân Thật; những gì Tôi đã nghe được nơi Ngài, Tôi rao giảng lại cho thế gian”. 27Họ không hiểu rằng Ngài đang nói với họ về Cha. 28Vì thế, Chúa Giêsu nói với họ: “Khi các ông treo Con Người lên, các ông sẽ nhận ra Tôi là Đấng Hằng Sống, và Tôi không tự mình làm bất cứ điều gì, những gì Tôi nói đây là chính Cha đã dạy Tôi. 29Đấng đã sai Tôi, hằng ở với Tôi. Ngài không để Tôi một mình, bởi Tôi luôn làm đẹp lòng Ngài”. 30Nghe những lời ấy, nhiều người tin vào Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu và ông Abraham.
31Chúa Giêsu nói với những người Do Thái đã tin Ngài rằng: “Nếu các ông ở lại trong Lời Tôi, các ông mới thực sự là những môn đệ của Tôi 32các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ làm cho các ông được tự do”. 33Họ hỏi Ngài: “Chúng tôi là con cháu Abraham và chưa bao giờ phải làm nô lệ cho bất cứ ai! Sao Ngài lại bảo: “Các ông sẽ được tự do”?”. 34Chúa Giêsu trả lời: “Amen, amen, Tôi nói cho các ông hay: kẻ nào phạm tội thì làm nô lệ cho tội. 35Tên nô lệ không được ở mãi trong nhà; chỉ người con mới luôn được ở trong nhà thôi. 36Nếu Người Con giải thoát các ông, các ông mới thực sự được tự do. 37Tôi biết các ông là con cháu Abraham; nhưng các ông tìm giết Tôi vì Lời của Tôi không thấm được vào lòng trí các ông. 38Phần Tôi, Tôi nói những gì đã thấy nơi Cha, còn các ông thì làm theo những gì đã nghe từ cha của các ông”.
39Họ đáp lại và nói với Ngài: “Cha chúng tôi là Abraham”. Chúa Giêsu nói: “Nếu các ông là con cái Abraham thì các ông đã hành động giống Abraham. 40Tôi đã nói sự thật Tôi nghe từ Thiên Chúa; nhưng các ông tìm cách giết Tôi, Abraham không làm như thế. 41Các ông hành động như cha của các ông”. Họ nói với Ngài: “Chúng tôi không phải con hoang; chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!”. 42Chúa Giêsu nói với họ: “Nếu Thiên Chúa là Cha các ông thì các ông đã yêu mến Tôi rồi; bởi Tôi xuất phát và đến từ Thiên Chúa; Tôi không tự mình mà đến, chính Cha đã sai Tôi. 43Tại sao các ông không hiểu điều Tôi nói? Đấy là vì các ông không chấp nhận được những điều đó. 44Các ông thuộc về Quỷ, nó là cha của các ông và các ông tìm cách thực hiện ước vọng của nó. Ngay từ thuở đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó không ở trong sự thật, bởi vì nơi nó không có sự thật. Khi nói lời dối trá, nó lôi sự dối trá ấy ra từ chính bản chất của nó, bởi vì nó là kẻ gian dối và là cha của sự xảo trá. 45Còn Tôi, Tôi nói sự thật nên các ông không tin Tôi. 46Ai trong các ông có thể làm chứng rằng Tôi đã phạm tội? Nếu Tôi nói sự thật thì tại sao các ông không chịu tin Tôi? 47Người nào thuộc về Thiên Chúa thì nghe Lời của Ngài; còn các ông không chịu nghe, bởi vì các ông không thuộc về Thiên Chúa”.
48Những người Do Thái đáp lại: “Không đúng sao, nếu chúng tôi nói ông là một tên Samari và là người bị quỷ ám?”. 49Chúa Giêsu đáp lại: “Không, Tôi không bị quỷ ám; ngược lại, Tôi trân trọng Cha của Tôi, còn các ông lại không chịu trân trọng Tôi. 50Tôi không tìm vinh quang cho mình; đã có Đấng lo việc ấy cho Tôi và xét xử cho Tôi. 51Amen, amen, Tôi nói cho các ông hay: người nào giữ Lời của Tôi, người đó sẽ không bao giờ phải chết”. 52Họ nói với Ngài: “Bây giờ thì chúng tôi chắc chắn là ông bị quỷ ám. Abraham đã chết và các ngôn sứ cũng vậy. Thế mà ông dám nói: “Người nào giữ Lời Tôi thì sẽ không bao giờ chết”. 53Chẳng lẽ ông lớn hơn Abraham cha chúng tôi sao? Abraham đã chết và các ngôn sứ cũng thế! Ông cho mình là ai?”. 54Chúa Giêsu đáp lại: “Nếu Tôi tôn vinh chính mình thì vinh quang ấy chẳng ý nghĩa gì; chính Cha tôn vinh Tôi, Ngài là Đấng mà các ông gọi là Thiên Chúa của các ông, 55thế mà các ông không biết Ngài, còn Tôi, Tôi biết Ngài. Nếu Tôi bảo rằng Tôi không biết Ngài thì Tôi cũng nói dối giống các ông; nhưng Tôi biết Ngài và Tôi tuân giữ Lời Ngài. 56Abraham cha các ông đã hoan hỷ thấy ngày của Tôi. Ông đã thấy và đã vui mừng”. 57Bấy giờ người Do Thái nói với Ngài: “Ông chưa được năm mươi tuổi mà dám bảo rằng đã thấy Abraham sao?”. 58Chúa Giêsu nói với họ: “Amen, amen, Tôi bảo cho các ông biết: trước khi có Abraham thì Tôi là Đấng Hằng Sống”. 59Họ lấy đá định ném Ngài; nhưng Ngài ẩn mình và ra khỏi Đền Thờ.
===========
§ Ga 8, 24 “Đấng Hằng Sống”: Trong bản Hy Lạp không ghi cụ thể chữ “Đấng Hằng Sống”, mà là cách trình bày đặc biệt của Tin Mừng theo thánh Gioan về thiên tính của Chúa Giêsu, tương tự như trong Xh 3, 14. Do đó cũng có thể tạm dịch là “Đấng Tự Hữu”; “Đấng Hằng Hữu”, v.v.... Cách trình bày này cũng được lặp lại trong các chỗ khác như Ga 28, 58; 13, 19; và đặc biệt trong Ga 18, 5-6, 8.
Gioan - Chương 9
Người mù bẩm sinh.
1Khi đi ngang qua, Chúa Giêsu thấy một người mù bẩm sinh. 2Các môn đệ hỏi Ngài: “Thưa Rabbi, cha mẹ anh ta hay chính anh ta đã phạm tội để vừa sinh ra anh ta phải chịu mù như vậy?”. 3Chúa Giêsu trả lời: “Anh ta bị mù không phải vì tội của anh hay của cha mẹ anh, nhưng là để quyền năng Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh ta. 4Chúng ta phải làm công việc của Ðấng đã sai Thầy bao lâu ngày còn sáng; khi đêm về thì không ai còn có thể làm việc được nữa. 5Bao lâu còn ở giữa thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian”. 6Nói xong, Ngài nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn với đất thành bùn rồi bôi lên mắt người mù 7và nói với anh ta: “Hãy đến hồ Silôê mà rửa!” ¾ chữ Silôê có nghĩa là “được sai đi”. Người mù đến đấy, rửa mắt và khi quay trở lại thì nhìn thấy được.
8Láng giềng và những người đã từng thấy anh trước đây ăn xin nói với nhau: “Chẳng phải người này vẫn ngồi ăn xin đó sao?”; 9người thì bảo: “Chính anh ta!”; kẻ lại nói: “Không phải, mà là ai đó giống anh ta!”. Còn anh ta thì quả quyết: “Chính tôi đây!”. 10Và người ta hỏi anh: “Làm thế nào mà mắt anh có thể mở ra được?”. 11Anh trả lời: “Người tên là Giêsu đã trộn một thứ bùn, đem bôi lên mắt tôi rồi bảo: “Hãy đến hồ Silôê mà rửa!”. Tôi đến đó rửa mắt và tôi thấy được”. 12Người ta hỏi anh: “Ông ấy đâu rồi?”. Anh đáp: “Tôi không biết”.
13Người ta đưa kẻ bị mù đã được chữa lành đến với người Pharisêu. 14Số là, hôm Chúa Giêsu trộn bùn mở mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sabát. 15Người Pharisêu hỏi xem làm sao anh đã nhìn thấy được. Anh ta trả lời: “Ông ta đã bôi bùn lên mắt tôi, tôi đi rửa và trông thấy được”. 16Có người trong số Pharisêu bảo rằng: “Ông này không thuộc Thiên Chúa vì không giữ luật ngày Sabát”. Nhưng người khác lại nói: “Làm sao một kẻ tội lỗi lại làm được những điều kỳ diệu như thế?”. Và giữa họ đã chia rẽ nhau. 17Họ lại hỏi người mù lần nữa: “Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho anh?”. Anh ta trả lời: “Đấy là một Vị Ngôn Sứ!”.
18Người Do Thái không tin rằng người này trước đây đã mù mà nay thấy được, cho đến khi họ gọi cha mẹ anh ta đến. 19Và hỏi: “Có phải đây là con trai của ông bà, người mà ông bà bảo rằng bị mù bẩm sinh không? Vậy tại sao bây giờ anh ta thấy được?”. 20Cha mẹ anh ta trả lời: “Đấy chính là con chúng tôi và nó bị mù bẩm sinh. 21Còn làm thế nào mà nó nhìn thấy được thì chúng tôi không biết, cũng chẳng biết ai mở mắt cho nó. Các ông cứ hỏi nó đi; nó đã khôn lớn có thể trình bày được rồi!”. 22Họ nói vậy vì sợ người Do Thái; bởi người Do Thái đã quyết trục xuất khỏi hội đường của họ mọi kẻ tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô. 23Chính vì thế cha mẹ người mù mới nói: “Nó đã đủ khôn lớn, cứ hỏi nó đi!”.
24Lần thứ hai họ cho gọi người trước đây bị mù tới và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa! Chúng tôi biết ông ta là kẻ tội lỗi”. 25Anh ta trả lời cho họ: “Ông ta có tội hay không, tôi không biết; điều tôi biết là trước đây tôi bị mù còn bây giờ thì tôi thấy được”. 26Họ mới nói với anh ta: “Ông ta làm gì cho anh? Ông ta làm thế nào để mở mắt cho anh?”. 27Anh ta trả lời cho họ: “Tôi đã nói rồi mà các ông chẳng chịu nghe. Sao các ông lại muốn nghe lần nữa? Hay các ông cũng muốn trở thành môn đệ của ông ta?”. 28Họ mắng anh ta và nói: “Mày mới là môn đệ của ông ta, còn chúng ta là môn đệ của Môsê. 29Chúng ta biết Thiên Chúa đã nói với Môsê; chứ chẳng biết ông này từ đâu đến”. 30Anh mù trả lời và nói: “Đúng là chuyện lạ, các ông không biết ông ta từ đâu đến, vậy mà ông ta lại mở mắt cho tôi! 31Chúng ta biết Thiên Chúa không nghe kẻ tội lỗi; nhưng ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Ngài, thì Ngài nhận lời người ấy. 32Chưa bao giờ nghe nói một ai đó mở mắt cho kẻ mù bẩm sinh; 33nếu người đó không bởi Thiên Chúa mà đến thì ông ta chẳng làm được gì”. 34Họ trả lời và nói với anh ta: “Toàn thân mày sinh ra trong vũng tội mà giờ còn muốn dạy chúng ta sao?”. Và họ đuổi anh ta ra ngoài.
35Chúa Giêsu nghe biết anh ta bị đuổi nên tìm gặp và nói với anh ta: “Anh có tin Con Người không?”. 36Anh ta thưa với Ngài: “Lạy Chúa, Đấng ấy là ai để con tin?”. 37Chúa Giêsu bảo anh ta: “Anh đang thấy Ngài, chính Ngài đang nói với anh”. 38Anh ta đáp: “Lạy Chúa, con tin!”; và anh ta quỳ xuống thờ lạy Ngài. 39Và Chúa Giêsu nói: “Chính là để phán xét, mà Ta đã đến trong thế gian, để cho ai không thấy thì được thấy, còn kẻ thấy lại hóa mù”.
40Những người Pharisêu ở đó nghe được những lời ấy thì nói với Ngài: “Vậy chúng tôi cũng mù cả sao?”. 41Chúa Giêsu nói với họ: “Nếu các ông mù thì các ông chẳng có tội. Đàng này vì các ông nói: "Chúng tôi nhìn thấy!"; nên tội các ông vẫn còn đó”.
Gioan - Chương 10
Mục Tử Tốt Lành.
1“Amen, amen, Tôi nói cho các ông biết: kẻ nào không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào thì đó là kẻ trộm, kẻ cướp; 2còn ai qua cửa mà vào, thì đấy là người chăn chiên. 3Người ấy được người giữ cửa mở cho, chiên nghe tiếng người ấy. Người ấy sẽ gọi tên từng con chiên của mình và dẫn chúng đi ra. 4Khi đã đưa cả đàn chiên ra ngoài rồi, người ấy đi trước và chiên theo sau, vì chúng nhận biết tiếng người ấy; 5chúng sẽ không theo người lạ, trái lại còn trốn tránh, vì chúng không nhận biết tiếng những người lạ”. 6Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với họ; nhưng họ không hiểu điều Ngài nói với họ.
7Chúa Giêsu lại nói: “Amen, amen, Tôi nói cho các ông biết: Tôi là cửa chuồng chiên. 8Tất cả những kẻ đến trước Tôi đều là kẻ trộm, kẻ cướp; chiên đã không nghe theo chúng. 9Tôi là cửa; ai qua Tôi mà vào thì sẽ được cứu thoát, người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. 10Kẻ trộm có đến thì chỉ để ăn trộm, để giết hại và phá huỷ; còn Tôi, Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. 11Tôi là Mục Tử Tốt Lành; mục tử tốt lành thí mạng sống mình vì chiên; 12người chăn thuê không phải là mục tử, chiên không phải là của người ấy, cho nên khi thấy chó sói đến, người ấy bỏ mặc chiên mà chạy thoát ¾ sói sẽ vồ chiên và làm cho đàn chiên tan tác ¾ 13vì người ấy chỉ là kẻ chăn thuê và không quan tâm gì đến chiên. 14Tôi là Mục Tử Tốt Lành, Tôi biết các chiên của Tôi, và các chiên của Tôi biết Tôi, 15cũng như Cha biết Tôi và Tôi biết Cha; và Tôi thí mạng sống mình vì chiên. 16Tôi còn có những chiên khác không thuộc đàn này, Tôi cũng phải đưa chúng về và chúng sẽ nghe tiếng Tôi, và rồi sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chăn. 17Cha yêu mến Tôi là vì Tôi thí mạng sống mình, để rồi lấy lại. 18Không ai có thể lấy mạng sống của Tôi, nhưng tự Tôi, Tôi thí mạng sống mình. Tôi có quyền thí mạng sống Tôi, và cũng có quyền lấy lại. Tôi nhận mệnh lệnh này từ Cha Tôi”.
19Một lần nữa những người Do Thái lại chia rẽ nhau vì những lời ấy. 20Nhiều người trong họ nói rằng: “Ông ta bị quỷ ám và điên mất rồi! Tại sao lại đi nghe ông ta chứ?”. 21Người khác lại nói: “Đó không phải là lời của một kẻ bị quỷ ám! Quỷ mà lại mở mắt cho người mù sao?”.
Lễ Cung Hiến Đền Thờ.
22Bấy giờ có lễ kỷ niệm việc Cung Hiến Đền Thờ tại Giêrusalem. Lúc đó là mùa đông; 23và Chúa Giêsu đi lại trong Đền Thờ, ngay tại hành lang Salômôn. 24Người Do Thái bao quanh Ngài và nói: “Ông còn để lòng trí chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ nữa? Nếu ông là Đấng Kitô thì cứ nói thẳng ra cho chúng tôi biết!”. 25Chúa Giêsu trả lời cho họ: “Tôi đã nói với các ông rồi, mà các ông không tin; những việc Tôi làm nhân Danh Cha Tôi, đã làm chứng cho Tôi. 26Nhưng các ông không tin, bởi các ông không thuộc đàn chiên của Tôi. 27Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi; 28Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ chết đời đời, không ai có thể cướp chúng khỏi tay Tôi được. 29Cha Tôi là Đấng đã ban chúng cho Tôi, Ngài cao trọng hơn tất cả và không ai có thể cướp chúng khỏi tay Cha Tôi được. 30Tôi và Cha là một”.
31Những người Do Thái lại lượm đá định ném Ngài. 32Chúa Giêsu trả lời họ: “Tôi đã tỏ cho các ông thấy nhiều việc tốt lành từ nơi Cha; vậy vì việc nào mà các ông muốn ném đá Tôi?”. 33Người Do Thái trả lời Ngài: “Không phải vì một việc tốt lành mà chúng tôi ném đá ông, nhưng vì một lời phạm thượng, ông là người phàm mà lại dám xưng mình là Thiên Chúa”. 34Chúa Giêsu trả lời họ: “Trong Lề Luật của các ông đã chẳng ghi câu này sao: “Ta bảo: các con là Thần?”. 35Vậy nếu Lề Luật gọi những người được nghe Lời Chúa là Thần và Kinh Thánh thì không bao giờ bị hủy bỏ, 36thì tại sao các ông lại nói với Đấng đã được Cha thánh hiến và sai đến trong thế gian rằng: "Ông nói phạm thượng!", chỉ vì Tôi đã bảo: Tôi là Con Thiên Chúa? 37Nếu Tôi không làm những việc của Cha Tôi, các ông đừng tin Tôi; 38nhưng nếu Tôi làm những việc đó, thì dù các ông không muốn tin Tôi, hãy tin những việc đó, để các ông nhận biết và biết chắc rằng Cha ở trong Tôi, và Tôi ở trong Cha”. 39Họ lại tìm cách để bắt Ngài; nhưng Ngài thoát khỏi tay họ.
40Ngài lại đi qua bên kia sông Giođan, đến nơi mà trước đây Gioan làm phép rửa, và Ngài ở lại đó. 41Nhiều người đến với Ngài và họ nói: “Gioan đã không làm một dấu lạ nào; nhưng tất cả những gì ông ta nói về người này đều rất đúng”. 42Và nhiều người tin vào Ngài.
Gioan - Chương 11
Cho Lagiarô sống lại.
1Có một người ốm liệt tên là Lagiarô, quê tại Bêtania, làng quê của Maria và chị của cô là Mátta. 2Maria là người xức dầu thơm lên chân Chúa và lấy tóc mình mà lau, em trai cô là Lagiarô đang ốm liệt. 3Vậy hai cô sai người đến báo tin cho Ngài rằng: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang ốm liệt”. 4Nghe vậy, Chúa Giêsu nói: “Cơn bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để vinh danh Thiên Chúa, và qua đó Con Thiên Chúa được vinh danh”. 5Chúa Giêsu thương mến Mátta cùng em gái cô là Maria và em trai là Lagiarô. 6Dù đã biết tin ông này ốm liệt, Ngài còn lưu lại nơi đang ở hai ngày nữa; 7sau đó, Ngài nói với các môn đệ: “Nào, chúng ta hãy trở lại Giuđê”. 8Các môn đệ thưa Ngài: “Thưa Rabbi, mới đây những người Do Thái ở đó tìm cách ném đá Thầy mà Thầy lại qua đó nữa sao?”. 9Chúa Giêsu trả lời: “Không phải là có mười hai giờ§ trong một ngày đó sao? Người nào đi giữa ban ngày thì không vấp ngã, bởi người ấy thấy ánh sáng của thế gian này; 10còn ban đêm, ai đi lại sẽ vấp ngã, vì không có ánh sáng nơi mình”. 11Ngài đã nói thế và sau đó lại bảo họ: “Lagiarô bạn của chúng ta đang ngủ, nhưng Thầy đi đánh thức anh ta dậy”. 12Các môn đệ thưa với Ngài: “Thưa Thầy, nếu ngủ thì anh ta sẽ khoẻ lại”. 13Chúa Giêsu muốn nói đến cái chết của anh ta, còn các môn đệ thì lại nghĩ Ngài nói đến giấc ngủ tự nhiên. 14Bấy giờ Chúa Giêsu nói rõ cho họ: “Lagiarô chết rồi, 15và Thầy mừng cho các con, vì để các con tin, Thầy đã không có mặt ở đấy; vậy chúng ta hãy đến với anh ấy”. 16Ông Tôma, còn được gọi là Điđymô, nói với các đồng môn rằng: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Ngài!”.
17Đến nơi, Chúa Giêsu thấy Lagiarô đã được an táng trong mồ bốn ngày rồi. 18Bêtania gần với Giêrusalem, khoảng cách chừng mười lăm dặm§. 19Có nhiều người Do Thái đến gặp Mátta và Maria để chia buồn với hai cô về cái chết của người em. 20Khi Mátta nghe tin Chúa Giêsu đến, cô chạy đi đón Ngài; còn Maria vẫn ở lại trong nhà. 21Mátta thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu Thầy ở đây thì em con đã không chết! 22Nhưng ngay cả lúc này, con biết rằng bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy”. 23Chúa Giêsu nói với cô: “Em con sẽ sống lại”. 24Mátta thưa với Ngài: “Con biết vào ngày sau hết, khi kẻ chết sống lại, em con sẽ sống lại”. 25Chúa Giêsu nói với cô: “Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Thầy thì dù có chết cũng sẽ được sống; 26còn tất cả những ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không chết bao giờ. Con có tin như vậy không?”. 27Cô thưa: “Vâng, lạy Thầy; con tin Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”.
28Nói thế rồi, cô chạy đi gọi Maria, em cô và nói nhỏ: “Thầy đến rồi và Thầy gọi em”. 29Vừa nghe nói thế, Maria trỗi dậy vội vàng đến gặp Ngài; 30lúc bấy giờ Chúa Giêsu chưa vào làng, nhưng Ngài còn đang đứng ở chỗ Mátta đã đón gặp Ngài. 31Những người Do Thái đang ngồi trong nhà để chia buồn với Maria, khi thấy cô vội vã trỗi dậy đi ra, họ cũng đi theo cô vì nghĩ rằng: “Cô lại đến mộ mà khóc lóc”. 32Maria đến chỗ Chúa Giêsu đứng, khi vừa thấy Ngài, cô sấp mình dưới chân Ngài và thưa: “Lạy Thầy, nếu Thầy ở đây thì em con đã không chết!”. 33Khi Chúa Giêsu thấy cô khóc và những người Do Thái cùng đến với cô cũng khóc, tâm thần Ngài thổn thức và xúc động 34và Ngài hỏi họ: “Các con đặt anh ta ở đâu?”. Họ thưa Ngài: “Lạy Thầy, xin đến mà xem”. 35Chúa Giêsu khóc. 36Người Do Thái bảo nhau: “Xem kìa, Ngài thương anh ta biết dường nào!”. 37Nhưng có kẻ trong số họ nói: “Ông ấy đã mở mắt cho người mù mà lại không thể làm cho người này khỏi chết sao?”.
38Chúa Giêsu lại thổn thức và xúc động trong lòng, Ngài đi đến mộ; đấy là một cái hang có tảng đá lấp kín. 39Chúa Giêsu bảo: “Lấy tảng đá ra!”. Mátta, chị của người chết, thưa với Ngài: “Lạy Thầy, nặng mùi rồi; vì đã bốn ngày rồi!”. 40Chúa Giêsu bảo cô: “Thầy đã chẳng bảo với con rằng nếu con tin, con sẽ nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa đó sao?”. 41Thế là người ta lấy tảng đá ra. Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và nói: “Lạy Cha, Con cảm tạ Cha vì Cha đã nhận lời Con. 42Con biết Cha luôn hằng nhận lời Con, nhưng vì những người có mặt đứng xung quanh đây mà Con đã nói, để họ tin rằng Cha đã sai Con”. 43Nói thế rồi, Ngài kêu lớn tiếng: “Lagiarô, hãy ra ngoài!”. 44Người đã chết đi ra, tay chân còn quấn những mảnh vải; và mặt còn phủ khăn liệm. Chúa Giêsu bảo họ: “Hãy cởi ra để cho anh ấy đi”.
Họp Công Nghị.
45Rất nhiều người Do Thái đến thăm Maria và đã chứng kiến việc Chúa Giêsu làm, họ đã tin vào Ngài; 46thế nhưng cũng có kẻ đi gặp nhóm Pharisêu để kể cho họ các việc Chúa Giêsu đã làm. 47Các thượng tế và nhóm Pharisêu triệu tập Công Nghị§ và bàn với nhau: “Chúng ta phải làm gì đây, vì người này làm nhiều dấu lạ? 48Nếu chúng ta cứ để mặc cho người ấy như vậy, mọi người sẽ tin ông ta, và người Rôma sẽ đến, và chiếm nơi Thánh, cùng cả đất nước chúng ta!”. 49Khi ấy, một người trong Công Nghị là ông Caipha, với tư cách là thượng tế của năm đó, nói với họ: “Quý vị không hiểu gì cả, 50quý vị không thấy rằng điều có lợi cho quý vị là để một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt!”. 51Điều ấy không phải tự ông nói ra, nhưng vì là thượng tế năm đó, ông đã nói tiên tri việc Chúa Giêsu sẽ chết thay cho dân tộc 52và không phải chỉ thay cho dân tộc, mà còn để qui tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối. 53Bắt đầu từ hôm ấy, họ quyết định giết Ngài. 54Vì thế Chúa
Giêsu không còn đi lại công khai giữa người Do Thái nữa, nhưng từ nơi đó Ngài đi đến một vùng gần sa mạc, đến một thành gọi là Ephraim và ở đó với các môn đệ.
Lễ Vượt Qua cuối cùng.
55Lễ Vượt Qua của người Do Thái đã gần. Nhiều người trong xứ lên Giêrusalem trước Lễ Vượt Qua để thanh tẩy mình. 56Họ tìm kiếm Chúa Giêsu, và đứng trong Đền Thờ bàn tán với nhau: “Các ông nghĩ sao? Ông ấy có lên dự lễ không?”. 57Còn các thượng tế và Pharisêu đã ra lệnh rằng, nếu ai thấy Ngài ở đâu thì phải tố cáo, để họ đến bắt Ngài.
==============
§ Ga 11, 9 Cách tính giờ của người Do Thái (x. Mt 20, 3-6; Lc 12, 38; Lc 23, 44): ban ngày có 12 giờ, bắt đầu từ 6 giờ sáng là giờ thứ nhất, giờ thứ mười hai là 6 giờ chiều tức lúc chập tối; ban đêm thì chia thành 4 canh, mỗi canh 3 giờ: canh một từ lúc mặt trời lặn đến 9 giờ tối, canh hai từ 9 giờ tối đến nửa đêm, canh ba từ nửa đêm đến 3 giờ sáng (canh gà gáy), canh tư từ 3 giờ đến 6g sáng.
§ Ga 11, 18: “Dặm”: = 185 mét, mười lăm dặm khoảng gần 3km (x. Mt 14, 24; Lc 14, 24; Ga 6, 19).
§ Ga 11, 47 “Công Nghị” hay Hội Đồng: (x. Mt 26, 59).
Gioan - Chương 12
Xức dầu thơm tại Bêtania.
1Sáu ngày trước Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đến Bêtania nơi ở của Lagiarô, người đã được Chúa Giêsu cho sống lại từ cõi chết. 2Người ta dọn bữa tối cho Ngài, và Mátta lo phục vụ, còn Lagiarô là một trong số những người cùng đồng bàn với Ngài. 3Maria lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất, hảo hạng, mà xức chân Chúa Giêsu, rồi lấy tóc mình mà lau; cả nhà ngát mùi hương thơm. 4Giuđa Iscariốt, một trong những môn đệ của Ngài, kẻ sẽ nộp Ngài, liền nói: 5“Sao không đem bán dầu thơm ấy đi, lấy ba trăm đồng đênari§ mà cho người nghèo?”. 6Ông nói như vậy không phải vì lo lắng cho người nghèo, nhưng bởi vì ông là một tên trộm, ông giữ túi tiền người ta dâng cúng nhưng lại hay gian lận vào túi riêng. 7Chúa Giêsu nói với ông: “Hãy để mặc cô, để cô ấy còn giữ lại cho ngày mai táng Thầy. 8Những người nghèo, các con luôn có bên cạnh, nhưng Thầy thì các con không có mãi đâu”.
9Đám đông người Do Thái biết Chúa Giêsu ở đó nên tuốn đến, không phải chỉ vì Chúa Giêsu mà thôi, nhưng còn để thấy Lagiarô, người đã được Ngài cho sống lại từ cõi chết. 10Vậy các thượng tế quyết định giết luôn cả Lagiarô, 11bởi vì anh ta mà nhiều người Do Thái lìa bỏ họ để tin theo Chúa Giêsu.
Tiến vào Giêrusalem.
12Sáng hôm sau, một đám rất đông đi dự lễ, khi hay tin Chúa Giêsu đang tiến vào Giêrusalem, 13họ cầm những cành vạn tuế ra đón Ngài và reo hò:
“Hôsanna!§
Chúc tụng Đấng ngự đến
nhân Danh Thiên Chúa!
Hoan hô Vua Israel!”.
14Chúa Giêsu tìm được một con lừa con, Ngài cưỡi lên đúng như lời đã viết:
15“Đừng sợ,
hỡi con gái Sion.
Này Vua của con đang đến,
cưỡi trên lừa con”.
16Những điều này, các môn đệ của Ngài ban đầu không hiểu, nhưng khi Chúa Giêsu đã được tôn vinh, bấy giờ các ông mới nhớ lại rằng, các điều ấy đã được viết về Ngài, và người ta đã làm những điều ấy cho Ngài. 17Đám đông đã có mặt bên Chúa Giêsu khi Ngài gọi Lagiarô ra khỏi mồ, và cho anh ta sống lại từ cõi chết, làm chứng về điều đó. 18Vì thế đám đông dân chúng đi đón Ngài, bởi họ nghe biết Ngài đã làm dấu lạ ấy. 19Những người Pharisêu bảo nhau: “Các ông có nhận thấy rằng các ông chẳng làm được gì không? Kìa, cả thiên hạ đều theo ông ta!”.
Đến Giờ của Chúa Giêsu.
20Trong số những người lên dự lễ, có cả người Hy Lạp; 21họ đến gặp Philipphê, quê ở Bétsaiđa miền Galilê, và thưa rằng: “Thưa Ngài, chúng tôi muốn gặp Chúa Giêsu”. 22Philipphê nói điều đó với Anđrê và cả hai đến thưa với Chúa Giêsu. 23Chúa Giêsu đáp lại và nói với họ rằng: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. 24Amen, amen, Thầy nói với các con: nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không chết đi thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó chết đi, nó sẽ sinh nhiều bông hạt. 25Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất; và ai ghét sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. 26Ai phụng sự Thầy, hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu thì kẻ phụng sự Thầy cũng ở đấy; ai phụng sự Thầy, Cha Thầy sẽ tôn trọng người ấy.
27Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến. Và phải nói gì đây? Lạy Cha, xin hãy cứu con khỏi giờ này chăng? Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. 28Lạy Cha, xin hãy tôn vinh Danh Cha!”. Bấy giờ có tiếng từ trời vọng đến: “Ta đã tôn vinh Danh Ta và Ta sẽ còn tôn vinh nữa”. 29Đám đông đứng đó nghe thấy, thì bảo rằng đấy là một tiếng sấm; những người khác lại cho rằng: “Một thiên thần đã nói với Ngài”. 30Nhưng Chúa Giêsu trả lời và bảo: “Tiếng vọng ấy không phải vì Tôi, mà vì anh em. 31Chính bây giờ là cuộc phán xét thế gian này, và chính bây giờ là lúc thủ lãnh thế gian bị đuổi ra ngoài; 32phần Tôi, một khi Tôi được giương cao khỏi đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên cùng Tôi”. 33Ngài nói thế để chỉ cho biết Ngài sẽ phải chết cách nào. 34Đám đông thưa lại với Ngài: “Trong Lề Luật, chúng tôi đọc thấy rằng Đấng Kitô tồn tại muôn đời; vậy mà Ngài lại bảo: “Con Người phải được giương cao”? Con Người đó là ai vậy?”. 35Chúa Giêsu nói với họ: “Ánh sáng chỉ ở với anh em ít lâu nữa thôi. Hãy bước đi trong khi còn ánh sáng, kẻo bóng tối vượt qua anh em; ai đi trong bóng tối thì không biết mình đi đâu. 36Bao lâu còn ánh sáng, hãy tin tưởng nơi ánh sáng, để anh em trở nên con cái ánh sáng”. Sau khi Chúa Giêsu đã nói những lời đó, Ngài rời nơi đó và ẩn mình khỏi họ.
Những điều người Do Thái tin và không tin.
37Mặc dù Ngài đã làm rất nhiều dấu lạ ngay trước mắt họ, nhưng họ vẫn không tin vào Ngài, 38điều ấy đã ứng nghiệm lời của ngôn sứ Isaia:
“Lạy Chúa, ai tin được điều đã thấu tai chúng con,
và cánh tay của Chúa đã được bày tỏ cho những ai?”.
39Sở dĩ họ không thể tin, bởi Isaia còn nói:
40“Ngài đã làm cho mắt chúng ra mù lòa,
cho lòng chúng ra chai đá,
kẻo mắt chúng thấy được,
lòng chúng hiểu được,
và chúng hoán cải
để Ta chữa lành cho chúng”.
41Isaia đã thốt lên những lời ấy vì ông đã thấy trước vinh quang của Chúa Giêsu và ông nói tiên tri về Ngài. 42Thật ra thì trong số các thủ lãnh cũng có nhiều kẻ tin vào Ngài, nhưng do ngại nhóm Pharisêu nên họ không dám tuyên xưng, sợ rằng sẽ bị trục xuất khỏi hội đường; 43họ chuộng vinh quang nơi loài người hơn là vinh quang của Thiên Chúa.
Tổng kết.
44Bấy giờ Chúa Giêsu lớn tiếng nói rằng: “Ai tin Tôi thì không phải là tin Tôi, nhưng là tin Đấng đã sai Tôi; 45và ai thấy Tôi, là thấy Đấng đã sai
Tôi. 46Tôi là ánh sáng đã đến trần gian, để tất cả những ai tin Tôi sẽ không ở trong tối tăm. 47Ai nghe lời Tôi mà không tuân giữ, thì không phải Tôi sẽ xét xử kẻ ấy; bởi Tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu độ thế gian. 48Ai chối từ Tôi và không đón nhận lời Tôi, thì có thẩm phán xét xử kẻ ấy: chính lời Tôi đã nói sẽ xét xử kẻ ấy trong ngày sau hết, 49bởi vì Tôi không tự mình nói ra, nhưng Cha, là Đấng đã sai Tôi, chính Ngài đã truyền lệnh cho Tôi phải nói gì và bảo gì. 50Và Tôi biết rằng lệnh truyền của Ngài là sự sống đời đời. Những điều Tôi nói, thì Tôi nói như Cha đã nói với Tôi”.
=============
§ Ga 12, 5 “Đênari”: (x. Mt. 20, 2).
§ Ga 12, 13 “Hosanna”: (x. Mc 11, 9).
Gioan - Chương 13
III. Sách sự vinh quang
(13:1–20:31)
Chương 13
Rửa chân cho các môn đệ.
1Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết rằng Giờ của Ngài đã đến, để Ngài ra khỏi thế gian mà về cùng Cha, Ngài yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở trong thế gian, và Ngài đã yêu thương họ đến cùng. 2Trong bữa ăn tối, Quỷ đã gieo vào lòng Giuđa, con của Simon Iscariốt, ý định nộp Ngài; 3biết rằng Cha đã trao phó mọi sự trong tay Ngài, và vì Ngài đã xuất phát từ Thiên Chúa, và đang đi về cùng Thiên Chúa, 4Ngài trỗi dậy, rời bàn ăn, cởi áo, lấy khăn mà thắt lưng. 5Rồi Ngài đổ đầy nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. 6Ngài đến cùng Simon Phêrô. Ông thưa với Ngài: “Thưa Thầy, Thầy mà lại rửa chân cho con sao?”. 7Chúa Giêsu trả lời và nói với ông: “Điều Thầy làm đây, ngay bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau này con sẽ hiểu”. 8Phêrô thưa với Ngài: “Không đời nào Thầy lại rửa chân cho con”. Chúa Giêsu bảo ông: “Nếu Thầy không rửa cho con, con sẽ không có phần nào với Thầy”. 9Simon Phêrô thưa Ngài: “Nếu vậy, xin Thầy rửa không những chân con mà cả tay và đầu nữa!”. 10Chúa Giêsu bảo ông: “Ai mới tắm rồi thì chỉ cần rửa chân, vì toàn thân đã sạch; các con đã sạch nhưng không phải tất cả đâu”. 11Vì Ngài biết ai sẽ nộp Ngài nên mới nói: “Không phải tất cả các con đều sạch”.
12Sau khi đã rửa chân cho các ông, Ngài mặc áo lại và khi đã về chỗ, Ngài nói với các ông: “Các con có hiểu việc Thầy vừa làm cho các con không? 13Các con gọi Ta là “Thầy”, và là “Chúa” thì đúng lắm; vì Thầy đúng là như thế. 14Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy, mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. 15Vì Thầy đã nêu gương cho các con, để: Thầy đã làm cho các con thế nào, thì các con cũng làm như vậy. 16Amen, amen, Thầy nói cho các con biết: gia nhân không trọng hơn chủ, kẻ được sai đi không trọng hơn người đã sai mình. 17Nếu các con biết điều đó, thì phúc cho các con nếu các con thực hành. 18Thầy không nói về tất cả các con đâu, vì Thầy biết những người Thầy đã chọn; nhưng lời Kinh Thánh sau đây phải được ứng nghiệm: “Chính kẻ ăn bánh của Ta sẽ giơ gót lên đạp Ta”. 19Ngay từ bây giờ Thầy nói những điều ấy với các con, trước khi sự việc xảy ra, để khi mọi sự xảy ra, các con tin rằng Thầy là Đấng Hằng Sống. 20Amen, amen, Thầy bảo cho các con biết: ai đón nhận người Thầy sai đến, là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy, là đón nhận Đấng đã sai Thầy”.
Công bố việc Giuđa phản bội.
21Chúa Giêsu nói thế rồi, tâm hồn Ngài xao xuyến và nói: “Amen, amen, Thầy cho các con biết: một người trong các con sẽ nộp Thầy”. 22Các môn đệ nhìn nhau, phân vân không biết là Ngài đang nói về ai. 23Đang ở bàn ăn, trong số các môn đệ có một người được Chúa Giêsu yên mến, đang tựa vào lòng Chúa Giêsu, 24Simon Phêrô ra dấu cho môn đệ ấy để hỏi xem: "Ai đó, Thầy nói về ai vậy?". 25Môn đệ ấy nghiêng đầu vào ngực Chúa Giêsu và nói với Ngài: “Thưa Thầy, ai vậy?”. 26Chúa Giêsu trả lời: “Đó là kẻ Thầy sẽ trao miếng bánh đã chấm trong đĩa này”. Ngài chấm miếng bánh và trao cho Giuđa, con của Simon Iscariốt. 27Và khi nhận miếng bánh ấy, Satan nhập vào người ông. Chúa Giêsu nói với ông: “Con muốn làm gì thì làm mau đi”. 28Những người đồng bàn không hiểu tại sao Ngài lại nói với ông ta như vậy; 29vì Giuđa giữ túi tiền chung nên vài người cho rằng Chúa Giêsu muốn bảo ông: "Hãy mua những gì chúng ta cần trong dịp lễ", hoặc bố thí cho người nghèo. 30Vậy sau khi nhận miếng bánh, Giuđa liền ra đi; và bấy giờ trời đã tối.
Điều răn mới.
31Khi Giuđa đi rồi, Chúa Giêsu nói: “Bây giờ Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Ngài; 32nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Ngài, Thiên Chúa sẽ tôn vinh Ngài trong chính mình, và ngay đây Thiên Chúa sẽ tôn vinh Ngài. 33Hỡi các con bé nhỏ, Thầy chỉ còn ở với các con một ít lâu nữa; các con sẽ tìm Thầy, và như Thầy đã nói với người Do Thái: nơi Tôi đi, các ông không thể đến được, thì nay Thầy cũng nói với các con như vậy. 34Thầy ban cho các con một điều răn mới, đó là các con hãy yêu thương nhau; như Thầy đã yêu thương các con, các con cũng hãy yêu thương nhau. 35Chính nơi điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy: đó là các con yêu thương nhau”.
Báo trước việc Phêrô chối Thầy.
36Simon Phêrô thưa với Ngài: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu?”. Chúa Giêsu trả lời: “Nơi Thầy đi, lúc này, con chưa theo được, nhưng sau này, con sẽ theo”. 37Phêrô thưa với Ngài: “Thưa Thầy, tại sao con lại không thể theo Thầy ngay bây giờ được? Con sẽ liều mạng sống con vì Thầy”. 38Chúa Giêsu trả lời: “Con liều mạng sống vì Thầy sao? Amen, amen Thầy nói cho con biết: trước khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần.
Gioan - Chương 14
Diễn từ bữa tối cuối cùng.
1Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa, và tin vào Thầy. 2Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, lẽ nào Thầy lại nói với các con là Thầy đi để dọn chỗ cho các con? 3Nếu Thầy đi và dọn chỗ cho các con, Thầy sẽ trở lại và đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. 4Và Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi”. 5Ông Tôma thưa Ngài: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu thì làm sao biết đường?”. 6Chúa Giêsu nói: ”Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống; không ai có thể đến với Cha mà không qua Thầy. 7Nếu các con biết Thầy, thì các con cũng biết Cha Thầy; ngay từ bây giờ, các con đã biết và đã thấy Ngài”. 8Ông Philipphê thưa: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Cha và như vậy là đủ cho chúng con”. 9Chúa Giêsu nói với ông: “Thầy ở với các con bấy lâu mà con vẫn chưa biết Thầy sao, Philipphê? Ai thấy Thầy là thấy Cha. Sao con lại nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Cha”? 10Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy sao? Những Lời Thầy nói với các con, không phải tự mình nói ra; nhưng Cha, Đấng ở trong Thầy, Ngài hằng làm những công việc của mình. 11Hãy tin Thầy: Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy; bằng không, các con hãy tin vì những việc Thầy làm. 12Amen, amen, Thầy nói cho các con biết: ai tin vào Thầy thì làm được những việc như Thầy đã làm, và còn làm được những việc lớn lao hơn thế nữa, vì Thầy về cùng Cha. 13Và điều gì các con nhân Danh Thầy mà xin, Thầy sẽ làm, để Cha được vinh danh trong Con; 14nếu điều gì các con nhân Danh Thầy mà xin, Thầy sẽ làm cho.
Đấng Bầu Chữa.
15Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ các lệnh truyền của Thầy; 16Thầy sẽ xin Cha và Ngài sẽ ban cho các con Đấng Bầu Chữa khác, đến ở với các con luôn mãi, 17Ngài là Thần Khí Sự Thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận vì thế gian không thấy và không biết Ngài. Còn các con, các con biết Ngài, bởi vì Ngài ở với các con và ở trong các con. 18Thầy sẽ không để các con mồ côi; Thầy sẽ đến với các con. 19Ít lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy; phần các con, các con sẽ thấy Thầy; và vì Thầy sống, các con cũng sẽ sống. 20Trong ngày đó, các con sẽ nhận ra rằng Thầy ở trong Cha Thầy, các con ở trong Thầy và Thầy ở trong các con. 21Ai có các lệnh truyền của Thầy và tuân giữ, đó là người yêu mến Thầy; mà ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến, Thầy cũng yêu mến người ấy và tỏ chính mình ra cho người ấy”. 22Ông Giuđa, không phải Giuđa Iscariốt, thưa với Ngài: “Thưa Thầy, tại sao lại là: Thầy sẽ tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ cho thế gian?”. 23Chúa Giêsu trả lời và nói với ông: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, Chúng Ta sẽ đến với người ấy, và sẽ đặt chỗ nơi người ấy; 24ai không yêu mến Thầy, thì không giữ Lời Thầy. Lời mà các con nghe không phải là của Thầy nhưng là của Cha, Đấng đã sai Thầy.
25Các điều ấy, Thầy đã nói với các con khi còn ở giữa các con. 26Nhưng Đấng Bầu Chữa, là Chúa Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân Danh Thầy, chính Ngài sẽ dạy dỗ các con mọi điều, và sẽ nhắc cho các con nhớ lại tất cả những gì Thầy đã nói với các con. 27Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con; Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao xuyến và cũng đừng sợ hãi. 28Các con đã nghe Thầy nói với các con: Thầy ra đi, rồi Thầy sẽ trở lại với các con. Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về cùng Cha, bởi vì Cha cao trọng hơn Thầy. 29Bây giờ, Thầy nói với các con trước khi sự việc xảy ra, để khi sự việc xảy ra thì các con tin. 30Thầy không còn nói nhiều với các con nữa, vì thủ lãnh thế gian đang đến. Nó không có quyền gì trên Thầy; 31nhưng, để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Cha, và Thầy làm như Cha truyền dạy. Đứng dậy, chúng ta đi khỏi đây.
Gioan - Chương 15
Cây nho và cành nho.
1Thầy là cây nho đích thực và Cha Thầy là người trồng nho. 2Cành nào trong Thầy mà không sinh trái, thì Ngài chặt đi; còn cành nào sinh trái thì Ngài cắt tỉa để nó sinh trái nhiều hơn. 3Các con đã được tỉa sạch nhờ Lời Thầy đã nói với các con. 4Các con hãy ở lại trong Thầy, và Thầy sẽ ở lại trong các con. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh trái được nếu không dính liền với cây nho; các con cũng vậy nếu không ở lại trong Thầy. 5Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiều trái, vì không có Thầy các con không thể làm gì được. 6Ai không ở lại trong Thầy, thì sẽ bị quăng ra ngoài như cành nho, và sẽ khô héo; người ta sẽ thu lại, quăng vào lửa cho nó cháy đi. 7Nếu các con ở lại trong Thầy, và Lời Thầy ở lại trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin và sẽ được. 8Điều làm Cha Thầy được tôn vinh, là các con sinh nhiều trái và trở nên môn đệ của Thầy. 9Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. 10Nếu các con tuân giữ các lệnh truyền của Thầy, các con sẽ ở lại trong tình yêu của Thầy; cũng như Thầy đã tuân giữ các lệnh truyền của Cha Thầy nên Thầy ở lại trong tình yêu của Ngài.
11Thầy đã nói với các con những điều đó, để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn. 12Đây là lệnh truyền của Thầy: các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con; 13không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu. 14Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thực thi những điều Thầy truyền dạy các con. 15Thầy không còn gọi các con là gia nhân, vì gia nhân không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết. 16Không phải các con đã chọn Thầy; nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi, và mang lại hoa trái, và hoa trái các con tồn tại, để những gì các con xin với Cha nhân Danh Thầy, thì Ngài sẽ ban cho các con. 17Thầy truyền cho các con điều này là: hãy yêu thương nhau.
Thế gian thù ghét.
18Nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. 19Nếu các con thuộc về thế gian, thế gian sẽ yêu những gì thuộc về nó; nhưng vì các con không thuộc về thế gian, vì chính Thầy đã chọn các con từ giữa thế gian, nên thế gian ghét các con. 20Các con hãy nhớ lại Lời Thầy đã nói với các con: tôi tớ không trọng hơn chủ. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ các con; nếu họ tuân giữ Lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời các con. 21Nhưng vì Danh Thầy, họ đã làm cho các con những điều ấy, bởi vì họ không biết Đấng đã sai Thầy. 22Nếu Thầy không đến và không nói cho họ biết, thì họ không có tội; nhưng bây giờ thì họ không thể chối tội của họ. 23Ai ghét Thầy thì cũng ghét Cha Thầy. 24Nếu Thầy không làm giữa họ những việc chưa hề có ai đã làm được, thì họ không có tội; nhưng bây giờ họ đã thấy mà họ vẫn ghét Thầy và Cha Thầy. 25Nhưng như thế là để cho Lời đã viết trong Lề Luật được nên trọn: “Họ đã oán ghét Ta cách vô cớ”.
26Khi Đấng Bầu Chữa đến, Đấng mà Thầy sẽ gửi đến cho các con từ nơi Cha, Ngài là Thần Khí Sự Thật xuất phát từ Cha, Ngài sẽ làm chứng về Thầy; 27và các con cũng làm chứng, vì từ ban đầu các con đã ở với Thầy.
Gioan - Chương 16
1Thầy đã nói với các con những điều ấy, để các con không bị vấp ngã. 2Họ sẽ loại trừ các con ra khỏi hội đường; nhưng sẽ đến giờ mà những kẻ giết các con lại tưởng làm thế là phụng thờ Thiên Chúa. 3Họ làm thế, bởi họ đã không biết Cha cũng không biết Thầy. 4Những điều ấy Thầy đã nói với các con, để khi đến giờ của họ, các con nhớ lại rằng Thầy đã nói với các con.
Chúa Giêsu ra đi; Đấng Bầu Chữa đến.
Thầy đã không nói với các con ngay từ đầu, vì Thầy còn ở với các con. 5Bây giờ Thầy về với Đấng đã sai Thầy, và không một ai trong các con hỏi Thầy: “Thầy đi đâu?”. 6Nhưng vì Thầy đã nói những điều đó với các con, nên ưu phiền tràn ngập lòng các con. 7Song Thầy bảo các con: Thầy ra đi thì ích lợi hơn cho các con, bởi nếu Thầy không ra đi, Đấng Bầu Chữa sẽ không đến. Còn nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ gửi Ngài đến với các con. 8Khi Ngài đến, Ngài sẽ chứng tỏ cho thế gian biết về tội lỗi, về sự công chính và về việc phán quyết: 9về tội lỗi đã phạm vì họ không tin vào Thầy; 10về sự công chính, vì Thầy về cùng Cha và các con sẽ không còn thấy Thầy nữa; 11về việc phán quyết, vì thủ lãnh thế gian này đã bị phán xét. 12Thầy còn nhiều điều muốn nói với các con, nhưng lúc này các con không thể lãnh hội được. 13Nhưng khi Thần Khí Sự Thật đến, chính Ngài sẽ dẫn dắt các con tới chân lý toàn vẹn; Ngài không tự mình mà nói, nhưng Ngài đã nghe sao thì nói lại như vậy, Ngài cũng sẽ loan báo cho các con biết những việc sẽ đến. 14Ngài sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lãnh nhận tất cả từ nơi Thầy để truyền lại cho các con. 15Mọi sự Cha có, đều là của Thầy; vì thế Thầy đã nói: Ngài sẽ lãnh nhận từ Thầy mà loan báo cho các con.
16Một ít lâu nữa, các con sẽ không thấy Thầy; và lại một ít lâu nữa, các con sẽ thấy Thầy”. 17Có một vài người trong số các môn đệ nói với nhau: “Thầy muốn nói gì với chúng ta khi bảo: “Một ít lâu nữa, các con sẽ không thấy Thầy; và lại một ít lâu nữa các con sẽ thấy Thầy”, và: “Thầy về cùng Cha”?”. 18Rồi họ nói: “Thầy muốn nói gì, khi nói: “Một ít lâu nữa”? Chúng tôi không biết Thầy muốn nói gì”. 19Chúa Giêsu biết họ muốn hỏi Ngài, nên Ngài nói với họ: “Có phải các con bàn tán với nhau về điều Thầy đã nói: “Một ít lâu nữa, các con sẽ không thấy Thầy; và lại một ít lâu nữa các con sẽ thấy Thầy không”?
20Amen, amen, Thầy nói với các con: các con sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian lại vui mừng; các con sẽ đau buồn, nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui. 21Người đàn bà, khi sinh con thì lo buồn, vì giờ của bà đã đến; nhưng khi đã sinh con rồi, bà chẳng còn nhớ đến cơn đau nữa, vì niềm vui là một con người đã được sinh ra đời. 22Các con cũng thế, bây giờ các con lo buồn; nhưng Thầy sẽ gặp lại các con, lòng các con sẽ vui mừng và niềm vui của các con không ai lấy mất được. 23Và trong ngày đó, các con sẽ không còn hỏi Thầy điều gì nữa. Amen, amen, Thầy nói với các con: điều gì các con nhân Danh Thầy mà xin với Cha, Ngài sẽ ban cho các con. 24Cho đến bây giờ, các con vẫn chưa xin gì nhân Danh Thầy. Hãy xin thì sẽ được, để niềm vui của các con được trọn vẹn.
25Các điều ấy, Thầy đã dùng dụ ngôn mà nói với các con; sẽ đến giờ Thầy không còn dùng dụ ngôn mà nói nữa, nhưng Thầy sẽ loan báo cho các con rõ ràng về Cha. 26Ngày đó, các con sẽ nhân Danh Thầy mà xin, và Thầy không bảo các con là chính Thầy sẽ cầu xin Cha cho các con; 27vì chính Cha yêu mến các con, bởi các con yêu mến Thầy và tin rằng Thầy từ Thiên Chúa mà đến. 28Thầy từ Cha mà đến và đến trong thế gian; bây giờ Thầy lại bỏ thế gian để về cùng Cha”. 29Các môn đệ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Này đây, Thầy nói rõ ràng và không dùng dụ ngôn nữa. 30Bây giờ chúng con biết rằng Thầy thông biết mọi sự, và Thầy không cần có ai hỏi Thầy nữa; bởi đó chúng con tin rằng Thầy từ Thiên Chúa mà đến”. 31Chúa Giêsu trả lời: “Bây giờ các con mới tin ư? 32Này giờ đang đến, và đã đến rồi, các con sẽ bị phân tán mỗi người một ngả, và bỏ mặc Thầy một mình; nhưng Thầy không ở một mình đâu, vì có Cha ở với Thầy. 33Các điều ấy, Thầy đã nói với các con, để trong Thầy các con được bình an; trong thế gian, các con sẽ gặp gian truân, nhưng hãy vững tin, Thầy đã thắng thế gian”.
Gioan - Chương 17
Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu.
1Nói thế rồi, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và thưa: “Lạy Cha, giờ đã đến: xin Cha tôn vinh Con Cha để Con tôn vinh Cha, 2và như Cha đã ban cho Ngài quyền trên mọi xác phàm, để những ai Cha đã trao phó cho Ngài, thì Ngài sẽ ban cho họ sự sống đời đời. 3Sự sống đời đời, đó là họ nhận biết Cha là Thiên Chúa Duy Nhất và Đấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô. 4Phần Con, Con đã tôn vinh Cha dưới đất; Con đã chu toàn công việc mà Cha đã trao phó cho Con thực hiện; 5và giờ đây, lạy Cha, xin Cha tôn vinh Con nơi Cha, trong vinh quang Con đã có nơi Cha, trước khi có thế gian.
6Con đã tỏ Danh Cha cho những người Cha đã ban cho Con trong thế gian. Họ vốn thuộc về Cha, Cha đã trao họ cho Con, và họ tuân giữ Lời Cha. 7Giờ đây, họ biết rằng mọi sự Cha ban cho Con đều bởi Cha mà ra, 8vì những Lời Cha đã ban cho Con, Con đã ban lại cho họ; họ đã lãnh nhận và biết thật rằng Con bởi Cha mà ra, và họ tin rằng Cha đã sai Con. 9Con cầu xin cho họ; Con không cầu xin cho thế gian nhưng cho những người Cha đã ban cho Con, bởi họ thuộc về Cha; 10mọi sự của Con là của Cha; mọi sự của Cha là của Con; và Con được tôn vinh nơi họ. 11Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ vẫn còn ở trong thế gian, phần Con, Con về cùng Cha. Lạy Cha Chí Thánh, xin gìn giữ họ trong Danh Cha, để họ nên một như Chúng Ta. 12Khi Con còn ở với họ, Con đã gìn giữ họ trong Danh Cha, những người Cha đã trao phó cho Con, Con đã canh giữ và không để một ai trong họ bị hư mất, ngoại trừ đứa con hư đốn để Kinh Thánh được nên trọn. 13Giờ đây, Con về cùng Cha, Con nói những điều này lúc còn ở thế gian, để sự vui mừng của Con được tràn ngập trong họ. 14Con đã trao cho họ Lời của Cha, và thế gian đã ghét họ vì họ không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. 15Con không xin Cha đưa họ ra khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi Ác Thần. 16Họ không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. 17Xin Cha thánh hoá họ trong sự thật: Lời Cha là Sự Thật. 18Như Cha đã sai Con vào thế gian, Con cũng sai họ vào thế gian; 19vì họ, Con đã thánh hiến chính mình, để chính họ cũng được thánh hiến trong sự thật.
20Con không chỉ cầu xin cho họ mà thôi, nhưng còn cho cả những ai, nhờ lời họ mà tin vào Con, 21để tất cả họ nên một, lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng ở trong Chúng Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con. 22Phần Con, Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho Con để họ nên một như Chúng Ta là một; 23Con ở trong họ, và Cha ở trong Con, để họ hoàn toàn nên một; và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và đã yêu mến họ như Cha đã yêu mến Con. 24Lạy Cha, những người Cha đã ban cho Con, thì Con muốn rằng Con ở đâu họ cũng ở đấy với Con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của Con, mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. 25Lạy Cha Công Chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con; 26Con đã tỏ cho họ biết Danh Cha và Con sẽ còn tỏ cho họ biết nữa, để tình Cha yêu Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ”.
Gioan - Chương 18
Chúa Giêsu bị bắt.
1Nói thế rồi, Chúa Giêsu ra đi cùng với các môn đệ, qua bên kia khe rãnh Cêđrôn, ở đó có một khu vườn, Ngài đi vào cùng với các môn đệ. 2Giuđa, kẻ nộp Ngài đã biết rõ nơi này, bởi vì Chúa Giêsu và các môn đệ vẫn thường tụ họp ở đây. 3Vậy Giuđa dẫn theo một cơ đội§ lính và thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pharisêu, họ mang theo đèn đuốc và binh khí. 4Chúa Giêsu biết rõ mọi việc sẽ xảy đến với mình, nên tiến ra và hỏi: “Các ông tìm ai?”. 5Họ trả lời: “Giêsu Nagiarét”. Ngài bảo: “Chính là Tôi!”. Kẻ phản bội Giuđa cũng đứng chung với họ. 6Khi nghe Chúa Giêsu trả lời: “Chính là Tôi!”, họ giật lùi lại và ngã lăn ra đất.§ 7Ngài lại hỏi họ lần nữa: “Các ông tìm ai?”. Họ nói: “Giêsu Nagiarét”. 8Chúa Giêsu đáp: “Tôi đã bảo các ông: chính là Tôi! Vậy nếu các ông tìm Tôi, thì hãy để cho những người này đi”, 9như thế là ứng nghiệm Lời Ngài đã nói: “Những người Cha đã trao phó cho Con, Con không để mất một ai”. 10Simon Phêrô có mang theo một thanh kiếm, ông rút ra chém tên gia nhân của vị thượng tế, chặt đứt tai bên phải của anh ta. Người ấy tên là Malcô. 11Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Hãy xỏ gươm vào vỏ; chén Cha đã ban cho Thầy, Thầy lại không uống sao?”.
12Cơ đội lính và viên sĩ quan chỉ huy cùng với các thuộc cấp người Do Thái bắt lấy Chúa Giêsu và trói Ngài lại 13và trước tiên họ đưa Ngài đến nhà Anna; nhạc phụ của Caipha đang là thượng tế năm đó. 14Caipha chính là kẻ đã khuyên người Do Thái: "Nên để một người chết thay cho dân thì lợi hơn”.
Phêrô chối Thầy lần thứ nhất.
15Đi theo Chúa Giêsu có Simon Phêrô và một môn đệ khác. Môn đệ này quen biết với vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu đi vào sân trong dinh thượng tế. 16Phêrô đứng bên cổng, phía ngoài. Người môn đệ kia quen vị thượng tế, đi ra nói nhỏ với người tớ gái giữ cổng và đưa Phêrô vào. 17Cô tớ gái giữ cổng nói với Phêrô: “Cả ông nữa, ông cũng thuộc về nhóm môn đệ của người ấy phải không?”. Phêrô chối: “Không phải tôi!”. 18Những gia nhân và thuộc cấp tụ họp lại giữa sân; vì trời rất lạnh nên họ nhóm lửa mà sưởi, Phêrô cũng đứng sưởi với họ.
Bị thượng tế Anna hỏi cung.
19Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về các môn đệ và về giáo huấn của Ngài. 20Chúa Giêsu trả lời: “Tôi đã nói công khai trước mặt mọi người; Tôi luôn giảng dạy trong hội đường và Đền Thờ, nơi người Do Thái tụ họp, và Tôi không nói lén lút điều gì. 21Tại sao ông lại hỏi tôi? Hãy hỏi những người đã nghe Tôi, họ biết rất rõ những gì Tôi nói”. 22Nghe những lời ấy, một thuộc hạ đứng đó vả mặt Chúa Giêsu và nói: “Ông trả lời vị thượng tế như vậy sao?”. 23Chúa Giêsu đáp lại ông ta: “Nếu Tôi nói sai thì hãy cho biết là sai chỗ nào; nếu Tôi nói đúng thì sao lại đánh Tôi?”. 24Bấy giờ Anna cho dẫn Ngài, vẫn bị trói, đến thượng tế Caipha.
Phêrô chối Chúa Giêsu lần nữa.
25Simon Phêrô đứng sưởi ở đó thì một người nói với ông: “Ông cũng thuộc về nhóm môn đệ của ông ấy phải không?“. Phêrô chối và nói: “Không phải tôi!”. 26Một thuộc hạ của vị thượng tế, có bà con với kẻ đã bị Phêrô chém đứt tai, nói: “Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với ông ấy sao?”. 27Một lần nữa, Phêrô lại chối; và ngay lúc đó, gà cất tiếng gáy.
Bị quan Philatô xét xử.
28Vậy họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến dinh tổng trấn. Lúc đó trời vừa sáng. Những kẻ áp giải Ngài không vào dinh để khỏi bị nhiễm uế hầu có thể dự Lễ Vượt Qua. 29Philatô đi ra ngoài gặp họ và nói: “Các ông tố cáo người này về việc gì?”. 30Họ trả lời và nói rằng: “Nếu ông ta không phải là tên gian ác, thì chúng tôi đã không nộp cho quan”. 31Philatô bảo họ: các ông cứ đem ông ấy đi và xét xử theo luật của các ông!”. Người Do Thái đáp lại: “Chúng tôi không có quyền xử tử ai cả”, 32và thế là ứng nghiệm Lời Chúa Giêsu đã nói trước, về cách Ngài sẽ phải chết như thế nào. 33Philatô lại trở vào dinh, cho gọi Chúa Giêsu đến và nói với Ngài: “Ông là Vua Dân Do Thái sao?”. 34Chúa Giêsu đáp lại: “Ngài tự mình nói ra điều ấy hay có ai đó đã nói với ngài về Tôi?”. 35Philatô trả lời: “Tôi là người Do Thái sao? Dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi; ông đã làm gì?”. 36Chúa Giêsu đáp lại: “Nước Tôi không thuộc về thế gian này; nếu Nước Tôi thuộc về thế gian này thì hẳn thuộc hạ của tôi đã chiến đấu để tôi không bị lọt vào tay người Do Thái; thế nhưng Nước Tôi không thuộc chốn này”. 37Philatô nói: “Vậy ông là Vua sao?“. Chúa Giêsu trả lời: “Chính ngài nói Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật; bất cứ ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng tôi”. 38Philatô nói với Ngài: “Sự thật là gì?”.
Nói xong, ông trở ra gặp người Do Thái và bảo họ: “Tôi không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy. 39Các ông có tục lệ là được ta tha cho một ai đó nhân dịp Lễ Vượt Qua; vậy các ông có muốn ta tha Vua Dân Do Thái cho các ông không?”. 40Họ gào lên rằng: “Không phải tên đó, nhưng là Barabba!”. Barabba là một tên cướp.
============
§ Ga 18, 3 “Cơ đội”: (x. Mt 27, 27).
§ Ga 18, 6: Tin Mừng Mt, Mc, và Lc trình bày việc Giuđa nhận diện Chúa Giêsu bằng một nụ hôn, Tin Mừng Ga trình bày Chúa Giêsu mạc khải Thiên Tính của Ngài. (Xin xem Ga 8, 24).
Gioan - Chương 19
1Bấy giờ Philatô truyền dẫn Chúa Giêsu đi và đánh đòn. 2Quân lính kết một vòng gai đặt trên đầu Ngài, rồi khoác cho Ngài một áo choàng tím§; 3chúng tiến đến trước Ngài và nói: “Kính chào Vua Dân Do Thái!”, và chúng vả mặt Ngài. 4Philatô lại ra ngoài và nói với họ: “Các ông hãy xem đây, ta dẫn ông ta ra để các ông biết rằng ta không thấy nơi ông ấy có tội gì”. 5Chúa Giêsu đi ra ngoài, đội vòng gai và khoác áo choàng tím. Philatô nói với họ: “Này là người!”. 6Khi thấy Ngài, các thượng tế và đám thuộc hạ bắt đầu la hét lên: “Đóng đinh nó vào thập giá! Đóng đinh nó vào thập giá!“. Philatô nói với họ: “Các ông hãy đem đi mà đóng đinh. Còn ta, ta không tìm ra tội trạng nào nơi ông ấy”. 7Họ trả lời: “Chúng tôi đã có luật, và theo luật đó thì nó phải chết, vì nó đã tự xưng mình là Con Thiên Chúa”. 8Khi nghe những lời ấy, Philatô càng thêm sợ hãi 9và ông trở vào dinh hỏi Chúa Giêsu: “Ông từ đâu đến?”. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời. 10Philatô nói với Ngài: “Ông không trả lời tôi sao? Ông không biết tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông sao?”. 11Chúa Giêsu trả lời: “Ngài chẳng có quyền gì trên tôi nếu từ trên không ban xuống cho ngài; chính vì thế kẻ nộp tôi cho ngài thì nặng tội hơn”. 12Từ lúc ấy, Philatô tìm cách tha Ngài; nhưng người Do Thái gào thét lên rằng: “Nếu ngài tha nó thì ngài không phải là bạn của Cêsar. Bất cứ ai tự xưng là vua, là chống lại Cêsar”.
13Philatô vừa nghe những lời ấy, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài, đặt Ngài ngồi trên một cái tòa tại nơi gọi là Nền Đá, tiếng Hípri gọi là Gábbatha. 14Đó là ngày Chuẩn Bị mừng Lễ Vượt Qua, vào khoảng giờ thứ sáu§. Philatô nói với người Do Thái: “Đây là vua của các ông!”. 15Họ la to lên: “Đem đi, đem đi, đóng đinh nó vào thập giá!”. Philatô nói với họ: “Ta mà ra lệnh đóng đinh Vua Do Thái sao?”. Các thượng tế trả lời: “Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Cêsar”. 16Bấy giờ, quan tổng trấn Philatô trao Chúa Giêsu cho họ đem đi đóng đinh vào thập giá. Họ điệu Chúa Giêsu đi.
Chúa Giêsu chịu đóng đinh.
17Tự mình vác lấy thập giá, Chúa Giêsu đi đến nơi gọi là Núi Sọ mà tiếng Do Thái gọi là Gôlgôtha, 18tại chính nơi ấy, họ đóng đinh Ngài trên thập giá cùng với hai người khác nữa, mỗi người một bên và Chúa Giêsu ở giữa. 19Philatô cho viết một tấm bảng treo lên thập giá; tấm bảng ấy viết: “Giêsu Nagiarét, ¾ Vua Dân Do Thái”. 20Rất nhiều người Do Thái đọc tấm bảng ấy, vì nơi người ta đóng đinh Chúa Giêsu gần thành và tấm bảng ấy lại viết bằng tiếng Hípri, tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp. 21Các thượng tế Do Thái nói với Philatô: “Xin đừng viết: “Vua Dân Do Thái” nhưng xin viết: “Tên này đã xưng: Ta là Vua Dân Do Thái””. 22Philatô trả lời: “Điều ta đã viết, là ta đã viết!”.
23Khi bọn lính đóng đinh Chúa Giêsu xong, chúng lấy áo xống của Ngài chia thành bốn phần, mỗi tên được một phần. Chúng cũng lấy áo dài của Ngài; nhưng chiếc áo dài này không có đường may, được dệt liền từ trên xuống dưới. 24Chúng bảo nhau: “Đừng xé nó ra, ta hãy bắt thăm xem ai được thì lấy”. Như vậy là ứng nghiệm Lời Kinh Thánh:
“Chúng chia nhau áo xống của Ta
và rút thăm áo dài của Ta”.
Và đám lính tráng đã thi hành những điều ấy. 25Đứng gần thập giá Chúa Giêsu có mẹ Ngài, chị của mẹ Ngài là bà Maria vợ ông Clêôpha, và Maria Mađalêna. 26Khi thấy mẹ và bên cạnh có môn đệ Ngài yêu mến, Chúa Giêsu nói với mẹ: “Thưa Bà, đây là con Bà”. 27Rồi Ngài nói với môn đệ: “Đây là mẹ con”. Từ giờ phút ấy, người môn đệ đón rước mẹ về nhà mình.
28Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất và để Kinh Thánh được nên trọn, Chúa Giêsu nói: “Ta khát”. 29Ở đấy có một bình đựng đầy giấm; người ta cột một miếng bọt biển thấm đẫm giấm trên đầu một cành hương thảo và đưa lên miệng Ngài. 30Khi nếm chút giấm xong, Chúa Giêsu nói: “Mọi sự đã hoàn tất!”. Rồi Ngài gục đầu xuống trút hơi thở.
Máu và Nước.
31Vì hôm đó là ngày Chuẩn Bị lễ, để xác chết không bị treo trên thập giá trong ngày Sabát, và ngày Sabát là đại lễ, nên người Do Thái xin Philatô cho đánh giập ống chân những người bị đóng đinh để có thể đem xác xuống. 32Lính tráng đến đánh giập ống chân người thứ nhất, rồi người thứ hai cùng chịu đóng đinh với Chúa Giêsu; 33khi đến chỗ Chúa Giêsu, thấy Ngài đã chết, họ không đánh giập ống chân Ngài nữa, 34nhưng một tên lính lấy ngọn giáo đâm thủng cạnh sườn Ngài; tức thì có máu và nước chảy ra. 35Người đã tận mắt chứng kiến xin làm chứng, và chứng của người đó chân thật, và người này biết rằng mình nói thật để cho anh em cùng tin. 36Xảy ra như thế là để Lời Kinh Thánh được nên trọn:
“Không một xương nào của Ngài
đã bị giập nát”,
37lại có Lời Kinh Thánh khác rằng:
“Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu”.
An táng Chúa Giêsu.
38Sau đó, ông Giuse người thành Arimathia, một môn đệ của Chúa Giêsu nhưng cách kín đáo vì sợ người Do Thái, xin với Philatô để ông cất xác Chúa Giêsu xuống. Philatô cho phép. Thế là Giuse đến hạ xác Ngài xuống. 39Nicôđêmô là người trước đây đã tìm gặp Chúa Giêsu ban đêm, ông cũng đến mang theo khoảng một trăm cân một dược§ trộn với trầm hương. 40Họ hạ xác Chúa Giêsu, bọc trong khăn vải, và liệm bằng những hương liệu, theo truyền thống Do Thái. 41Nơi Chúa Giêsu bị
đóng đinh có một khu vườn, và trong vườn ấy có một ngôi mộ còn mới, chưa an táng ai. 42Vì là ngày Chuẩn Bị lễ của người Do Thái, và bởi ngôi mộ cũng kề bên, nên họ đã an táng Chúa Giêsu ở đó.
============
§ Ga 19, 2 Theo Tin Mừng Mt 27, 28, những người lính cho Chúa Giêsu mặc áo đỏ. Trong Mc 15, 17 và Ga 19, 2 họ cho Chúa Giêsu mặc áo tím. Theo truyền thống Rôma thì hai màu này thường dùng cho các bậc vua chúa. Vì thế Giáo Hội cũng dùng hai màu này cho hàng chức sắc cao cấp.
§ Ga 19, 14 Giờ thứ sáu tức giữa trưa (x. Mt 20, 3-6).
§ Ga 19, 39 “Một dược”: {x. Mt 2, 11).
Gioan - Chương 20
Ngôi mộ trống.
1Ngày thứ nhất trong tuần, bà Maria Mađalêna đến mộ từ sáng sớm, lúc trời còn tối, bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mộ. 2Bà chạy tìm Simon Phêrô và người môn đệ mà Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với họ: “Người ta đã lấy mất Chúa khỏi mộ rồi, và chúng tôi không biết họ đã đặt Ngài ở đâu”. 3Vậy Phêrô cùng với môn đệ kia ra đi, họ đi về phía mộ. 4Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô và là người đến mộ trước; 5cúi nhìn vào trong, ông thấy khăn liệm còn để đó, nhưng ông không vào. 6Simon Phêrô chạy sau cũng tới nơi, ông vào trong mộ, nhìn những khăn liệm vẫn để đó 7và tấm khăn che đầu Ngài, tấm khăn này không để lẫn với khăn liệm, nhưng cuộn lại để riêng một nơi. 8Bấy giờ người môn đệ kia mới bước vào mặc dù ông đã đến mộ trước, ông đã thấy và ông đã tin. 9Thật vậy, cho đến lúc đó, các ông vẫn chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, thì Ngài phải sống lại từ trong cõi chết. 10Sau đó, các môn đệ trở về nhà mình.
Hiện ra với Maria Mađalêna.
11Maria đang đứng sát bên mộ phía ngoài mà khóc. Bà vừa khóc vừa nhìn vào trong mộ 12và bà thấy hai thiên thần trắng sáng, một vị ngồi phía đàng đầu, vị kia ở đàng chân ngay nơi đã đặt xác Chúa Giêsu. 13Các vị ấy hỏi: “Này bà, tại sao bà khóc?”. Bà nói: “Người ta đã lấy mất Chúa của tôi đi rồi, và tôi không biết họ đã đặt Ngài ở đâu”. 14Vừa nói xong, bà quay mặt lại thì nhìn thấy Chúa Giêsu đứng ở đó; nhưng bà không nhận ra Chúa Giêsu. 15Chúa Giêsu nói với bà: “Này bà, tại sao bà khóc? Bà tìm ai?”. Lầm tưởng là ông làm vườn, bà trả lời: “Thưa ông, nếu ông đã mang Ngài đi thì xin chỉ cho tôi biết ông đã đặt Ngài ở đâu, để tôi đưa Ngài về”. 16Chúa Giêsu gọi bà: “Maria!”. Quay lại, bà kêu lên bằng tiếng Do Thái: “Rabbuni!”§ ¾ nghĩa là: Thưa Thầy. 17Chúa Giêsu nói với bà: “Đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa về với Cha; nhưng hãy đi đến với các anh em của Thầy và nói với họ rằng: Thầy về với Cha Thầy cũng là Cha của các con, về cùng Thiên Chúa của Thầy cũng là Thiên Chúa của các con”. 18Maria Mađalêna chạy đi báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa!”, và bà tường thuật lại những gì Ngài đã nói với bà.
Hiện ra với các môn đệ.
19Vào lúc xế chiều cùng ngày hôm đó, ngày thứ nhất trong tuần, các cửa nhà của các môn đệ ở đều đóng kín, vì sợ người Do Thái, Chúa Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho các con!”. 20Nói thế rồi, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài. Các môn đệ tràn ngập vui mừng khi thấy Chúa. 21Ngài lại nói với họ: “Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. 22Nói thế rồi, Ngài thổi hơi trên các ông và nói: “Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. 23Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha; các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”.
Ông Tôma.
24Ông Tôma, một trong nhóm Mười Hai, gọi là Điđymô, nghĩa là song sinh, không ở cùng các ông khi Chúa Giêsu đến. 25Những môn đệ kia nói với ông: “Chúng tôi đã thấy Chúa!”. Nhưng ông nói với họ rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy những dấu đinh nơi tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay của mình vào những lỗ đinh ấy, nếu tôi không thọc bàn tay của mình vào cạnh sườn Ngài, thì tôi không tin”. 26Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà, và Tôma cũng ở đó với họ. Chúa Giêsu đến, trong lúc các cửa vẫn đóng kín, Ngài đứng giữa họ và nói: “Bình an cho các con!”. 27Rồi Ngài nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra đây, và thọc vào cạnh sườn Thầy: đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin!”. 28Ông Tôma thưa với Ngài: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. 29Chúa Giêsu nói với ông: “Bởi vì con đã thấy Thầy nên con tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin!”.
Phần kết luận.
30Còn rất nhiều những dấu lạ khác Chúa Giêsu đã thực hiện trước mặt các môn đệ nhưng không được ghi chép lại trong sách này; 31còn những điều này đã được ghi chép lại để anh em tin rằng Chúa Giêsu chính là Đấng Kitô Con Thiên Chúa, và nhờ Đức Tin đó, anh em được sống nhờ Danh Ngài.
==========
§ Ga 20, 16 “Rabbuni” cùng gốc chữ với “Rabbi”, là cách xưng hô với một bậc thầy có nhiều thâm niên hoặc uy tín. Rất ít bậc thầy trong Do Thái Giáo thời Chúa Giêsu được gọi với tước hiệu này. Chữ này cũng có cách viết khác là “Rabboni” (Mc 10, 51) hoặc “Rabbouni”.
Gioan - Chương 21
IV. Lời kết thúc:
Hiện ra ở Galilê sau khi Phục Sinh
(21:1–25)
Hiện ra với bảy môn đệ.
1Sau đó, Chúa Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ trên bờ biển Tibêria; và sự việc như sau: 2Họ cùng có mặt với nhau ở đó, có ông Simon Phêrô, cùng với ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanael, quê ở Cana miền Galilê, cùng những người con ông Dêbêđê, và hai môn đệ khác. 3Simon Phêrô bảo mấy ông kia: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông đồng thanh: “Chúng tôi cùng đi với ông”. Họ đi ra và cùng nhau xuống thuyền; thế nhưng suốt đêm hôm ấy, họ không bắt được gì. 4Khi trời đã sáng, Chúa Giêsu đứng trên bờ, nhưng các môn đệ không biết đó là Chúa. 5Chúa Giêsu nói với họ: “Các con có gì ăn không?“. Họ trả lời: “Không”. 6Ngài bảo họ: “Hãy thả lưới bên phải thuyền, và sẽ được”. Họ thả lưới, và không thể kéo lưới lên nổi bởi vì quá nhiều cá. 7Khi ấy, người môn đệ Chúa Giêsu yêu nói với Phêrô: “Chúa đó!”. Ông Simon Phêrô vừa nghe nói rằng Chúa đó, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, và nhảy xuống nước; 8các môn đệ kia đưa thuyền vào bờ, kéo theo lưới đầy cá, thuyền chỉ còn cách bờ khoảng hai trăm thước tay§. 9Khi lên bờ, họ thấy có lửa than với cá ở trên và cả bánh nữa. 10Chúa Giêsu bảo họ: “Đem lại đây ít cá các con vừa bắt được”. 11Simon Phêrô xuống thuyền và kéo lưới vào bờ, lưới đầy cá lớn, một trăm năm mươi ba con; tuy cá nhiều đến thế nhưng lưới không rách. 12Chúa Giêsu nói với các ông: “Các con hãy đến mà ăn”. Không ai trong số các môn đệ dám hỏi Ngài: “Ngài là ai?”, vì các ông đã biết đó là Chúa. 13Chúa Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho họ, và cá Ngài cũng làm như vậy. 14Đấy là lần thứ ba Chúa Giêsu tỏ mình ra với các môn đệ kể từ khi Ngài sống lại từ cõi chết.
Chúa Giêsu và ông Phêrô.
15Khi họ dùng bữa xong, Chúa Giêsu hỏi Simon Phêrô: “Simon, con của Gioan, con có mến Thầy hơn những người này không?”. Ông trả lời: “Có, lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa”. Chúa Giêsu bảo ông: “Hãy chăm sóc các chiên của Thầy”. 16Ngài lại hỏi ông lần thứ hai: “Simon, con của Gioan, con có mến Thầy không?”. Ông trả lời: “Có, lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa”. Chúa Giêsu bảo ông: “Hãy nuôi nấng đàn cừu của Thầy”. 17Ngài lại hỏi ông lần thứ ba: “Simon, con của Gioan, con có yêu mến Thầy không?”. Phêrô thấy buồn vì Chúa Giêsu hỏi ông đến ba lần: “Con có yêu mến Thầy không?”, và ông thưa: “Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết con yêu mến Chúa”. Chúa Giêsu bảo ông: “Hãy chăm sóc đàn chiên cừu§ của Thầy”. 18Amen, amen, Thầy bảo cho con biết: khi còn trẻ, con tự thắt lưng cho mình và đi đâu tùy ý; thế nhưng khi về già, con sẽ phải giang tay ra để người khác thắt lưng, rồi dẫn con đến nơi con không muốn tới”. 19Chúa Giêsu nói như vậy là để cho biết Phêrô sẽ phải chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Nói những lời ấy xong, Chúa Giêsu bảo ông: “Hãy theo Thầy”.
Người môn đệ Chúa yêu.
20Khi ấy, Phêrô quay lại, thấy người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến theo sau, là người đã nghiêng đầu vào ngực Chúa Giêsu trong bữa ăn tối để hỏi Ngài: “Lạy Chúa, ai là kẻ sẽ nộp Chúa?”. 21Vậy khi thấy môn đệ đó, Phêrô hỏi Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, còn người này thì sao?”. 22Chúa Giêsu nói với ông: “Nếu Thầy muốn người ấy ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con? Phần con, hãy theo Thầy”. 23Vì thế, có tiếng đồn trong anh em rằng môn đệ ấy sẽ không chết. Nhưng thật ra Chúa Giêsu đã không nói với Phêrô rằng người ấy không chết, mà Ngài chỉ nói: “Nếu Thầy muốn người ấy ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con?”.
Kết luận.
24Chính người môn đệ đó làm chứng về những việc ấy và đã viết ra, và chúng tôi biết lời chứng của ông là xác thực. 25Còn rất nhiều những việc khác Chúa Giêsu đã thực hiện; và nếu phải viết ra từng việc một, thì tôi nghĩ rằng cả trần gian này cũng không đủ chỗ để chứa hết các sách viết ra.
=============
§ Ga 21, 8 “Thước tay”: là đơn vị đo lường của dân gian có chiều dài tính từ cùi chỏ đến đầu ngón tay trỏ của người lớn, khoảng 45cm.
§ Ga 21, 15-17 “Cừu”: là tên gọi chung cho một loài động vật có vú, ăn cỏ nhai lại, được thuần hóa và nuôi thành đàn để cho sữa, thịt, da và len. Tuy nhiên, chỉ những con lớn hơn một tuổi mới gọi là cừu, còn những con nhỏ hơn một tuổi thì gọi là chiên. Chữ “đàn chiên cừu” ở đây được dùng với ý nghĩa bao quát cả chiên lớn và chiên nhỏ.
Links:
[1] http://biblehub.com/greek/pneuma_4151.htm