I - BỐN MƯƠI NĂM NHÌN LẠI
Ngày 8-12-2005 vừa qua – ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội – cũng là ngày kỷ niệm biến cố kết thúc Công Đồng Vatican II bốn mươi năm về trước.
Khi nhìn lại bốn thập niên qua, Công Đồng Vatican II đã ảnh hưởng Giáo Hội một cách vừa tích cực vừa tiêu cực. Do đó không tránh khỏi những lệch lạc xảy ra trong lòng Giáo Hội.
Nếu định hướng của Công Đồng Vatican II là “trở về nguồn”, trong thời điểm nầy, thiết tưởng cộng đồng dân Chúa cũng nên “trở về với Công Đồng Vatican II” đề nghiên cứu học hỏi một cách nghiêm túc, ngỏ hầu áp dụng đúng đắn những giáo huấn của Công Đồng trong đời sống Kitô hữu, bao gồm các lãnh vực mục vụ và phụng vụ, tông đồ giáo dân, vấn đề đại kết, tự do tôn giáo, cũng như đối thoại liên tôn và với thế giới.
Theo hãng thông tấn Zenit, vào ngày 22-12-2005, trong khi tiếp kiến các cộng sự viên tại Giáo Triều Roma để bày tỏ những lời chúc mầng Giáng Sinh, Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã cho biết: cuộc khủng hoảng nổi lên trong lòng Giáo Hội tiếp theo sau Công Đồng Vatican II không phải do các văn kiện Công Đồng, nhưng đúng hơn, do sự giải thích các văn kiện đó.
Để đánh dấu bốn mươi năm bế mạc Công Đồng Vatican II, tập san “The B.C. Catholic” thuộc Tổng Giáo Phận Vancouver B.C. Canada, số 45, quyển LXXV, phát hành ngày 12-12-2005, đã dành trọn 12 trang đặc biệt để đưa ra một cái nhìn có tính cách tổng kết, căn cứ trên một số bài viết của nhiều tác giả người Canada, Hoa-Kỳ cũng như vài quốc gia khác, đăng rải rác trên nhiều tạp chí.
Chúng tôi đã sắp xếp và đúc kết lại để cống hiến quý độc giả như là một cái nhìn lại quá khứ Công Đồng Vatican II, tuy không đầy đủ, nhưng cũng đưa ra vài nét chấm phá, ngỏ hầu nhận ra đường hướng của Giáo Hội trong bốn mươi năm qua và còn tiếp diễn trong nhiều thập niên tới.
Ngày nay có một số người kỳ vọng một Công Đồng Vatican III sẽ được mở ra để canh tân Giáo Hội hơn nữa, ngỏ hầu theo kịp đà tiến của thế giới. Tuy nhiên, cha ông chúng ta đã nói: “dục tốc bất đạt”. Giáo Hội trong thời cận đại và hiện đại đã trài qua hai Công Đồng Chung: Công Đồng Vatican I (1869-1870) bị gián đoạn vì chiến tranh ở Âu châu và Công Đồng Vatican II (1962-1965) mà những giáo huấn chưa được thi hành thỏa đáng thì Công Đồng Vatican III, nếu xảy ra chưa đúng thời cơ, có thể bị rơi vào đại khuyết điểm “đốt giai đoạn” và kết quả là “lợi bất cập hại”.
Nhìn chung, các công đồng xảy đến trong suốt chiều dài Giáo Hội là công việc của Chúa Thánh Linh. Nhưng tác động của Ngài thì đột xuất, như Chúa Giêsu đã ngỏ lời với ông Ni-cô-đê-mô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu.” (Gioan 3, 8)
II- HOÀI NIỆM CỦA MỘT VỊ HỒNG Y NGHỊ PHỤ NGƯỜI CANADA
Một người chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi Công Đồng là Đức Hồng Y George Bernard Flahiff, sinh ở thành phố Paris, Ont. Canada. Là một linh mục xuất sắc thuộc Dòng Thánh Basile, đồng thời là giáo sư và bề trên tổng quyền, ngài đã được chọn làm Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Winnipeg Canada năm 1961 và được thăng chức Hồng Y năm 1969 bởi Đức Thánh Cha Phao-lồ VI.
Đức Hồng Y Flahiff là một Nghị Phụ của Công Đồng Vatican II. Ngài đã giữ môt vai trò then chốt trong việc soạn thảo nhiều văn kiện Công Đồng. Ngài đã mời gọi Cộng Đồng Dân Chúa tuyên xưng chân lý của Đức Kitô về đức bác ái và công bình. Ngài đã ngỏ lời tại các Thượng Hội Đồng Giám Mục vào những năm 1967 và 1974 bằng cách nhắc nhở Giáo Hội về sự cam kết của Phúc Âm đối với tâm từ bi, đức công bình, sự bình đẳng và liêm chính đối với hết mọi người.
Đức Hồng Y đã hồi hưu kể từ năm 1982 và qua đời năm 1989. Cha Thomas Rosica - người chịu trách nhiệm tổ chức Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Toronto trước đây và cũng là thành viên của Dòng Thánh Basile – đã ghi lại biến cố xảy ra vào một đêm đông năm 1985 khi ngài và Đức Hồng Y được Đức Giám Mục Anh Giáo hồi hưu là Henry Hill mời tham dự một buổi Kinh Chiều trọng thể tại Tu Viện Thánh Gioan của Anh Giáo ở miền đông Toronto.
Khi họ tới tu viện, Đức Giám Mục Anh giáo và Mẹ Bề Trên cầm đèn cầy thắp sáng đón tiếp, vì đèn điện bị tắt ngúm toàn vùng nên đèn cầy được thay thế! Họ đi lên nhà nguyện và căn phòng sáng rực bởi cả trăm ngọn đèn cầy mà bóng chập chờn đưa qua đưa lại trên các bức tường và trần nhà.
Một bữa ăn thú vị tiếp theo sau đó cũng được rực sáng bởi những ánh đèn cầy! Khi bữa ăn tối chấm dứt, Đức Giám Mục Hill ngỏ lời với các nữ tu về vai trò then chốt của Đức Hồng Y Flahiff tại Công Đồng Vatican II, đặc biệt là ở trong những lãnh vực đại kết và sự đổi mới về đời sống tu trì.
Kế đó Đức Hồng Y đã chia sẻ một vài kỷ niệm về Công Đồng. Ngài cho rằng chính chúng ta thường thích sống trong bóng tối cuộc đời và của lịch sử Giáo Hội: “Chúng ta thường sợ ánh sáng bởi vì ánh sáng sẽ phát hiện chúng ta.” Ngài kết luận: “Ước mong vẻ đẹp của những ánh đèn cầy tối nay sẽ nhắc nhở chúng ta về ánh sáng Chúa Kitô đang xé tan bóng tối …và về lời hứa của Chúa chẳng bao giờ lìa bỏ chúng ta là những Kitô hữu trong suốt cuộc hành trình tiến về thiên quốc.”
Trong cuộc sống âm thầm của ngài, Đức Hồng Y đã đem ra thực hành một cách nghiêm túc những văn kiện Công Đồng, bằng cách đem Lời Chúa vào trong cuộc sống chứng nhân hằng ngày, trao ban một sứ điệp về vui mầng và hy vọng cũng như đối thoại với những người thuộc thời đại chúng ta.
Linh mục P. Wallace Platt, cũng thuộc Dòng Thánh Basile, khi viết về tiểu sử Đức Hồng Y đã nhắc nhở với một tấm lòng biết ơn đối với những bài học mà Đức Hồng Y đã dạy dỗ, không những về “tinh thần Công Đồng Vatican II” mà còn bằng cuộc sống gương mẫu của một vị hoàng tử và đồng thời cũng là một công bộc lớn lao của Giáo Hội.
(Phỏng theo LM Thomas Rosica Toronto Sun)
III - CÔNG ĐỒNG VATICAN II – HÔM QUA VÀ HÔM NAY
Bốn mươi năm sau khi Công Đồng Vatican II bế mạc, sự thay đổi sâu xa đang còn vang động trong lòng Giáo Hội từ những hành lang giáo đô Vatican cho đến những dãy ghế trong những giáo xứ địa phương. Bốn khóa họp của Công Đồng từ 1962 đến 1965 và 16 văn kiện hiện đại hóa về phụng vụ, đổi mới nếp sống linh mục và tu sĩ, đề cao vai trò giáo dân, việc mở ra những cuộc đối thoại với các giáo hội khác và với những người ngoài Kitô giáo, cùng sự nhận diện Giáo Hội như là “dân Chúa” đã hài hòa những vấn nạn và niềm hy vọng của thế giới.
Mặc dù Công Đồng không đưa ra một tín lý mới, nhưng những tín hữu Công giáo sống qua thời đại Công Đồng Vatican II không bao giờ quên được những thay đổi, đôi khi đột xuất, đã xảy ra trong những cộng đoàn Giáo Hội vào thập niên 1960.
Vào ngày 25-01-1959, Đức Thánh Cha Gioan XXIII công bố ý định triệu tập Công Đồng II. Đó là công đồng chung thứ 21 trong lịch sử Giáo Hội.
Trong bốn khóa họp của Công Đồng từ 1962 đến 1965, có 147 biên bản và 2,212 diễn văn cũng như 4,361 bài can thiệp bằng viết.
Vào năm 1962 có 2,908 nghị phụ hợp lệ. Số giám mục tham dự trung bình hằng ngày là 2,200 vị. Có 460 chuyên viên được chính thức bổ nhiệm, gồm 235 linh mục triều, 45 linh mục Dòng Tên, 42 linh mục Dòng Đa-Minh và 15 linh mục Dòng Phan-xi-cô.
Công Đồng có 168 cuộc họp công khai với 10 cuộc họp khoáng đại.
DIỂN TIẾN CÔNG ĐỒNG
1958 - Đức Thánh Cha Gioan XXIII lên ngôi giáo hoàng ngày 28 tháng 10.
1959- Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII công bố kế hoạch triệu tập Công Đồng. Khi ký văn kiện triệu tập, Đức Thánh Cha đã minh định: xã hội tân tiến đang có nhiều tiến bộ về khoa học và kỹ thuật, nhưng không có sự tiến bộ tương ứng về phong hóa. Vì vậy Ngài sẽ triệu tập Công Đồng để Giáo Hội có thể đóng góp một cách tích cực cho một giải pháp đối với những vấn nạn của thời đại tân tiến.
1962 - Đức Thánh Cha Gioan XXIII, khi khai mạc, đã tuyên bố mục tiêu của Công Đồng nhằm tiêu trừ những mầm mống bất hòa và cổ võ hòa bình cùng hợp nhất giữa cộng đồng nhân loại.
KHÓA I kéo dài từ ngày 11 tháng 10 đến ngày 8 tháng 12, bao gồm 36 cuộc họp công khai.
1963 - Đức Thánh Cha Phao-lồ VI lên ngôi giáo hoàng ngày 21 tháng 6.
KHÓA II kéo dài từ ngày 29 tháng 9 đến ngày 4 tháng 12, bao gồm 43 cuộc họp công khai và kết thúc với những văn kiện về phụng vụ và truyền thông xã hội.
1964 - KHÓA III kéo dài từ ngày 14 tháng 9 đến ngày 21 tháng 11 bao gồm 48 cuộc họp công khai và kết thúc với sự công bố Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội và tách rời những sắc lệnh về đại kết với các sắc lệnh về các Giáo Hội Công giáo Đông phương.
1965 - KHÓA IV kéo dài từ ngày 14 tháng 9 đến ngày 8 tháng 12 bao gồm 41 cuộc họp công khai và kết thúc với những sắc lệnh về chức vụ giám mục, đào tạo linh mục, đời sống tu sĩ, mục vụ của linh mục, sinh hoạt truyền giáo và vai trò giáo dân. Ngoài ra còn có những tuyên cáo về giáo dục Kitô giáo, tự do tôn giáo và liên lạc với các tôn giáo ngoài Kitô giáo; Hiến Chế Mục vụ của Giáo Hội đối với Thế Giới Tân Tiến và Hiến Chế Tín Lý về Mạc Khải của Chúa.
NHỮNG CẢI TIẾN CỦA CÔNG ĐỒNG
Trước hết bàn thờ được xoay lại để linh mục đối diện với giáo dân. Thánh Lễ bằng La ngữ được thay thế bằng Thánh Lễ dùng ngôn ngữ bản xứ. Việc thi hành các bí tích khác được cập nhật hóa và đơn giản hóa. Những nam nữ tu sĩ chấp nhận một kiểu tu phục tân thời hơn.
Không phải mọi thay đổi đều xảy ra tức thời, tuy nhiên các vị lãnh đạo Giáo Hội đã bắt đầu một tiến trình lâu dài và đôi khi có phần xung khắc về việc duyệt lại hầu hết mọi lãnh vực thuộc đời sống mục vụ, từ việc dạy giáo lý cho đến tông đồ giáo dân.
Cha Dario Vitali giảng dạy môn lịch sử Giáo Hội ở Đại Học Giáo Hoàng tại Vatican đã nói: “Công Đồng biểu hiệu một cuộc cách mạng của Copernic đối với Giáo Hội đang tự thách đố mình bằng cách tự vấn làm thế nào Giáo Hội có thể nối lại cuộc đối thoại với thế giới tân tiến. Qua Công Đồng, Giáo Hội tiến lại gần hơn với những người nam cũng như người nữ hiện đại và làm cho Phúc Âm có ý nghĩa hơn đối với họ. Nếu không có Công Đồng Vatican II, tôi thiết nghĩ Giáo Hội ngày nay có thể trở thành một nhóm nhỏ, co cụm lại với những lễ nghi mà não trạng tân tiến hiện đại không thể hiểu được.”
Không phải mọi viên chức trong Giáo Hội nhìn xem Công Đồng một cách tích cực. Một số tín hữu Công giáo còn luyến tiếc việc phụng vụ của thời xa xưa và đôi khi một số viên chức Giáo Hội, kể cả nhiều vị ở tại giáo triều Roma, đã công kích cách thức mà người ta am tường và thực thi những huấn thị của Công Đồng. Trong nhiều trường hợp, cuộc tranh luận phản ảnh những vấn đề đã tranh cãi sôi nổi ngay trong thời Công Đồng.
Ngày 8 tháng 12 năm nay (2005) kỷ niệm ngày bế mạc Công Đồng vào năm 1965, và mùa thu năm nay, thành phố Roma và giáo đô Vatican đã tiếp đón nhiều cuộc gặp gỡ để duyệt lại việc Giáo Hội đã dấn thân như thế nào trong bốn thập niên qua.
Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã tham dự Công Đồng với tư cách là một chuyên viên thần học, đã nhắc tới tầm mức quan trọng của những văn kiện Công Đồng. Mặc dù Ngài có công kích một vài sự đổi thay trong thời hậu Công Đồng, Đức Thánh Cha đã công bố rõ ràng là Vatican II sẽ là “kim chỉ nam” đối với triều đại giáo hoàng của Ngài. Đã hẵn kim chỉ nam định rõ phương hướng, vì vậy tùy vị tân Giáo Hoàng sẽ cung cấp chi tiết.
Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh việc kiện toàn Công Đồng là một công tác đang triển khai trong lòng Giáo Hội, chứ không chỉ là một biến cố đã xảy ra cách đây 40 năm. Mục tiêu chắc chắn là đừng làm cho Công Đồng Vatican II trở thành một sự kiện lịch sử xa xưa đối với những thế hệ trẻ thuộc tầng lớp giáo hữu ngày nay.
Alberto Melloni, một sử gia về Giáo Hội học trong thời đại Công Đồng Vatican II đã nói: “Những tín hữu Công giáo trẻ trung hơn có thể không quan tâm đến Công Đồng trên bình diện trí thức, nhưng họ tiếp tục chứng nghiệm những thành quả của Công Đồng. Nhờ Công Đồng, giới trẻ được chỉ bảo cho biết thế giới không phải là mối đe dọa đối với đời sống Kitô hữu, nhưng là một cơ hội để loan báo Tin Mừng.”
Vatican II đôi khi được mô tả như một cuộc cách mạng, nhưng Công Đồng diễn ra không phải hoàn toàn bất ngờ. Đã có 20 công đồng trước kia qua suốt chiều dài lịch sử Giáo Hội, kể cả Công Đồng Vatican I vào những năm 1869-1870. Vatican I xác định tín điều giáo hoàng bất khả ngộ và tính ưu việt thuộc quyền tài phán của giáo hoàng, nhưng công đồng nầy đã đình chỉ khi chiến tranh xảy ra ở Âu châu và không bao giờ bắt đầu trở lại.
Sự hăng say về thần học vào giữa thế kỷ 20 đã giúp xây đắp nền móng cho Công Đồng Vatican II. Những nhà thần học đi tiên phong như linh mục Dòng Đa-Minh Yves Congar và các linh mục Dòng Tên như John Courtney Murray và Henri de Lubac đã cố gắng bắt nhịp cầu giữa những chân lý thời xa xưa của Kitô giáo và thế giới hiện đại. Cả ba vị đều im hơi lặng tiếng theo một cung cách nào đó vào thập niên 1950, nhưng đã xuất hiện và trở thành những tiếng nói quan trọng của Công Đồng.
Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã làm cho hầu hết mọi người sửng sốt khi công bố Ngài sẽ triệu tập Công Đồng, chỉ ba tháng sau khi được bầu làm giáo hoàng. Ngài đề cập đến nhu cầu phải cập nhựt hóa Giáo Hội và cổ võ sự hiệp nhất Kitô giáo. Ngài cho biết, trên tất cả, Ngài muốn chứng tỏ cho thế giới tân tiến là Giáo Hội đã thay đổi và được tăng cường trên bình diện trí thức.
Đức Thánh Cha Gioan XXIII cho biết thế giới được đánh dấu bởi sự nghèo nàn về tâm linh và cần Giáo Hội tiếp sức, nhưng về sau Ngài nói rằng Giáo Hội muốn cống hiến cho thế giới tân tiến “liều thuốc của lòng từ bi” chứ không phải sự kết án nghiêm khắc.
Sự chuẩn bị cho Công Đồng gần ba năm và Đức Thánh Cha Gioan XXIII mặc dù được chẩn đoán bị ung thư khi công Đồng khai mạc, đã chủ tọa khóa I vào mùa thu 1962 là khóa đầu tiên trong tất cả bốn khóa đều xảy ra cũng vào mùa thu. Sự mời gọi những viên chức thuộc Tin Lành, Chính Thống và những thành phần khác không thuộc Công giáo tham dự Công Đồng đã làm cho Vatican II trở thành một biến cố lịch sử.
Đức Giáo Hoàng Phaolồ VI đã hướng dẫn để công tác của Công Đồng được hoàn tất, bằng cách chủ tọa ba khóa họp kia và điều hướng sự liên tục của những công tác quan trọng thuộc các lãnh vực phụng vụ, đại kết, đời sống tu sĩ và Phúc Âm hóa.
Khoảng 2,000 đến 2,500 giám mục đã tham dự mỗi khóa họp của Công Đồng và các tham dự viên cho biết những cuộc thảo luận được xếp loại từ phát biểu tự do với lời lẽ ôn tồn cho tới cả việc tranh cãi không phải là không có. Một thí dụ khi bảng dự thảo đầu tiên của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (tức “Lumen Gentium” - Ánh Sáng Muôn Dân) được trình bày, đã bị công kích thẳng thắn là mang tính chất khải hoàn ca, có tính cách giáo sĩ và nhằm hợp pháp hóa. Văn kiện đã được chấp thuận sau hai năm với nhiều tu chính.
Ngay từ đầu, các giám mục xác nhận rằng vai trò của họ không chỉ cập nhật hóa những việc thực hành đạo giáo mà còn là một tiến trình “trở về nguồn”, hay trở về với nguồn cội Đức Tin.
Ở giữa các tham dự vên có một cảm thức chung là họ thực sự đang làm nên lịch sử, như Đức Giám Mục Frank Fernando ở Chilaw, Sri Lanka, đã phát biểu. Ngài là một trong số ít những người còn hăng say hoạt động trong những giám mục đã tham dự ít nhất một khóa họp của Công Đồng. Ngài nói: “Cuộc thào luận rất có phương pháp, với nhiều trao đổi quan điểm. Văn kiện được trình đi trình lại với nhiều tu chính mà các giám mục đã nghiên cứu. Do đó những văn kiện của Công Đồng được gọt dũa, chứ không phải là những tài liệu được trình bày hôm nay và hôm sau được thông qua.”
Cuối cùng, Công Đồng đã ban bố bốn hiến chế về phụng vụ, bản chất và cơ cấu Giáo Hội, Giáo Hội trong thế giới hiện đại và mặc khải của Chúa. Công Đồng cũng ban hành chín sắc lệnh về Giáo Hội và truyền thông, đại kết, các Giáo Hội Công giáo Đông phương, các giám mục, sự đào tạo linh mục, đời sống tu sĩ, giáo dân và hoạt động thừa sai. Công đồng cũng đã ban bố ba tuyên ngôn về các tôn giáo không thuộc Kitô giáo, nền giáo dục Kitô giáo và tự do tôn giáo.
Phần đông các chuyên viên đã liệt kê những thành quả lớn lao của Công Đồng như là một đường hướng giúp hiểu rõ Giáo Hội như là “dân Chúa” và không chỉ là một cơ cấu cấp bực và như là “bí tích” cho thế giới với một sứ vụ tích cực trong mọi lãnh vực của xã hội nhân sinh.
Hiến chế “Ánh Sáng Muôn Dân” đã trình bày Giáo Hội như là một huyền nhiệm và một cộng đoàn các tín hữu đã được nhận lãnh Bí Tích Thánh Tẩy đang tiến tới quê trời như là một nhiệm thể thánh thiện, tuy nhiên bất toàn trong khi đang ở nơi trần thế.
Văn kiện đã nói rõ là mặc dù tổ chức theo đẳng cấp, Giáo Hội trong tư cách một cộng đồng là nhiệm thể sống động mà những thành phần được mời gọi nên thánh và mỗi một thành viên giữ một vai trò riêng, có những đặc quyền và trách nhiệm riêng.
Hiến Chế về Mục Vụ Giáo Hội trong Thế Giới Tân Tiến (“Vui Mừng và Hy Vọng”) được viết ra cho những độc giả trung bình hơn và được chấp thuận vào năm 1965, trong cuộc bỏ phiếu cuối cùng của Công Đồng.
Đức Giám Mục Fernando nhớ lại thời gian đó rất rõ và ngài cho biết Hiến Chế “Vui Mầng và Hy Vọng” là văn kiện quan trọng hơn hết mà Công Đồng đã ban bố. Ngài còn nói thêm: nhiều giám mục nghĩ rằng những văn kiện đầu tiên của Công Đồng nhắm tới những chuyên viên và mong muốn văn kiện sau cùng nầy chuyển tải một sứ điệp cho toàn thế giới.
“Vui Mầng và Hy Vọng” kêu gọi Giáo Hội dấn thân đối thoại với xã hội hiện đại và những vấn nạn của xã hội đó, mang giáo huấn và những giá trị luân lý của Giáo Hội cho một thế giới quá tả tơi bởi hận thù, chiến tranh và bất công. Văn kiện nhận chân khoa học và văn hóa có những điều để ban bố cho Giáo Hội, nhưng văn kiện cũng xác định Giáo Hội có sứ mệnh thánh hóa thế giới chung quanh.
Trong những năm sau khi Công Đồng bế mạc, sự đổi mới mà Công Đồng phác họa đã được tinh luyện và soạn thành những điều luật bằng một số sắc lệnh, quy tắc và những thay đổi trong giáo luật. Giáo Hội đã chứng kiến rất nhiều đổi thay:
- Quyển “Sách Lễ Roma mới” được ấn hành năm 1970 với một chu kỳ mới gồm những bài đọc nhằm cống hiến một sự chọn lựa phong phú những đoạn Thánh Kinh thích ứng. Năm phụng vụ được đơn giản hóa. Những nghi thức bí tích được duyệt lại nhằm nhấn mạnh đến những khía cạnh có tính cách cộng đồng trong việc hiến tế. Nghi Thức Khai Tâm đối với người trưởng thành được phục hồi và cải tiến. Với những thay đổi đang tiến hành, sự tham gia phụng vụ cách tích cực đã gia tăng một cách đột ngột trong nhiều cộng đoàn địa phương của Giáo Hội.
- “Mục vụ giáo dân” được gia tăng bội phần. Những giáo dân đọc sách thánh và làm thừa tác viên Thánh Thể xuất hiện trong các Thánh Lễ. Giáo dân được đại diện trong các hội đồng giáo xứ và những ủy ban giáo phận. Những nam nữ giáo dân mà nhiều người có văn bằng thần học đã thay thế các giáo sĩ trong nhiều chức vụ điều hành Giáo Hội.
- Bàng bạc trong Giáo Hội, người ta chú tâm đổi mới việc “học hỏi Thánh Kinh”, phụng vụ và nền linh đạo có tính cách riêng tư.
- Các “Giáo Hội Công giáo Đông phương” được khuyến khích trở về với những truyền thống riêng của họ, chấm dứt một thời kỳ La ngữ hóa và mở ra một sự đánh giá mới về tính cách đa dạng trong lòng Giáo Hội hoàn vũ.
- Vấn đề “đại kết” được phong phú hóa qua những cuộc đối thoại chính thức giữa các viên chức Công giáo và các giáo hội Kitô giáo khác cũng như trong các buổi cầu nguyện hay trao đổi thân mật ở các cấp địa phương.
- Sau khi Công Đồng công nhận có thể có sự cứu rỗi đối với những người ngoài Kitô giáo, Giáo Hội cũng bắt đầu “đối thoại với các tôn giáo khác”.
- “Đời sống tu trì” cũng thay đổi một cách đột xuất, như các hội dòng chấp nhận những qui tắc và viết lại hiến pháp, có một cái nhìn mới liên quan đến quyền bính, cộng đoàn và căn tính.
- Công Đồng tái lập chức “phó tế vĩnh viễn” như một thánh chức và cho phép các người nam lập gia đình được tấn phong phó tế vĩnh viễn. Hiện nay có hơn 19,000 phó tế vĩnh viễn trên thế giới.
- Công Đồng dạy rằng Đức Giáo Hoàng cùng với các giám mục làm thành một cơ cấu chung đưa tới việc thành lập những hội đồng giám mục. “Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới” được thành lập để gặp gỡ thường xuyên và cố vấn cho Đức Thánh Cha.
- Nền “thần học” được phục hoạt, nhất là nền thần học luân lý, càng ngày càng tập trung vào nguồn gốc Thánh kinh và lương tâm cá nhân, hơn là luật lệ và quyền bính Giáo Hội.
- Công Đồng nhấn mạnh sự liên đới với nhân loại thay vì phân cách khỏi thế giới trần tục và điều đó dẫn tới sự nở rộ những “sinh hoạt bác ái xã hội”. Những cấp lãnh đạo Giáo Hội thường xuyên nhắc nhở đến sự đồng nhất hóa của Giáo Hội với những người nghèo và người đau khổ và Đức Giáo Hoàng trở thành người biện hộ cho nhân quyền mạnh mẽ nhất.
- Cùng một trật, Giáo Hội trải qua một số “diễn biến đầy ưu tư”, như việc giảm sút thê thảm về ơn gọi và sự gia tăng số lượng đối với nhiều linh mục và tu sĩ xin hoàn tục. Số người tham dự Thánh Lễ giảm xuống ở nhiều nơi, nhiều người không đi xưng tội và sự bất đồng quan điểm đối với một số giáo huấn như ngừa thai đang lan tràn.
- Tất cả những điều đó đã làm hâm nóng trở lại cuộc tranh luận qua bốn thập niên nên cần thiết “phải đọc lại một cách thích đáng” và nhất là việc “thực thi Công Đồng”. Đức Thánh Cha Bênêditô XVI trước đây đôi khi đã lên tiếng chỉ trích trong các cuộc tranh luận đó, nhưng Ngài luôn phân biệt rõ rệt giữa Công Đồng và việc thực thi những giáo huấn của Công Đồng. Ngài đã cho biết điều làm thương tổn Giáo Hội trong thập niên tiếp theo sau Công Đồng Vatican II “không phải Công Đồng nhưng là sự chối từ chấp nhận Công Đồng.”
(Phỏng theo John Thavis - Vatican City - CNS)
IV - MƯỜI SÁU VĂN KIỆN ĐƯỢC CÔNG ĐỒNG VATICAN II CHUẨN NHẬN
Sau dây là 16 văn kiện được Công Đồng Vatican II chấp thuận, cùng với ngày tháng và năm được phổ biến và toát lược. Tên gọi văn kiện bằng La ngữ được để trong ngoặc đơn. Thông thường đó là tên lấy từ giòng đầu tiên của chính văn bản.
1/- Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh (Sacrosanctum Concilium) ngày 4-12-1963. Công Đồng truyền lệnh duyệt lại một cách bao quát về phụng vụ để dân chúng có một ý thức rõ rệt hơn về sự tham dự tích cực của chính họ vào Thánh Lễ và những nghi thức khác.
2/- Sắc Lệnh về những Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội (Inter Mirifica) ngày 4-12-1963. Công Đồng kêu gọi những thành phần Giáo Hội, nhất là giáo dân, truyền đạt “tinh thần nhân bản và Kitô giáo” qua báo chí, sách vở, phim ảnh, truyền thanh và truyền hình.
3/- Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen gentium) ngày 21-11-1964. Văn kiện trình bày Giáo Hội như một nhiệm tích, một sự hiệp thông giữa những tín hữu đã được thanh tẩy, như là dân Chúa, tức nhiệm thể Chúa Kitô và như lữ khách đang trên đường hưóng tới sự hoàn thiện viên mãn trên trời nhưng được ghi dấu ở dưới đất bằng “sự thánh thiện thực tiển, cho dù khiếm khuyết.”
4/- Sắc Lệnh về Đại Kết (Unitatis Redintegratio) ngày 21-11-1964, theo đó vấn đề Đại Kết là điều mỗi người quan tâm và sự đại kết chân thật liên hệ đến một sự đổi mới liên tục có tính cách cá nhân và cơ chế.
5/- Sắc Lệnh về các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương (Orientalium Ecclesiarum) ngày 21-11-1964 tuyên bố sự đa dạng trong Giáo Hội không làm tổn thương sự duy nhất tính của Giáo Hội nên các Giáo Hội Công Giáo Đông phương nên trở về với những truyền thống của mình.
6/- Sắc Lệnh về Mục Vụ trong Giáo Hội (Christus Dominus) ngày 28-10-1965 tuyên bố mỗi giám mục có toàn quyền bình thường trong địa phận của mình và trình bày tín lý Kitô giáo theo những cách thức thích ứng với thời đại. Sắc Lệnh đề xuất những hội nghị các giám mục để thực thi việc cùng chung điều hành mục vụ.
7/- Sắc Lệnh về Việc Đào Tạo Linh Mục (Optatam Totius) ngày 28-10-1965 khuyến khích các chủng viện phải chú trọng việc huấn luyện thuộc linh, trí tuệ và kỷ cương có tính cách thiết yếu để chuẩn bị những sinh viên chọn ơn gọi linh mục trờ thành những chủ chăn tốt.
8/- Sắc lệnh về Cải Tổ Thích Nghi Đời Sống Tu Trì (Perfectae Caritatis) ngày 28-10-1965 quy định những nguyên tắc chỉ đạo để đổi mới có tính cách cá nhân và cơ cấu đối với đời sống các nam nữ tu sĩ và linh mục thuộc các hội dòng.
9/- Tuyên Ngôn của Giáo Hội đối với những Tôn Giáo Ngoài Kitô Giáo (Nostra Aetate) ngày 28-10-1965 công bố Giáo Hội Công Giáo không bác khước những gì chân thật và thánh thiện trong các tôn giáo không phải Kitô giáo, kêu gọi chấm dứt phong trào bài Do-Thái và mọi hình thức kỳ thị căn cứ trên chủng tộc, màu da, tôn giáo hay điều kiện sống vì không thuộc về tâm thức của Đức Kitô.
10/- Tuyên Ngôn về Nền Giáo Dục Kitô Giáo (Gravissimum Educationis) ngày 28-10-1965 xác quyết quyền của cha mẹ chọn lựa kiểu mẫu giáo dục mà họ mong muốn cho con cái mình, nhấn mạnh tầm mức quan trọng của các trường Công giáo và bênh vực quyền thanh tra trong các trường cao đẳng và đại học Công giáo.
11/- Hiến Chế Tín Lý về Mạc Khải của Chúa (Dei Verbum) ngày 18-11-1965 công bố Giáo Hội tin vào Thánh Kinh và Thánh Truyền như là một kho tàng chứa đựng Lời Chúa và khích lệ sử dụng việc nghiên cứu có tính cách khoa học tân tiến trong vấn đề học hỏi Thánh Kinh.
12/- Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân (Apostolicam Actuositatem) ngày 18-11-1965 tuyên bố giáo dân nên gây ảnh hưởng đối với những người lân cận bằng những giáo huấn của Chúa Kitô.
13/- Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo (Dignitatis Humanae) ngày 7-12-1965 tuyên bố tự do tôn giáo là một quyền nằm trong nhân phẩm mỗi người và không ai bị ép buộc hành động theo một cách thức ngược lại với chính niềm tin của họ.
14/- Sắc Lệnh về Thánh Chức và Đời Sống Linh Mục (Presbyterorum Ordinis) ngày 7-12-1965 công bố bổn phận trước tiên của linh mục là loan báo Tin Mừng cho mọi người, chấp thuận khuyến khích đời sống độc thân như là một tặng phẩm và khuyên bảo nên có một bổng lộc tương xứng đối với các linh mục.
15/- Sắc Lệnh về Hoạt Động Tông Đồ của Giáo Hội (Ad Gentes) ngày 7-12-1965 công bố hoạt động thừa sai nên hỗ trợ sự an sinh của dân chúng về mặt xã hội và kinh tế và không được bắt buộc bất cứ ai chấp nhận đức tin.
16/- Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Hiện Đại (Gaudium et Spes) ngày 7-12-1965 công bố Giáo Hội nên đối thoại với những người vô thần, không ngừng vận động và cổ võ hòa bình, chiến tranh nguyên tử là điều phải cố tránh bằng mọi giá và sự giúp đỡ những quốc gia chậm tiến là việc làm cấp bách. Sắc Lệnh cũng công bố hôn nhân không chỉ truyền sinh mà thôi và khoa học phải khẩn cấp tìm ra những phương tiện điều hòa sinh sản có thể chấp nhận được.
(Vatican City –CNS)
V - CÔNG ĐỒNG CHUNG VÀ THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
Một sự tập hợp toàn thể các giám mục của Giáo Hội Công Giáo do Đức Giáo Hoàng mời gọi để thảo luận kỹ lưỡng những đường hướng bảo vệ và cổ võ những giáo huấn và kỷ luật của Giáo Hội được gọi là Công Đồng Chung. Như đã trình bày, Công Đồng Vatican II nhóm họp trong 4 khóa từ năm 1962 đến năm 1965 là công đồng chung thứ 21. Công đồng chung thứ 20 là công Đồng Vatican I được nhóm họp từ 1869-1870.
Ngoài sự kiện Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới được nhóm họp thường xuyên hơn các công đồng chung, sự khác biệt cốt yếu giữa các công đồng chung và thưọng hội đồng giám mục là mức độ tham gia và quyền hạn liên kết.
Hết thảy các giám mục Công giáo, kể cả những giám mục phụ tá, có quyền tham dự và bỏ phiếu tại một Công Đồng Chung. Tại các Thượng Hội Đồng Giám Mục, các giám mục hoặc được chọn để tham dự hội nghị các giám mục hoặc được Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm.
Được sự chấp thuận của Đức Giáo Hoàng, các quyết định của một Công Đồng Chung thì ràng buộc đối với Giáo Hội, điều đó khiến cho Công Đồng Chung là thẩm quyền giáo huấn tối cao của Giáo Hội. Những thành viên của các Thượng Hội Đồng Giám Mục, trái lại, chỉ đề nghị với Đức Giáo Hoàng một cách thân tín mà thôi.
Sự khác biệt rõ rệt được mô tả trong Bộ Giáo Luật năm 1983:
- “Giám mục đoàn thực thi quyền hạn trên Giáo Hội hoàn vũ một các long trọng trong một Công Đồng Chung.”
- “Thượng Hội Đồng Giám Mục là một nhóm giám mục được chọn lựa từ những miền khác nhau trên thế giới và gặp gỡ nhau vào những thời gian ấn định để cổ võ một sự hiệp nhất mật thiết giữa vị Giáo Chủ Roma và các giám mục để hỗ trợ vị Giáo Chủ Roma bằng ý kiến của họ hầu bảo vệ và tăng cường đức tin cùng phong hóa và duy trì cùng củng cố kỷ luật giáo sĩ và xem xét những vấn nạn liên hệ đến sinh hoạt của Giáo Hội giữa trần thế.”
Sự tập hợp các Thánh Tông Đồ mô tả trong chương 15 Sách Công Vụ Tông Đồ được xem như tiền lệ cho các công đồng chung: các Tông đồ gặp nhau để thảo luận vào một thời điểm có sự căng thẳng gia tăng về vấn đề các người không phải Do-Thái trở lại Kitô giáo có bị bắt buộc phải theo những luật lệ về chế độ ăn uống của Do-Thái giáo không.
Những công đồng chung ban đầu như Nicaea, Constantinople, Ephesus và Chalcedon được triệu tập để đương đầu với những nhóm ly giáo đe dọa xé nát Kitô giáo.
Bảy công đồng đầu tiên được các giáo hội Chính Thống cũng như Công giáo công nhận, đã minh định những giáo huấn căn bản của Đức Tin Kitô giáo.
Nhiều công đồng trong số 14 công đồng tiếp theo đã diễn ra từ khi có sự rạn nứt giữa các Kitô hữu Đông phương và Tây phương đã cố gắng tìm phương cách hàn gắn sự chia cách trong nội bộ Kitô giáo, và các công đồng đó cũng còn đi xa hơn nữa trong việc làm sáng tỏ những giáo huấn về đức tin và phong hóa cùng ra lệnh cải tổ phụng vụ và cơ cấu Giáo Hội.
VI -ĐỨC GIÁO HOÀNG PHAOLỒ VI ĐIỀU HƯỚNG VÀ KIỆN TOÀN CÔNG ĐỒNG VATICAN II
Khi Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII băng hà vào tháng 6 năm 1963, Công Đồng Vatican II vừa mới bắt đầu. Tám chục vị Hồng Y đã tập họp bầu vị giáo hoàng kế tục mà vị đó có thể đình chỉ hay hủy bỏ công đồng.
Thay vào đó, các ngài đã bầu Đức Giáo Hoàng Phao-lồ VI là vị đã tức thời tuyên bố ý định muốn thấy Công Đồng tiếp tục và tái xác nhận mục tiêu của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII là muốn làm cho Công Đồng trở thành khí cụ đổi mới cho Giáo Hội.
Khóa họp đầu tiên của Công Đồng - từ ngày 11 tháng 10 đến ngày 8 tháng 12 năm 1962 – đã không đưa ra một văn kiện quan trọng nào. Hôm trước ngày chấm dứt khóa họp, các vị giám mục đã bỏ phiếu phần đầu của Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh và đã chấp thuận với một tỉ số lớn lao về những nguyên tắc cải tổ phụng vụ bao gồm việc thờ phượng có thể dùng ngôn ngữ địa phương và những nghi thức phụng vụ được thích nghi với những nền văn hóa địa phương.
Khi họp lại trong ba khóa kế tiếp vào các mùa thu dưới triều đại của Đức Giáo Hoàng Phao-lồ VI, Công Đồng đã đưa ra 16 hiến chế, những sắc lệnh hay tuyên ngôn mà nhiều văn bản cho thấy sự dấn thân thâm sâu của Giáo Hội.
Linh mục Joseph A. Komonchak đã nói: “Đức Thánh Cha Phao-lồ VI có một ý thức tổ chức công tác khả quan hơn Đức Thánh Cha Gioan XXIII trước kia.” Cha là một thần học gia thuộc Đại Học Công Giáo Hoa Kỳ và là người đảm trách tài liệu về Lịch sử Vatican II gồm 5 quyển - một tập nghiên cứu chung quyết của một nhóm học giả quốc tế.
Trong một cuộc phỏng vấn, cha Komonchak cho biết sau khóa I của Công Đồng, Đức Hồng Y Giovanni Battista Montini là vị sẽ trở thành Giáo Hoàng Phao-lồ sau nầy, trong một cuộc nói chuyện, Ngài đã phát biểu là Công Đồng cần một trọng điểm hợp nhất.
Cha Komonchak còn nói thêm: “Trong diễn văn khai mạc Khóa II và đó là lần đầu tiên Ngài chủ tọa, Ngài đã làm cho Giáo Hội trở thành chủ đề chính của Công Đồng, nghĩa là Giáo Hội phải tự nhận thức về chính mình, Giáo Hội nghĩ về mình như thế nào và Giáo Hội nghĩ về tương quan của mình với thế giới ra sao?”
Và cha cũng cho biết trong “Ecclesiam Suam” (Giáo Hội của Chúa) – Thông Điệp đầu tiên của Ngài - Đức Thánh Cha Phao-lồ VI đã mạnh mẽ đề xướng bằng những lời lẽ hùng hồn và mỹ lệ về khái niệm đối thoại. Đó là một trong những đặc điểm chính của những tài liệu Công Đồng về đối thoại với những tín hữu Kitô giáo khác, với những tín đồ các tôn giáo khác, với thế giới tân tiến…
Những người lớn tuổi đều nhớ lại rất ít có sự đối thoại diễn ra giữa các tín hữu Công giáo và không Công giáo, nhất là ở Bắc Mỹ. Lúc bấy giờ vấn đề đại kết thường được Roma kiểm soát rất chặt chẽ. Riêng đối với việc đối thoại với thế gới tân tiến, thái độ nổi bật là luôn luôn ngờ vực và kết án.
Đức Giáo Hoàng Phao-lồ VI, theo lời cha Komonchak, “đã bắt đầu từ từ nắm vai trò lãnh đạo nhiều hơn cho nên khi một thiểu số khư khư bày tỏ sự dè dặt đối với giáo lý về giám mục đoàn trong chương 3 của “Ánh Sáng Muôn Dân”, Ngài đã ra lệnh thêm vào một lời chú thích có tính cách chuẩn bị và làm nền tảng mà trên đó các giám mục sẽ bỏ phiếu về chương đó. Ngài cũng can thiệp cho đến phần kết thúc liên quan tới Sắc Lệnh về Đại Kết.”
Những hành động đó làm xoa dịu một thiểu số những viên chức cao cấp thuộc Giáo Triều Roma, tuy ít ỏi nhưng có quyền lực điều khiển, vì họ nghĩ rằng Công Đồng đã đi quá xa đối với một số vấn đề”
Cha Komonchak nói: “Tôi thiết tưởng Ngài cương quyết không để cho Công Đồng được nối tiếp bằng một cuộc ly giáo và Ngài không muốn một thiểu số - trong trường hợp nầy là “thiểu số bảo thủ” - có thể than phiền về cung cách mà họ đã bị đối xử tại Công Đồng Vatican II như cách thức mà “thiểu số tự do” tại Công Đồng Vatican I đã than phiền. Vì vậy Ngài đã làm bất cứ điều gì hầu có thể đạt tới một sự đồng thuận càng nhiều càng tốt đối với những vấn đề gây nhiều tranh luận.”
Cha Komonchak cho biết Đức Giáo Hoàng Phao-lồ VI cũng đã can thiệp vào những giai đoạn soạn thảo của Công Đồng đối với Hiến Chế Tín Lý về Mạc Khải của Chúa. Linh mục thần học gia đó nói: “Ngài nhấn mạnh là họ đã đưa ra một văn bản về sự tương quan giữa Thánh Kinh và Thánh Truyền và một văn bản khác về sử tính của Thánh Kinh mà Ngài nhận thấy văn bản thứ nhất xem ra tối nghĩa. Ngài muốn đưa ra một công thức có thể gợi lên một vấn đề chưa được giải quyết là Thánh Truyền chứa đựng những chân lý mà Thánh Kinh không có, và điều đó đã thể hiện trong văn bản cuối cùng.”
Cha Komonchak còn nói: “Một vấn nạn khác liên quan đến vấn đề linh ứng. Đức Thánh Cha muốn điều đó được diễn tả như thế nào để người ta có thể xác nhận rằng toàn bộ Thánh Kinh được linh ứng, và điều đó được đọc thấy trong một văn bản theo đó Chúa đã ban hành vì phần rổi chúng ta. Nói cách khác, làm thế nào khi người ta đọc văn bản đó, người ta đọc những gì được đề cập tới phần rổi chúng ta, chứ không phải những điều nói về miền Cận Đông xưa kia và về thực vật học.”
Khi thực thi Công Đồng trong thời gian 13 năm, kể từ khi bế mạc cho đến lúc Ngài băng hà vào năm 1978, theo cha Komonchak, Đức Thánh Cha Phao-lồ VI “đã bị công kích nặng nề từ cánh tả cũng như cánh hữu và đối với tôi điều đó có nghĩa là Ngài đã hành xử đúng.”
Cha Komonchak nói thêm: “Dĩ nhiên Ngài không hoàn toàn hài lòng với hết mọi điều xảy ra thời hậu Công Đồng; nhưng ai có thể hài lòng đây? Tôi thiết tưởng Ngài rất đau buồn bởi những biểu hiện của một thứ chống đối và cả cách mạng nữa, nhưng tôi thiết nghĩ Ngài đã hoàn thành một công việc tốt. Ngài vẫn thực thi Hiến Chế Phụng Vụ và trong thực tế, Ngài đã cho phép những sự cải cách còn đi xa hơn những gì mà chính Công Đồng đã đề nghị. Tôi thiết tưởng Ngài cố thực hiện sự đối thoại với với những Kitô hữu khác và Ngài đã thiết lập một văn phòng đối thoại với những tín hữu không phải Kitô hữu và những người không tín ngưỡng và Ngài đã viết đôi văn kiện quan trọng về xã hội. Ngài đã chủ tọa Thượng Hội Đồng Giám Mục một cách cởi mở hơn dưới triều đại của vị giáo hoàng kế tiếp Ngài.”
Cha Komonchak cho biết Thông Điệp “Humanae Vitae” (Sự Sống Con Người) vào năm 1968 mà theo đó Đức Thánh Cha Phao-lồ VI tái xác quyết giáo huấn truyền thống của Giáo Hội là việc sử dụng phương pháp ngừa thai nhân tạo trong những quan hệ vợ chồng tự bản chất vốn sai lầm là “một thánh giá nặng nề đối với Ngài.”
Theo cha Komonchak: “Một phần của vấn đề là chưa đầy ba năm sau khi Công Đồng bế mạc, việc thi hành quyền giáo huấn (magisterium) tối cao rõ rệt của hội đồng giám mục theo Công Đồng đã đột ngột được thay thế bới sự thi hành độc nhất về quyền đó bởi Đức Giáo Hoàng. Và phản ứng đối với điều đó đã khiến Đức Giáo Hoàng buồn phiền cho đến đỗi Ngài không bao giờ ban bố một thông điệp nào khác nữa.”
Trên bình diện đại kết, Đức Thánh Cha Phao-lồ VI đã có những “cử chỉ ngoạn mục”, chẳng hạn Ngài ôm hôn Đức Giáo Chủ Chính Thống Đại Kết là Athenagoras ở Constantinople nhân dịp Ngài đi thăm viếng Thánh Địa năm 1964. Ngài cũng đã khai mạc nhiều cuộc đối thoại đại kết có tính cách song phương và đa phương còn tiếp tục cho đến ngày nay.
(Phỏng theo Jerry Filteau – Washington – CNS)
VII - NHỮNG THAY ĐỔI PHỤNG VỤ
Ngày 29/11/1964 - Chúa nhật đầu tiên Mùa Vọng - bắt đầu một loạt những thay đổi rộng lớn trong việc dâng Thánh Lễ.
Thay vì xoay lưng lại phía dân chúng, linh mục đối diện với giáo dân và không còn việc “xem Lễ” hay “làm Lễ” mà là “dâng Lễ” và “tham dự Thánh Lễ”. Ngoài ra Thánh Lễ không phải hoàn toàn bằng La-ngữ, nhưng một phần trong Thánh Lễ bằng tiếng bản xứ.
Đó chỉ là bước khởi đầu đưa tới việc “tham gia trọn vẹn, có ý thức và tích cực” của giáo dân trong đời sống phụng vụ của Giáo Hội như được ủy thác bởi Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh của Công Đồng Vatican II cũng trong năm đó.
Không còn sự phân biệt giữa “Lễ trọng” và “Lễ thường”. Vào năm 1970, còn ban bố “Chỉ Thị mới về Thánh Lễ” mang lại những thay đổi sâu xa hơn nữa.
Về các bài đọc, không phải chỉ có một bài “Thánh Thư” trước bài Phúc Âm, nhưng còn một bài đọc về Cựu Ước nữa, cũng như một bài Thánh Vịnh đối đáp ở giữa hai bài Cựu Ước và Tân Ước, với một chu kỳ các bài đọc Chúa nhật trong ba năm và một chu kỳ những bài đọc hằng ngày trong tuần trong hai năm.
Được phép giữ chay một giờ trước khi rưóc lễ. Vào năm 1950 việc giữ chay được rút vắn lại 3 giờ (3 giờ đối với thức ăn đặc, 1 giờ đối với chất lỏng), thay vì từ nửa đêm cho đến khi rước lễ. Bắt đầu từ nay, việc giữ chay được giảm xuống hơn nữa, chỉ còn 1 giờ cho hết mọi thức ăn.
Tại nhiều thánh đường, những người rước lễ không còn quì xuống lan can rước lễ được trải lên một tấm vải trắng, mà chỉ đứng thôi. Các giám mục tại một số quốc gia, được sự chấp thuận của Tòa Thánh Vatican, cho phép người chịu lễ được rước lễ trong lòng bàn tay. Lời Chỉ Dẫn Tổng Quát trong Sách lễ Roma năm 1969 cho phép được rước lễ duới “hai dạng thức”, nghĩa là bánh và rượu.
Ngày nay nhiều người đi rước lễ hơn. Đang có cuộc thảo luận xem kết quả của luật giữ chay được nới lỏng, giáo dân cảm thấy họ có quyền rước lễ hay giảm thiểu cảm thức tội lỗi nhờ đó một số người rước lễ mà trước kia họ không được rước.
Ca đoàn không còn ở trên bao lơn cao phía sau nhà thờ mà ở bên cạnh hay trên cung thánh mà cộng đoàn đều thấy. Âm nhạc cũng thay đổi.
Để theo kịp tiến trình thời đại, ‘Thánh lễ dân tộc” cũng được phổ biến, ban đầu với đàn guitar. Sau đó là Thánh Lễ bằng Phúc Âm của tín hữu da đen, Thánh lễ theo điệu nhảy pônca của tín hữu người Mỹ Công Giáo gốc Ba-Lan và những Thánh Lễ khác của các nhóm dân tộc hát bằng tiếng mẹ đẻ.
Peter Finn, phụ tá giám đốc Ủy Ban Quốc Tế về Phụng Vụ bằng Anh ngữ, đặt căn cứ ở Hoa-Thịnh-Đốn, cho biết: “Nhằm cổ võ sự tham gia đông đảo, nơi dành cho ca đoàn cũng được đặc biệt chú ý…để linh động hóa việc cộng đồng cầu nguyện bằng tiếng hát.”
Rất nhiều bản nhạc mới được sáng tác và xuất bản sau Công Đồng Vatican II dùng trong phụng vụ được sắp đầy các bàn quì, gồm có sách lễ với sách hát nhiều loại.
“Cử chỉ chúc bình an” được đưa vào trong Thánh lễ sau khi đọc kinh “Lạy Cha” và trước kinh “Lạy Chiên Thiên Chúa”. Peter Finn cho biết: “Đó luôn luôn là một phần của phụng vụ Roma từ trước đến nay. Trước kia chúc bình an thường được trao đổi giữa một giám mục với phó tế và phụ phó tế. Bây giờ được áp dụng cho toàn thể cộng đoàn như là một cách thức làm sống lại một tục lệ cũ lan rộng cho cả cộng đoàn tiếp theo sau Công Đồng Vatican II.”
Sự thay đổi phụng vụ dành cho giáo dân nhiều vai trò. Ngoài việc làm trổi dậy các ca đoàn, giáo dân còn đọc sách (một phần vụ trước kia dành cho chủng sinh) cũng như chuyên viên nghi lễ và thừa tác viên đặc biệt về Thánh Thể.
Ngay cả những người sắp xếp chỗ ngồi trước kia chỉ có phần vụ đưa những giỏ xin tiền qua từng hàng ghế để nhận tiền dâng cúng, bây giờ được kể như nhân viên tiếp tân, đón tiếp niềm nở những người mới đến cũng như những giáo dân cũ.
Thánh Lễ chiều thứ bảy thay thế cho Chúa nhật cũng là một sự đổi mới khác. Tài liệu Công Đồng Vatican II vào năm 1967 - “Eucharisticum Mysterium” (Chỉ Dẫn về Nghi Thức Sùng Bái Mầu Nhiệm Thánh Thể) – đã công bố: vì “nhu cầu mục vụ”, Thánh Lễ Chúa nhật có thể được cử hành vào chiều thứ bảy. Giáo Hội nghĩ rằng những gia đình có thể làm tròn bổn phận xem lễ Chúa nhật như thế và có Chúa nhật rảnh rỗi dành cho những sinh hoạt gia đình. Cùng với thời gian, những người tham dự Thánh Lễ chiều thứ bảy ở Hoa Kỳ cũng thay đổi và cộng đoàn thường gồm những người lớn tuổi đi lễ vào Chúa nhật.
“Nghi thức bán phụng vụ” cũng xuất hiện. Đó là nghi thức cầu nguyện theo khuôn khổ Thánh Lễ, nhưng vì sự vắng mặt của linh mục nên không có phần Dâng Của lễ và Đọc Lời Truyền. Cộng đoàn được rước Mình Thánh Chúa giữ trong nhà tạm.
Những việc đạo đức quen thuộc như lần chuỗi Mân Côi, làm tuần cửu nhật và chầu Bốn Mươi Giờ cũng biến mất hay trở nên ít thông dụng hơn tại nhiều nơi.
Đức Ông James Moroney, giám đốc Văn Phòng Phụng Vụ của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ cho biết: “Ở bất cứ nơi nào trong lịch sử Giáo Hội, khi nhấn mạnh đến sự tham dự đông đảo, đôi khi phải hy sinh sự chiêm niệm.”
Khi bắt đầu Công Đồng, một vài việc thực hành đạo đức có tính cách thông dụng ở vài nơi được Công Đồng Vatican II làm sáng tỏ, dần dần được rút ngắn lại hay chấm dứt luôn.
Một sự thay đổi có ý nghĩa khác là nghi thức xưng tội, nhất là giải tội chung, còn gọi là giải tội tập thể. Về việc giải tội chung, thông thường lôi cuốn hằng trăm người đến các nhà thờ để nghe đọc Thánh Kinh, nghe giảng, xét mình và cầu nguyện, tiếp theo là việc xưng tội riêng và được giải tội.
Có đôi trường hợp được giải tội tập thể. Luật Giáo Hội chỉ cho giải tội tập thể trong những trường hợp rất giới hạn và với điều kiện mỗi người phải xưng tội riêng trong một thời gian hợp lý.
Ở một số nơi trong thập niên 1970, hôn lễ ở ngoài trời không được thông dụng. Theo Đức Ông Moroney, hôn lễ ở ngoài trời chỉ được diễn ra với sự cho phép của Đức Giám Mục giáo phận, và những bài đọc Thánh Kinh là điều bắt buộc.
Bốn mươi năm sau khi Công Đồng Vatican II bế mạc, một số cuộc tranh luận sôi nổi trong giới Công giáo, từ giáo dân cho đến các vị Hồng Y, vẫn còn xoay chung quanh các vấn đề liến quan tới phụng vụ.
Vatican II đã công bố Thánh Thể là “nguồn gốc và tuyệt đỉnh của đời sống Công giáo”, như vậy “việc tranh luận hoàn toàn đúng và diễn ra từ gốc tới ngọn.” Đức ông Moroney còn nói thêm: Thánh Thể là “nguồn gốc và tuyệt đỉnh mọi sự và Thánh Thể sẽ là một nơi mà chúng ta ôm ấp cũng như xem thường và mọi sự đều được tỏ bày một cách trong sáng như pha lê.”
(Phỏng theo Mark Pattison – Washinton – CNS)
VIII - SỰ CHUYỂN HƯỚNG VỀ PHÍA GIÁO DÂN
Thừa tác viên trong giáo xứ ngày nay có lẽ đúng hơn là một giáo dân nam hay nữ.
Trước Công Đồng Vatican II, hầu hết những giáo dân liên hệ đến những sinh hoạt thường nhật tại một xứ đạo Công giáo là dọn dẹp nhà thờ cho sạch sẽ và giúp lễ.
Với nhiều linh mục được bổ nhiệm cho giáo xứ và một tu viện có nhiều nữ tu bên cạnh, giáo dân chỉ được làm những công việc thứ yếu, có tính cách mgoại biên, như trả lời điện thoại trong nhà xứ, làm “giám thị” cho các lớp tiểu học hay tình nguyện viên cho Hội Thánh Vincent de Paul.
Chuẩn bị các đôi hôn nhân, sắp xếp phụng vụ, giữ sổ sách tài chánh, dạy dỗ giáo lý tân tòng và thi hành mục vụ như thăm viếng bệnh nhân…đều là công việc của “Cha”. Những phần vụ lớn không do linh mục đảm trách như dạy học ở trường nhà xứ, các lớp giáo lý và những công việc khác liên quan đến giáo dục đều thuộc trách nhiệm các “Dì”.
Thời hậu Công Đồng chuyển cho giáo dân đảm trách hầu hết những phần vụ đó, khởi đầu cách chầm chậm, nhưng trong ít năm gần đây đã lan rộng một cách đột ngột.
Cha Eugene Lauer, giám đốc “Trung Tâm Quốc Gia về Đời Sống Mục Vụ” cho biết cho tới trước năm 1990, ít khi giáo xứ tuyển dụng giáo dân cho những công việc thông thường do linh mục đảm trách, nhưng ngày nay, ở Hoa-Kỳ, số giáo dân giữ những nhiệm vụ đó đã vượt mức linh mục trong phạm vi mục vụ giáo xứ.
Theo cha, có khoảng 31,000 giáo dân hoạt động với tư cách chuyên viên mục vụ tại hai phần ba giáo xứ Hoa-Kỳ. Con số đó không bao gồm các giáo viên, giáo sư và nhân viên điều hành các học đường Công giáo cùng những nhân viên hỗ trợ như thư ký, người quản lý và giữ sổ sách. Cha Lauer cho biết có khoảng 28,000 linh mục hoạt động chủ yếu trong các giáo xứ. “Đó là một sự thay đổi đột ngột từ 15 hay 20 năm trước đây”, cha đã nói với “Cơ Quan Thông Tin Công Giáo” như thế.
Cha Lauer còn cho biết, chỉ từ năm 1990 thôi, đã có 22,000 giáo dân đảm trách các phần vụ đọc sách, mục vụ giới trẻ, điều hành công tác xã hội và phối kết giáo dục thanh thiếu niên hoặc trong những phần vụ chuyên môn về mục vụ khác. Trước Công Đồng Vatican II, chưa tới một phần trăm những công việc đó ở Hoa Kỳ được các giáo dân đảm trách. Ngài nói: “Đó là một hiện tượng hầu như ít ai biết đến.”
Các nam nữ tu sĩ, đứng trên phương diện kỷ thuật, cũng được định nghĩa như giáo dân, nhưng từ Công Đồng Vatican II, con số tu sĩ đã giảm thiểu đột ngột hơn nhiều so với linh mục.
Một bài nghiên cứu do Trung Tâm Quốc Gia về Đời Sống Mục Vụ trong một số phát hành gần đây, cho thấy kể từ 1990 số nữ tu đảm trách mục vụ giáo xứ đã giảm từ 41 xuống còn 16 phần trăm.
Theo “Trung Tâm Nghiên Cứu Ứng Dụng về Sứ Vụ Tông Đồ” tại Đại Học Georgetown, từ năm 1965, số nữ tu ở Hoa-Kỳ đã giảm từ 180,000 xuống còn 69,000. Số nam tu sĩ giảm từ 12,000 xuống còn độ 5,000. Tổng số 59,000 linh mục trong toàn quốc vào năm 1965 đã xuống còn 43,000.
Trong lúc đó, số giáo dân Hoa-Kỳ đã tăng từ 46 triệu trong 17,700 giáo xứ lên tới 68 triệu trong 18,900 giáo xứ.
Ngày nay giáo dân đảm trách việc thăm viếng mục vụ đối với các bệnh nhân, đặt kế hoạch tổ chức phụng vụ, lo các ca đoàn, lập thời khóa biểu cho các người đọc sách thánh và những thừa tác viên đặc biệt về Thánh Thể cũng như điều hành những chương trình giáo dục thanh thiếu niên, chuẩn bị những đôi nam nữ dự định kết hôn và những trẻ em đi học các trường công lập.
William D’Antonio, một giảng viên thuộc “Viện Nghiên Cứu về Chu Kỳ Đời Sống” tại Đại Học Công Giáo Hoa-Kỳ ở Washington cho biết, mặc dù những văn kiện Công Đồng Vatican II đã mở cửa cho giáo dân dấn thân trong hầu hết mọi lãnh vực về mục vụ giáo xứ, những thay đổi đó không được thực hiện một cách đồng nhất. D’Antonio nói: “Trong một số giáo xứ và giáo phận, số giáo dân liên hệ đến công tác mục vụ xem ra khá cao”, nhưng trong một số nơi khác “vẫn còn nhiều quyền uy lớn lao ở thượng tầng nên ngăn cản dân chúng làm thành Giáo Hội ‘ở hạ tầng’ khiến họ khó có thể dấn thân hơn.”
Cha Lauer cho biết những giáo xứ lớn có nhiều tiền lắm bạc nên có nhiều giáo dân trong hội đồng mục vụ là điều dễ hiểu, nhưng cũng còn những sự khác biệt tùy vùng có thể liên hệ đến số linh mục có sẵn. Chẳng hạn, những giáo xứ thuộc Tổng Giáo Phận New York xem ra có ít giáo dân đảm trách mục vụ giáo xứ hơn là những xứ đạo thuộc Tổng Giáo Phận Chicago, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, chẳng hạn ở New York có nhiều tổ chức và đại học lớn của Giáo Hội nên có tỷ số linh mục cao hơn và đã bổ khuyết nhu cầu nhân viên.
Cũng theo Cha Lauer, những giáo xứ ở miền Tây và miền Trung Tây Hoa-Kỳ thông thường lớn hơn nên có nhiều giáo dân trong ban nhân viên chuyên môn hơn là ở miền Đông và miền Nam Hoa-Kỳ. Ngài nói: “Có rất nhiều yếu tố để các giáo xứ có thể cung ứng thành phần dân sự thuộc giáo dân.”
Theo nghiên cứu của “Trung Tâm Đời Sồng Mục Vụ”, 41 phần trăm giáo dân làm việc cho giáo xứ có trình độ cao học trong lãnh vực hoạt động của họ, với số lương trung bình khoảng 38,000 đôn một năm. Mức lương đó xem ra hơi thấp so với những người tốt nghiệp đại học. Cha Lauer cho biết, theo sự nghiên cứu, hai phần ba những nhân viên giáo xứ cho rằng mức lương của họ thỏa đáng.
Theo cha nhận xét, với số phụ nữ chiếm tới 80 phần trăm nhân viên giáo xứ, việc làm của họ thường là lợi tức gia đình thứ hai, khiến cho tỷ số lương trên thị trường trở thành ít quan trọng đối với nhiều người.
Cha Lauer cho biết, điều đáng ghi nhận hơn là 85 phần trăm nhân viên giáo dân trong giáo xứ mô tả công việc của họ là có ý nghĩa và họ lấy làm vừa ý. Ngoài ra 95 phần trăm cho biết họ sẽ làm việc cho giáo xứ luôn mãi hay ít nhất trong vài năm tới.
Sự kiện nhiều giáo dân dấn thân nhiều hơn trong mục vụ giáo xứ khiến họ đóng một vai trò quan trọng hơn đối với Giáo Hội và họ được chuẩn bị cho những giáo xứ có ít linh mục hơn.
Một cuộc thăm dò gần đây do “Viện Nghiên Cứu Chu Kỳ Đời Sống” thực hiện cho tạp chí “Phóng Viên Công Giáo Toàn Quốc” cho thấy 89 phần trăm tín hữu Công Giáo Hoa-Kỳ muốn giáo dân nên có quyền tham gia những quyết định về vấn đề chi tiêu đối với lợi nhuận trong giáo xứ. Có 72 phần trăm cho biết giáo dân nên được tham gia trong việc chọn lựa linh mục cho giáo xứ của họ. Và 83 phần trăm ngỏ ý nên để họ tham gia quyết định trong trường hợp giáo xứ phải đóng cửa.
Vì số linh mục thi hành mục vụ cho giáo dân ở Hoa-Kỳ bị giảm thiểu, đa số những người được thăm dò bởi “Viện Nghiên Cứu về Chu Kỳ Đời Sống” tổ chức cho biết trong một chừng mục nào đó có thể chấp nhận được việc đem những linh mục từ các xứ khác vào nước hay chia sẻ những linh mục với các giáo xứ khác. Trong số những chọn lựa khác, đại đa số dân chúng cho biết trong một mức độ nào đó có thể chấp nhận việc có một quản lý viên cho giáo xứ hay có những linh mục thỉnh thoảng thăm viếng, nhập những giáo xứ gần nhau vào một và thỉnh thoảng có một nghi thức Rước Lễ thay vì Thánh lễ.
Đại đa số cho biết họ không thể chấp nhận việc có Thánh Lễ ít hơn một lần trong tuần cũng như việc đóng cửa giáo xứ của họ.
(Phỏng theo Patricia Zapor – Washington – CNS)
IX - QUAN NIỆM HÔN NHÂN THAY ĐỔI KỂ CẢ ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI KHÔNG CÔNG GIÁO
Trước khi Louise Cook kết hôn với người chồng Công giáo vào năm 1945, bà là một tín hữu thuộc Giáo Hội Giám Lý, sinh trưởng tại Kansas, đã quyết định theo Công giáo. Bà không muốn bị khước từ làm đám cưới trong một Thánh lễ Công giáo hay bị nghi ngờ bà sẽ không nuôi nấng con cái như tín hữu Công giáo.
Sau khi trở thành góa phụ năm 1970, bà tái giá và lần nầy với một người thuộc Giáo Hội Trưởng Lão. Người nầy gắn bó mãnh liệt với đức tin của mình. Lễ cưới xảy ra vào năm 1974 trong một nhà thờ thuộc Giáo Hội Trưởng Lão với vị mục sư của ông và vị linh mục Công giáo của bà là hai vị chủ tế đồng hạng.
Những thay đổi về hôn nhân Công giáo, do Công Đồng Vatican II mang lại, đã đi khá xa đối với hôn nhân hỗn hợp. Và theo nhiều người, những thay đổi đó là những dấu chỉ rõ rệt nhất đối với sự cởi mở và đổi mới của Giáo Hội do Công Đồng mang lại.
Nhiều sự thích nghi đã bắt đầu một thời gian lâu trước Công Đồng, như cha Joseph M. Champlin đã viết trong sách “Cùng Nhau Cho Sự Sống” vẫn còn được dùng cho bốn trong năm cặp nam nữ dự định kết hôn trong Giáo Hội Công giáo ở Hoa Kỳ. Cha Champlin nhận thấy ngay chính trong gia đình ngài những đám cưới hỗn hợp đã thay đổi từ một nghi thức ở trong phòng mặc áo lễ của Linh mục - còn gọi là phòng thánh (như trường hợp mẹ ngài và người bố dượng không Công giáo vào thập niên 1940) cho đến ở trong nhà thờ, nhưng không có rước lễ (đó là trường hợp người anh ruột và chị dâu không Công giáo của ngài vào thập niên 1940) hoặc ở nơi cung thánh nhà thờ trong khuôn khổ một Thánh Lễ vào thập niên 1950.
“Điều đó đã làm vơi đi nhiều điều có thể gây nên thương tổn” và đôi khi người phối ngẫu không Công giáo cảm thấy như bị loại bỏ, cha xứ của nhà thờ “Đức Bà Chỉ Bảo Đàng Lành” ở Warner, N.Y. cho biết như thế.
Sau Vatican II, Giáo Hội đã nới lỏng một điều ràng buộc khác đối với những đôi hôn nhân hỗn hợp, đó là người phối ngẫu không Công giáo không phải ký giấy cam kết sẽ nuôi nấng và dạy dỗ con cái như người Công giáo. Bắt đầu thập niên 1960, những người không Công giáo chỉ cam kết bằng miệng mà thôi. Theo cha Champlin: “Đó là nguồn gốc chọc giận những người không giữ lời hứa”.
Điều thay đổi chính trong hôn lễ Công giáo sau Công Đồng Vatican II là sự tham gia của đôi tân hôn vào việc lên chương trình đối với lễ cưới của họ. Theo cha Champlin, trước Vatican II, những yếu tố thuộc nghi lễ hôn phối “đúng hơn là có tính cách cứng nhắc và giống nhau cho hết mọi người”, nhưng về sau “Giáo Hội khuyến khích các đôi tân hôn nên tham gia vào việc phụng vụ.” Giờ đây các đôi nam nữ có thể chọn lựa những đoạn Thánh Kinh được đọc cũng như những bài hát, nói cách khác là cá nhân hóa nghi lễ hôn phối. “Điều đó có âm hưởng tức thời đối với giới trẻ”, cha Champlin đã viết như thế trong quyển sách “Cùng Nhau Cho Sự Sống” với nhiều sự duyệt lại trong nhiều năm và đã bán 9 triệu quyển.
Ngoài nghi thức phụng vụ ra, Vatican II còn thay đổi quan niệm thực sự về hôn nhân trong Giáo Hội Công giáo, theo như H. Richard McCord, giám đốc điều hành “Văn Phòng Tổng Thư Ký về Gia Đình, Giáo Dân, Phụ Nữ và Giới Trẻ của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ”. Theo McCord, trong Hiến Chế Mục Vụ “Vui Mừng và Hy Vọng” của Giáo Hội, Công Đồng tuyên bố hôn nhân không chỉ để truyền sinh mà thôi. Công Đồng “đã trở lại sự hiểu biết Thánh Kinh về giao ước” để định nghĩa lời cam kết bí tích giữa vợ chồng.
Hiến Chế đã minh định: “Hôn nhân, một cách chắc chắn, không được lập ra duy nhất nhằm để truyền sinh; đúng hơn bản chất đích thực của hôn nhân là một khế ước không thể phá vỡ giữa đôi vợ chồng và sự phúc lợi của con cái. Cả hai điều đó đòi buộc “tình yêu hỗ tương” giữa hai người phối ngẫu…tăng trưởng và trở nên chính chắn hơn. Vì vậy hôn nhân bền bỉ một cách trọn vẹn và đôi vợ chồng chia sẻ cuộc sống cùng duy trì chân giá trị và sự bất khả phân ly, cho dù đôi vợ chồng hết sức mong muốn nhưng không thể sinh con đẻ cái được.”
Theo McCord, ý niệm hôn nhân như là một giao ước cũng nhấn mạnh “sự bình đẳng cơ bản đối với con người” vào một thời điểm mà một số người còn xem phụ nữ như là vật sở hữu của người chồng. Mỗi người phối ngẫu đều đóng góp trọn vẹn năng khiếu và quà tặng của mình cho nhau và đối lại cũng được nhận lãnh như vậy.
Theo McCord, “Ánh Sáng Muôn Dân” - tức Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội – cũng đóng góp “một khái niệm căn bản vẫn còn tiếp tục trong công cuộc mục vụ của Giáo Hội; đó là ý niệm gia đình Kitô hữu như là một Giáo Hội tại gia.
McCord còn ghi nhận thêm: “Cách thức hiểu biết mới về vai trò của gia đình Công giáo đó” là một ý niệm cổ xưa trước tiên được Thánh Gioan Chrysostom (347-407) nhấn mạnh và “được các nghị phụ tái khám phá”.
Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã tuyên bố như sau trong cuộc nói chuyện với một nhóm giám mục Mễ-Tây-Cơ: trong vai trò những người đứng đầu Giáo Hội tại gia, cha mẹ là “những người đầu tiên truyền bá Phúc Âm cho con cái mình” và là “những học đường đầu tiên về sự sống và đức tin”.
McCord nói: những điều công bố của Công Đồng về hôn nhân còn giữ một vai trò lớn lao trong việc giúp đỡ những nhà lãnh đạo Giáo Hội Công giáo ngày nay phát biểu rõ ràng tại sao họ chống lại những cố gắng hợp pháp hóa hôn nhân cho những đôi đồng tính. Theo McCord: “Yếu tố xác định đặc điểm hôn nhân là tình yêu vợ chồng chỉ có thể có giữa một người nam và một người nữ. Đó không phải chỉ là phong tục hay truyền thống mà thôi.”
(Phỏng theo Nancy Frazier O’Brien – Washington – CNS)
X - TỰ DO TÔN GIÁO HIỆN ĐẠI HÓA NHỮNG QUAN HỆ GIỮA GIÁO HỘI VÀ NHÀ NƯỚC
Linh mục Đa-Minh Yves Congar và hai linh mục Dòng Tên John Courtney Murray và Henri de Bac là những thần học gia vào thập niên 1950 đã bị Vatican bắt phải im hơi lặng tiếng nhưng đã nổi bật lên và trở thành những tiếng nói quan trọng trong Công Đồng Vatican II. Cha Congar và Lubac về sau được chọn làm hồng y.
Một trong những văn kiện cuối cùng được Công Đồng Vatican II chấp thuận và có lẽ là văn kiện được tranh luận nhiều nhất, đó là “Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo” mà cao điểm là Công giáo trong thế giới hiện đại, xét về những tương quan giữa Giáo Hội và nhà nước.
Văn kiện đó đặt nền móng cho Giáo Hội đối phó với những nền dân chủ thế tục, tôn giáo đa nguyên thuộc Tây phương và Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II đã báo động tình trạng bắt bớ Giáo Hội ở những nước Cộng Sản cai trị.
Tuyên ngôn “Dignitatis Humanae” mang lại niềm tín nhiệm của Công Đồng mời gọi đối thoại đại kết và đối thoại với những tín hữu không phải Kitô giáo.
Trong quá trình soạn thảo, văn kiện nầy được phục hoạt do soạn thảo viên chính của tuyên ngôn là cha John Courtney Murray - một linh mục Dòng Tên vào thập niên 1950 đã bị Vatican cấm không được viết về những tương quan giữa Giáo Hội và nhà nước, nhất là những nỗ lực hòa giải Giáo Hội Công giáo với sự tách biệt giữa Giáo Hội và nhà nước theo kiểu Hoa Kỳ. Cuối cùng vị linh mục đó đã được mời tham gia “Văn Phòng Cổ Võ Hiệp Nhất Kitô giáo” của Vatican là cơ quan của Tòa Thánh soạn thảo tài liệu.
Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo tuyên bố rằng, vì nhân phẩm, mỗi cá nhân có quyền dân sự đối với tự do tôn giáo và thực thi niềm tin tôn giáo ở trong cộng đồng với kẻ khác. Đó là một điểm xuất phát rất rõ nét vì từ nhiều thế kỷ trước, Giáo Hội dạy rằng tự do tôn giáo trọn vẹn chỉ thuộc về Giáo Hội Công giáo như là một định chế bởi vì Giáo Hội chứa đựng sự sung mãn của chân lý thiêng liêng.
Trong bài bình luận sau Công Đồng vào năm 1966 - được phát hành sau khi cha qua đời, cha Murray ghi chú như sau: “Giáo Hội không còn ứng phó với trật tự trần thế theo tiêu chuẩn nước đôi: tự do đối với Giáo Hội khi tín hữu Công giáo là thiểu số, đặc quyền đối với Giáo Hội và bất khoan dung đối với kẻ khác khi tín hữu Công giáo chiếm đa số.”
Cha Murray còn viết: “Tuyên Ngôn đã mở đường cho một sự tín nhiệm mới trong những tương quan đại kết và sự thẳng thắn trong những tương quan giữa Giáo Hội và thế giới.”
Tuyên Ngôn công bố: “Quyền tự do tôn giáo được căn cứ trên chính nhân phẩm mỗi cá nhân như được biết đến qua lời mạc khải của Chúa và chính bằng lý trí.” Sự tự do đó phải được nhìn nhận và bảo đảm bởi các quốc gia như là một quyền dân sự bởi vì sự thi hành quyền tự do tôn giáo đòi buộc phải được “chước miễn mọi sự ép buộc từ bên ngoài. Quyền được chước miễn đó tiếp tục hiện hữu ngay cả đối với những ai không sống theo sự bắt buộc phải truy tầm chân lý và bám trụ vào đó.”
Tuyên Ngôn đã được chấp thuận bởi cuộc bỏ phiếu với tỉ số 2,308 - 70 vào ngày 7-12-1965. Đó là ngày bỏ phiếu sau cùng và cũng là ngày trước khi Công Đồng bế mạc.
Công Đồng chỉ chấp thuận sau khi đã “thảo luận một cách sôi nổi” với sự chống đối dữ dội từ nhiều viên chức Vatican và các vị giám mục đến từ những quốc gia mà Giáo Hội Công giáo rất mạnh như Tây-Ban-Nha và Ý-Đại-Lợi, theo như Gregory Baum cho biết. Gregory Baum là một chuyên viên thuộc “Văn Phòng Cồ Võ sự Hợp Nhất Kitô giáo của Công Đồng”. Văn Phòng đã soạn thảo tài liệu tự do tôn giáo vì tầm mức quan trọng đối với vấn đề đại kết. Vào thời điểm đó, Baum còn là linh mục dòng thánh Augustinô.
Sau đó Baum hoàn tục và trở thành giáo sư về tôn giáo học ở Đại Học McGill Montreal và nay đã hồi hưu, cho biết: “Giáo Hội Công giáo đã kết án tự do tôn giáo vào thế kỷ 19 và những người phản đối Tuyên Ngôn không muốn công nhận rằng Giáo Hội đã sai lầm.”
Theo Baum, lập trường trước đây là “chân lý có hết mọi quyền, còn lầm lạc không có quyền nào.” Khi thực hành như vậy có nghĩa là vì họ theo một tôn giáo lầm lạc nên không có quyền tự do tôn giáo, “nhưng điều đó vô nghĩa. Chân lý là một khái niệm trừu tượng. Dân chúng có quyền lợi của họ.”
Baum nhận thấy Tuyên Ngôn đã khiến Vatican duyệt lại những thỏa ước với nhiều quốc gia mà đại đa số theo Công giáo để Công giáo không còn là quốc giáo nữa.
Những người phản đối Tuyên Ngôn lý luận rằng khi chấp thuận nguyên tắc tự do tôn giáo, Giáo Hội tự mâu thuẫn với chính mình. Quan điểm đó ngược lại với quan điểm của các thần học gia khác, như linh mục Murray, theo đó giáo huấn của Giáo Hội cần tiến hóa, căn cứ trên những hoàn cảnh đổi thay, một tiến trình được gọi là sự “triển khai giáo lý”.
Bài bình luận của cha Murray vào năm 1966 cho thấy việc chống đối sự triển khai giáo lý ở đằng sau hầu hết những sự chống đối. Cha Murray viết: “Ý niệm triển khai, chứ không phải ý niệm tự do tôn giáo, là móc điểm thực tế đối với nhiều người chống lại Tuyên Ngôn cho đến cuối cùng.”
Sau cùng, khi Tuyên Ngôn được chấp thuận, cũng có kèm theo một sự nhìn nhận là trong quá khứ Giáo Hội đã vi phạm tự do tôn giáo. Tuyên Ngôn viết: “Dẫu cho ở trong đời sống dân Chúa…có những thời điểm xuất hiện một hình thức đối xử khó mà đúng với tinh thần Phúc Âm và ngay cả ngược lại với Tin Mừng nữa. Giáo huấn của Giáo Hội luôn luôn vẫn là không ép buộc ai phải tin theo.”
Lời thú nhận đó đã được gợi ý bởi Đức Hồng Y Joseph Beran ở Prague, Czechoslovakia, lúc bấy giờ bị đặt dưới quyền thống trị của Cộng Sản. Ghi nhận những vụ thiêu đốt những người ly giáo và những vụ bắt buộc theo Công giáo trong lịch sử quê hương mình, Đức Hồng Y Beran xin Công Đồng chấp thuận Tuyên Ngôn “trong tinh thần đền bù những lỗi lầm trong quá khứ.”
Đức Hồng Y Beran và các nghị phụ đến từ những quốc gia do Cộng Sản chiếm đóng đã liên kết với các giám mục Hoa-Kỳ để trở thành những người ủng hộ Tuyên Ngôn một cách mạnh mẽ. Các giám mục sau bức Màn Sắt nhận thấy cần thiết phải duy trì một số điều giống nhau trong đời sống Giáo Hội ở trên quê hương họ, bởi vì Tuyên Ngôn cổ võ việc thực thi nguyên tắc tự do tôn giáo. Tuyên Ngôn cũng mạnh mẽ kêu gọi Giáo Hội độc lập đối với nhà nước và bảo vệ khỏi bị nhà nước xâm phạm những tôn giáo có tổ chức. Tuyên Ngôn công bố: “Nếu chính quyền dân sự cho mình có quyền kiểm soát hay hạn chế sinh hoạt tôn giáo, phải nói rằng chính quyền đã vượt khỏi giới hạn quyền bính của mình.”
Trong số những người ủng hộ Tuyên Ngôn thuộc khối Sô-viết là Đức Tổng Giám Mục Karol Wojtyla của Krakow, Ba-Lan, về sau được bầu làm Giáo Hoàng Gioan Phao-lồ II năm 1978. Ở trong phòng họp Công Đồng năm 1965, vị tổng giám mục 45 tuổi tranh luận rằng không nhà nước nào có quyền khống chế tôn giáo.
Theo giáo sư Baum, Đức Tổng Giám Mục Wojtyla tỏ ra “xuất sắc đối với văn kiện. Ngài trở thành vô địch về nhân quyền khắp nơi trên thế giới, không chỉ quyền lợi tôn giáo mà thôi, mà còn căn cứ trên nhân phẩm nữa.”
(Phỏng theo Agostino Bono – Washington – CNS)
XI - HỒI TƯỞNG NHỮNG NĂM LỊCH SỬ CÔNG ĐỒNG VATICAN II CỦA MỘT SỐ CHUYÊN VIÊN HOA-KỲ CÒN SỐNG
Đức Hồng Y William H. Keeler ở Baltimore cho biết Công Đồng Vatican II đã biến đổi cách hiểu biết của ngài về điều gọi là “dùng Lời Chúa trong cách giảng dạy”.
Đối với Đức Giám Mục hưu trí Raymond W. Lessard ở Savannah, Ga., thì chiều kích đại kết của Công Đồng, ngay cả trong giai đoạn chuẩn bị, là điều gây ấn tượng sâu sắc nhất.
Còn Đức Giám Mục hưu trí John S. Cummins ở Okland, California thì việc Công Đồng nhấn mạnh về Thánh Kinh đã đòi hỏi ngài rất nhiều trong vấn đề giảng dạy tốt hơn và “thay đổi cách thức chúng ta cầu nguyện”.
Đức ông Robert Trisco, một sử gia nổi tiếng về Giáo hội học cho biết thời gian Công Đồng nhóm họp 1962-1965 “là một kinh nghiệm khá lâu dài và bao hàm một cách toàn diện khó toát lược. Đó là một phần đời sống mà tôi khó quên nhất”.
Cả bốn giáo sĩ đó có một điểm chung: họ là những vị trong số những giáo sĩ ít oi người Hoa-Kỳ còn sống mà đã tham dự Công Đồng Vatican II với tư cách học giả chuyên viên. Họ đã tham dự những khóa họp có độ trên 2000 giám mục trên khắp thế giới nhóm tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô.
Những chuyên viên gồm có hơn 450 linh mục khắp nơi trên thế giới, trong đó có 50 vị đến từ Hoa-Kỳ, nhằm giúp đỡ các giám mục họp nhau tại Roma để quyết định điều gì cần thiết nhằm đổi mới Giáo Hội ở bên trong, giúp Giáo Hội dấn thân vào thế giới theo những cách thức mới mẽ ngỏ hầu đi vào một kỷ nguyên đối thoại thân tình với những giáo hội Kitô khác cũng như những tôn giáo khác.
Một số chuyên viên giúp dự thảo những tài liệu, trong khi những vị khác giúp viết ra hay chuyển dịch những bài diễn văn cho các giám mục. Chẳng hạn Đức Hồng Y Keeler và Đức Ông Trisco - nằm trong danh sách báo chí Hoa Kỳ - đã gặp gỡ các ký giả hằng ngày. Họ cũng là những thành phần thuộc tổ xuất bản “Tập San Thời Sự” của Công Đồng. Đó là một tài liệu tóm tắt các biên bản bằng Anh ngữ hằng ngày để phân phối cho các giám mục nói tiếng Anh.
Hiện nay Đức Ông Trisco là một giáo sư danh dự về “lịch sử Giáo Hội ở Đại Học Công Giáo Hoa-Kỳ” và là chủ bút “Tạp Chí Lịch Sử Công Giáo”, cho biết một trong những lúc căng thẳng nhất trong Công Đồng vào ngày 8-11-1963 là khi Đức Hồng Y người Đức – Joseph Frings – ở Cologne đã gọi những thủ tục của Thánh bộ Tín Lý và Đức Tin là lỗi thời, tai hại và nhục nhã. Đức Hồng Y Alfredo Ottaviani là bộ trưởng Thánh bộ Tín Lý và Đức Tin, nhưng trong thời gian đó chính Đức Thánh Cha đứng đầu. Đức Ông Trisco cho biết Đức Hồng Y Ottaviani “giận dữ và khó chịu ra mặt” và về sau trong cũng một khóa họp đó đã xúc động phản đối lại những lời chỉ trích trên đây của Đức Hồng Y Frings.
Đối với Đức Ông Trisco, “đó là một buổi sáng rất bi thảm” bởi vì trước kia “không ai dám chỉ trích Thánh Bộ Đức Tin như thế một cách công khai ở nơi công cộng và nhất là do một vị hồng y ở trong Công Đồng”.
Đức Giám Mục Lessard từ khi bị đau lưng kinh niên đã rời khỏi giáo phận Savannah năm 1995 và từ đó dạy môn thần học ở Chủng Viện St. Vincent de Paul ở Buynton Beach, Fla., cũng đã có mặt ở Roma trong thời gian chuẩn bị Công Đồng và về sau lưu lại đó với tư cách một viên chức của Bộ Giám Mục.
Ngài nhớ lại ủy ban soạn thảo của Công Đồng chuẩn bị việc thảo luận mời những quan sát viên các giáo hội khác. Ngài cho biết: “Tôi nghi vấn đề nầy do chính Đức Thánh Cha Gioan XXIII.” Quyết định mời các quan sát viên từ các giáo hội Kitô khác “là một khởi đầu rất quan trọng” và báo trước “những tiến bộ quan trọng” trong những tương quan đại kết kể từ đó.
Làm việc với cơ quan của Vatican trông nom các giám mục cũng như những hội nghị các giám mục, Đức Cha Lessard có lợi điểm là từ đó thấy được một cách toàn diện sự thực thi những giáo huấn của Công Đồng trên toàn thế giới về các lãnh vực đó. Ngài cho biết nhiền điều đã được thực hiện để bành trướng quyền hành của các giám mục, cổ võ giám mục đoàn và giải quyết những vấn nạn thực tế phát sinh do các hội đồng giám mục.
Ngài gọi việc thiết lập Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới là một “bước tiên phong” chuyển tải tiếng nói của các giám mục trên thế giới đối với những vấn đề mà Giáo Hội đang đối phó. Ngài gọi vấn đề giám mục đoàn là một “vấn đề thời sự” đang tác động hỗ tương giữa Giáo Hội hoàn vũ và các giáo hội địa phương.
Trong tư cách là giáo sư môn Giáo Hội học - môn thần học về Giáo Hội - ngài cho biết: “Tôi say mê Lumen Gentium (văn kiện Tín Lý của Công Đồng về Hiến Chế Giáo Hội) và tinh hoa của văn kiện đó. Tôi không thể biết được tài liệu phong phú đến mức nào.”
Theo ngài, một trong những điểm quan trọng nhất là sự khôi phục ý nghĩa của Giáo Hội như là “koinonia” tức sự hiệp thông hay tình bạn giữa các tông đồ và không chỉ bằng một ý nghĩa mang tính cách trí thức, nhưng “được cảm nhận và sống như thế nào.”
Đúc Cha Lessard cho biết một trong những khía cạnh hấp dẫn nhất của công tác đào tạo linh mục là “chống lại hội chứng trỗi vượt hiện nay: chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa đó đã ảnh hưởng trên rất nhiều lãnh vực thuộc tư duy và đời sống chúng ta. Người ta sẽ thu hút những người trẻ đó như thế nào - những linh mục tương lai đó - theo cách thức nhìn sự việc có tính cách giáo sĩ hơn…một thực tế thần học hiệp thông với giám mục và tất cả các linh mục, chưa nói tới việc tương giao với giáo dân nữa? Đó là một thách đố lớn lao, làm sao người ta chuyển biến hết những ý niệm tân kỳ đó vào trong linh đạo của họ.”
Theo Đức Hồng Y Keeler, khi nhìn lại Công Đồng, “một trong những điều đánh động tôi mạnh mẽ nhất” là khi Đức Hồng Y Augustin Bea, người đứng đầu Hội Đồng Giáo Hoàng Cổ Võ sự Hợp Nhất Kitô Giáo “đọc diễn văn…liên quan đến người Do-Thái”. Đức Hồng Y Keeler cho biết bài diễn văn đưa ra điều mà cuối cùng trở thành tuyên ngôn của Công Đồng kết án chủ nghĩa bài Do-Thái và nhìn nhận giao ước liên tục của Chúa với người Do-Thái là một trong những điểm ngoặt của Công Đồng.
Theo Ngài, một biến cố khác mà ngài còn ghi nhớ một cách sống động là thời biểu đối với Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo trong tuần lễ cuối cùng của khóa họp thứ ba của Công Đồng. Ngài nói: “Dân chúng trong quốc gia chúng tôi và phần đông ở Âu châu rất lo lắng bởi sự kiện điều đó không được chấp thuận, nhưng thực sự văn kiện đó đã trở lại trong những năm sau đó và đã trở thành một tài liệu hay hơn nhiều.”
Đức Hồng Y Keeler cho biết ngài nhớ lại tầm quan trọng mà các giám mục nhắm tới là việc cầu nguyện trước Mình Thánh Chúa ở Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô mỗi sáng trước khi buổi họp bắt đầu.
“Rồi việc kế tiếp là rước quyển Thánh Kinh. Quyển Thánh Kinh được rước lên giữa lối đi chính trong Vương Cung Thánh Đường và mở ra đặt trên bàn thờ, với ý nghĩa là quyển Thánh Kinh chủ tọa” trên Công Đồng, Đức Hồng Y nói như thế. Ngài còn cho biết thêm, tầm mức quan trọng chính của Lời Chúa được giải thích rõ ràng trong Hiến Chế Tín Lý của Công Đồng về Mạc Khải của Chúa.
Liên quan đến chính mục vụ của mình, ngài nói: “Điều mà tôi tìm thấy được, đó là tôi có thể đem ra thực hành điều hiểu biết do chúng tôi đem Lời Chúa ra khi chúng tôi giảng dạy…Đó là một cuộc cách mạng trong lối suy tư thời bấy giờ và tôi biết điều đó có một ảnh hưởng đối với tôi mãi mãi từ đó.”
Một điểm nổi bật khác đối với Đức Hồng Y Keeler là sự hiện diện và ảnh hưởng của các giám mục thuộc các giáo hội Công giáo Đông phương khiến các giám mục La-tinh nhận thấy rõ ràng hơn sự đa dạng của các truyền thống và các nền văn hóa Công giáo. Ngài cho biết sự nhận thức sâu đậm hơn của Chúa Thánh Linh đã gây ấn tượng trên ngài bởi các giáo hội Đông phương, ngài luôn cố gắng kết thúc những thư tín quan trọng bằng cách nhắc đến Chúa Thánh Linh “để dân chúng sẽ hiểu rằng Chúa Thánh Linh không phải xa lạ đối với chúng ta, nhưng Ngài phải ẩn náu trong sâu thẳm chúng ta.”
Tất cả các chuyên viên đó đều trích dẫn những cải cách về phụng vụ nhằm cổ võ dân chúng tham dự đông đảo hơn, nhất là việc đưa tiếng mẹ đẻ vào trong nghi lễ La-tinh, như quyết định của Công Đồng, có lẽ đã có ảnh hưởng lớn lao tức thời và lâu dài trên cuộc sống hằng ngày của tín hữu Công giáo. Đức Hồng Y Keeler ghi chú là không những các giám mục Âu Mỹ thúc bách việc sử dụng các ngôn ngữ địa phương nhưng các giám mục Nam Bán Cầu cũng cho thấy rằng dân chúng của họ “nhận thấy La ngữ như là một nền văn hóa thống trị; đó là chủ nghĩa thực dân ngụy trang dưới một dạng thức khác.”
Khi được hỏi về những thành quả lớn lao của Công Đồng, Đức Giám Mục Cummins đưa ra ngay một danh sách như sau: “phụng vụ, Giáo Hội, tự do tôn giáo, đại kết.”
Ngài gọi việc dân chúng dấn thân một cách linh động vào vấn đề phụng vụ là một chuyển hướng trọng đại từ trước Công Đồng.
Ngài cho biết giáo huấn của Công Đồng về Giáo Hội như một cộng đồng và như là dân Chúa để nhấn mạnh tầm mức quan trọng của bí tích thánh tẩy, nhu cầu tham khảo và sự quan trọng của công luận ở trong Giáo Hội.
Ngài còn nói thêm: “Điều đó có nghĩa là người ta phải công nhận sáng kiến của giáo dân, xét về mặt quyền uy, người ta phải tạo cơ hội để sáng kiến phát sinh.”
Đức Giám Mục Cummins cho biết Công Đồng nhắm tới trọng tâm của Thánh Kinh trong nền thần học, phụng vụ và cầu nguyện “đối với tôi là một thay đổi căn bản.” Ngài cho biết khi ngài được đào tạo trong chủng viện, không có tầm mức quan trọng đối với vấn đề học hỏi Thánh Kinh và đó là một cuộc chiến đấu đối với ngài: học hỏi Thánh Kinh để rao giảng hằng ngày.
Ngài cho biết: ngài chỉ tham dự khóa họp vào năm 1963 mà thôi nhưng nhận thấy thật là một cơ hội “phi thường”, được gặp gỡ nhiều thần học gia chủ đạo của Giáo Hội và nghe họ bàn thảo những vấn đề mà Giáo Hội phải đối phó. Ngài nói: “Chúng tôi tham dự những cuộc mạn đàm về thần học gần như mỗi ngày.”
Theo các chuyên viên, cùng với sự tiến bộ lớn lao trong việc thực thi Công Đồng trong nhiều lãnh vực thuộc đời sống Giáo Hội, họ cũng nhận thấy còn nhiều việc phải làm.
Đức Giám Mục Lessard nói: “Một trong những thách đố lớn lao là sự thực hiện đường lối của Công Đồng về vấn đề mục vụ” bằng cách triển khai một cách hữu hiệu những hội đồng mục vụ giáo phận và giáo xứ.
Đức Hồng Y Keeler cho biết phần chương trình nghị sự chưa hoàn tất “thực ra đang cuốn hút sứ điệp chính” của Hiến Chế Công Đồng về Giáo Hội. Ngài nói: “Điều đó chưa được dân chúng hấp thụ hoàn toàn…Đó là một công tác không ngừng cố gắng kêu mời dân chúng đóng một vai trò linh động hơn trong Giáo Hội.”
(Phỏng theo Jerry Filteau – Washington – CNS)
XII - MỘT LINH MỤC DÒNG TÊN CHUYÊN VIÊN VẪN TIẾP TỤC KHẢO SÁT SỰ THỰC THI CÔNG ĐỒNG VATICAN II
Đứng trên một viễn tượng rất đặc biệt, một linh mục Dòng Tên đã phục vụ với tư cách chuyên viên thần học thuộc Công Đồng Vatican II còn tiếp tục khảo sát những cuộc bàn cãi, thành quả và sự thực thi Công Đồng.
Bốn mươi năm sau khi phục vụ trong tư cách “peritus” (chuyên viên tại Công Đồng), cha Paolo Molinari là người đảm trách hồ sơ phong thánh cho Đức Giáo Hoàng Phao-lồ VI – vị giáo hoàng đã chủ tọa ba trong số bốn khóa họp của Công Đồng và đã giám sát việc thực thi Công Đồng cho đến khi băng hà vào năm 1978.
Cha Molinari cho “Cơ Quan Báo Chí Công Giáo” biết là Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã xây dựng Công Đồng và “nghĩ rằng Công Đồng trở thành một cuộc tập họp của một đại gia đình hạnh phúc, nhưng Công Đồng không chỉ có như vậy thôi. Công Đồng đã phát động những cuộc thảo luận đòi hỏi Giáo Hội phải đối phó với vô số vấn đề thần học mà bắt đầu được tranh luận bởi một số giám mục và thần học gia và không phải luôn luôn theo cách thức phù hợp với những giáo huấn của Giáo Hội. Công Đồng kéo dài 4 năm và trong thời gian giữa hai khóa, có nhiều cuộc thảo luận nhằm cố gắng làm cho các vấn đề được sáng tỏ.”
Còn rắc rối hơn nữa, những phương tiện truyền thông về diễn tiến Công Đồng đạt tới một mức độ chưa từng có đối với những công đồng trước kia. Nhiều cuộc tranh luận cũng như cố gắng ảnh hưởng các giám mục được trình bày trên báo chí thay vì trong hội trường, qua những cuộc hội thảo nho nhỏ hay bằng những thư tín riêng.
Theo cha Molinary, cuộc thảo luận công khai càng làm trầm trọng thêm lên những dị biệt giữa những người gọi là bảo thủ và cấp tiến, xem như một số người trong Giáo Hội nghĩ rằng mọi việc trong thực tế đều được đem ra thảo luận hết.
Đối với vị linh mục Dòng tên 81 tuổi nầy, trọng điểm của Công Đồng đối với Thánh Kinh là bí quyết để lãnh hội những thay đổi có tính cách tích cực trong Giáo Hội suốt 40 năm qua. Theo cha Molinary, bằng cách hỗ trợ một cách tích cực sự nghiên cứu Thánh Kinh, cổ võ việc đọc và học hỏi Thánh Kinh đối với các tín hữu và khích lệ sự tham gia tích cực Thánh Lễ, Công Đồng đã giúp hết mọi tín hữu Công giáo làm quen với những chủ đề cốt yếu về mạc khải của Thiên Chúa. Ngài nói: “Hiểu biết Thiên Chúa đã yêu thương và quan tâm đến nhân loại như thế nào, Ngài đã đến với chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô và sự kiện Chúa Kitô trao ban Mình Ngài cho đến chết vì chúng ta, đã làm cho mối tương quan giữa chúng ta với Chúa Giêsu trở nên dễ dàng, mới mẻ và bền chặt hơn.”
Cha Molinary cho biết trọng tâm đặt để vào sự tương quan với Chúa Giêsu đang sống động trong cộng đồng Giáo Hội đã củng cố sự hiểu biết của tín hữu Công Giáo về sự trao ban qua Bí Tích Thánh Thể và đời sống Kitô hữu có ý nghĩa như thế nào. Theo cha, “đó là môt sụ hiệp nhất xuất phát từ tình yêu sống trong một ơn gọi tự hiến thân mình” cho dù trong đời sống linh mục, đời sống tu trì, hôn nhân hay độc thân.
Cha Molinary nói rằng viễn tượng Thánh Kinh về việc Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ, đồng hành với dân Ngài qua cuộc sống trần thế, kêu gọi họ hành động một cách chính trực và quan tâm đến kẻ yếu kém cũng có quan hệ mật thiết rất lớn đối với cách thức mà Giáo Hội và các thành viên của Giáo Hội tưong quan đến thế giới. Với cha Molinary, theo gương Chúa Giêsu, Công Đồng xác định rằng “khi tiền tài, quyền lực, kiến thức hay ngay cả tôn giáo được dùng để khai thác dân chúng thì điều đó đáng bị chỉ trích.”
Cha cho biết Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội - Lumen Gentium – khi nói về Giáo Hội như “dân Chúa” hay như “Giáo Hội lữ hành” thì thành ngữ “thân thể Đức Kitô” quan trọng nhất: đó là sự sống tuôn chảy từ Chúa Giêsu là đầu, liên kết chúng ta lại với nhau và sai đi giữa trần thế.”
Về cuộc tranh luận Công Đồng nhằm mục đính gì đối với Giáo Hội, cha Molinary cho rằng có một sự thiếu thận trọng đã xảy ra ngay cả trước Công Đồng cũng như trong thời gian Công Đồng được tỏ bày bởi những người không muốn thay đổi gì hết và những người muốn thay đổi tất cả. Ngài cho biết, thay vì cố gắng quay ngược kim đồng hồ trở lại, nhiều vị lãnh đạo Giáo Hội và tín hữu ngày nay đang ra sức phục hồi “một số giá trị và những tập tục đã bị loại trừ hay ngay cả bị chế giễu, chủ yếu vì cách thức mà họ diễn đạt không còn được quảng diễn cho dân chúng. Những người đó không nói: ‘chúng ta đã đi quá xa’, nhưng họ nói: ‘có thể chúng ta đã thiếu sót điều gì đó.’”
Nhu cầu có những giây phút thinh lặng và thẩm định bản chất hy sinh của Thánh Thể, theo cha, đó là một thí dụ. Vì vậy đã có quyết định phát hành một tài liệu giáo lý của Giáo Hội phổ cập và dễ hiểu đối với những người nam cũng như nữ hiện nay. Ngài kết luận: “Thánh Thần của Chúa hoạt động trong Giáo Hội, hướng dẫn hoạt động khôn ngoan đối với những ai không có trí óc khép kín cũng như không chống đối.”
(Phỏng theo Cindy Wooden – Vatican City – CNS)
XIII - VAI TRÒ CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊDITÔ XVI
Đức Giáo Hoàng Bênêditô XVI là người bị ảnh hường sâu đậm bởi những cuộc thảo luận tại Công Đồng Vatican II, giờ đây Ngài đang ở trong một vị thế điều hướng cách thức mà theo đó Giáo Hội thực thi những giáo huấn của mình.
Nhiều năm trước đây Ngài đã cảnh báo rằng Giáo Hội đã trải qua một “tiến trình thoái hóa” với danh nghĩa là “tinh thần Công Đồng”, nhất là Ngài phê phán những cải cách về phụng vụ mà Cộng Đồng đề xướng.
Tuy nhiên trong bài thuyết giảng đầu tiên với tư cách là giáo hoàng vào tháng tư năm 2005, Đức Thánh Cha Bênêditô XVI đã tuyên bố không chút nghi ngờ gì về Công Đồng Vatican II và việc am hiểu tường tận Phúc Âm sẽ là “kim chỉ nam” cho triều đại của Ngài.
Ngài nói: “Càng nhiều năm trôi qua, những tài liệu Công Đồng không mất thời gian tính bao giờ. Quả thật, những giáo huấn của Công Đồng đang chứng tỏ thích ứng một cách đặc biệt với tình cảnh mới của Giáo Hội và xã hội đương thời đang được toàn cầu hóa.”
Xét về nhiều phương diện, Đức Thánh Cha Bênêditô XVI biểu hiện hình ảnh trọn vẹn về kinh nghiệm Công Đồng Vatican II trong Giáo Hội, bởi vì:
- Với tư cách cố vấn thần học cho Đức Hồng Y người Đức là Joseph Frings ở Cologne, Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI, lúc bấy giờ là linh mục, đã tham dự tất cả bốn khóa họp của Công Đồng từ 1962-1965 và đã hăng say theo sát công tác khởi đầu cũng như sự thăm dò dũng cảm đưa đến việc đổi mới.
- Ngài bắt đầu tỏ lộ lo âu trong những khóa họp về sau là Công Đồng cho người ta cảm tưởng Giáo Hội sinh hoạt như một nghị trường và “đức tin có thể bị thay đổi”.
- Sau khi Công Đồng kết thúc, Ngài cảnh cáo về việc chuyển hướng sai lầm trong việc thực thi và cuối cùng Ngài giúp hình thành một tạp chí thần học để cân bằng điều mà Ngài gọi là sự tiếp cận thần học của “hoạt động chính trị trong giới giáo sĩ”.
- Trong tư cách là viên chức tối cao về tín lý trong gần 24 năm, Ngài đã hoạt động để kiềm chế những sự lạm dụng và minh định giáo huấn của Giáo Hội trong những lãnh vực bao gồm sự thí nghiệm thần học, những văn bản phụng vụ, sự học hỏi Thánh Kinh, vấn đề tông đồ giáo dân, vai trò của những hội đồng giám mục và cuộc đối thoại liên tôn cũng như đại kết.
Học giả người Hoa Kỳ là George Weigel cho biết trong tư cách là một chuyên viên thần học trẻ tuổi, linh mục Ratzinger hiểu rõ sự thật chủ yếu về Vatican II là “aggiornamento” tức sự “hiện đại hóa” Giáo Hội Công Giáo phải đặt căn bản trên sự “trở về nguồn”, một sự trở về với nguồn gốc của sự khôn ngoan Kitô giáo và sự Giáo Hội tự hiểu biết chính mình một cách sâu sắc hơn. Weigel phát biểu: “Ngài Ratzinger…hiểu rằng cả hai điều đó phải song hành: “cập nhật hóa mà không hiểu chính mình ‘một cách sâu sắc’ thì chỉ hướng Giáo Hội vào một tổ chức tự nguyện khác dành cho những việc từ thiện mà thôi.”
Weigel đã đề cập tới chủ đề về Đức Thánh Cha Bênêditô XVI và Công Đồng Vatican II trong một quyển sách mới nhất của ông là “Sự Chọn Lựa của Thiên Chúa: Đức Thánh Cha Bênêditô và tương lai Giáo Hội Công Giáo”, cho biết Đức tân Giáo Hoàng đã có một ảnh hưởng lớn lao trên việc thực thi Công Đồng dưới triều đại của Đức Thánh Cha Gioan Phao-lồ II.
Weigel nói: “Ngày nay, thử thách lớn nhất của Đức Thánh Cha Bênêditô XVI trong tư cách là ‘người thực thi’ Công Đồng Vatican II, sẽ thành công trong việc tìm kiếm được những vị giám mục thể hiện được tầm nhìn của Công Đồng đối với vai trò giám mục như là tông đồ.”
Alberto Melloni - một sử gia về Giáo Hội học người Ý – cho biết Đức Thánh Cha Bênêditô XVI đã mang lại chiều kích lớn lao về thần học cho Vatican II và Ngài vẫn là một “người con của Công Đồng” xét về nhiều phương diện, nhưng với việc Ngài được bầu làm giáo hoàng thì công cuộc thực thi Công Đồng Vatican II đối với Đức Thánh Cha Bênêditô XVI đã trở thành một vấn đề cai quản và không chỉ là một sự tranh luận có tính cách trí thức hay thần học.
Học giả Alberto Melloni viết: “Những gì Ngài đã nghĩ và làm tại Công Đồng thì rất quan trọng, nhưng điều đáng kể hơn nhiều ngày nay là điều Ngài sẽ làm trên cương vị Giáo Hoàng, nhất là trong những lãnh vực gay cấn như giám mục đoàn và vấn đề đại kết.”
Trong những năm trước khi được bầu làm giáo hoàng, Đức Hồng Y Ratzinger đã bình luận về di sản của Vatican II khiến nhiều người chú ý rất nhiều, nhất là khi Ngài nói tới phụng vụ. Vào năm 1997, Ngài bày tỏ một cách quyết liệt theo đó việc Đức Thánh Cha Phao-lồ VI cải tổ phụng vụ đã làm “phương hại lớn lao” cho Giáo Hội. Theo Ngài, trong thực tế, không phải những thay đổi không cần thiết, xét về nhiều phương diện, “Sách Lễ Roma mới” là một sự cải tiến. Trong tầm nhìn của Ngài, vấn đề là phụng vụ cũ đã bị phá huỷ và Thánh Lễ mới được xây dựng trên những mảnh vụn của phụng vụ cũ.
Đức Hồng Y Ratzinger kêu gọi một “tiến trình phụng vụ mang lại sức sống cho di sản đích thực của Công Đồng Vatican II”. Năm 1999, Ngài cho ra đời một tác phẩm về chủ đề đó, khi Ngài cho rằng phụng vụ tân thời cần dành nhiều chỗ hơn cho sự thinh lặng, những động tác truyền thống của Kitô giáo, âm nhạc thích hợp và những yếu tố khác làm tăng trưởng thái độ cung kính.
Đức Hồng Y cũng đã làm dấy lên một cuộc tranh luận vào năm 1990 khi Ngài cho biết là đồng ý với những luận cứ thần học về vấn đề xoay bàn thờ về vị trí như trước Công Đồng Vatican II trong đó linh mục khi dâng Thánh Lễ thì xây lưng về phía cộng đoàn. Ngài cũng cho biết có lẽ quá trễ để đảo ngược những sự đổi thay đó mà không làm cho giáo dân trở nên bối rối hơn bao giờ hết và một sự trở về toàn diện đối với việc dâng Thánh lễ bằng La ngữ thì ngày nay không thể xảy ra được và có lẽ không phải là điều đáng mong ước.
Vì những lời phát biểu của Ngài trong quá khứ, nhiều tín hữu trông chờ Đức Thánh Cha Bênêditô sẽ có những thay đổi ngoạn mục trong nghi lễ giáo hoàng, như dẹp bỏ những yếu tố có tính cách đa văn hóa thường rất nổi bật dưới triều đại của Đức Thánh Cha Gioan Phao-lồ II. Cho đến bây giờ, điều đó đã không xảy ra. Vào những Ngày Giới Trẻ Thế Giới vừa qua ở Đức quốc chẳng hạn, Thánh Lễ giáo hoàng được sinh động bằng những hồi trống của người dân Phi châu, đàn xita và kèn của người Nam Mỹ. Trong buổi kinh chiều có cả những nghệ sĩ múa hát nữa.
Ngoài vấn đề phụng vụ, Đức Thánh Cha Bênêditô XVI luôn quan tâm đến ý nghĩa thần học và giáo hội học đằng sau phụng vụ. Vào năm 1962 khi Công Đồng bắt đầu thảo luận gay cấn về nguồn gốc mạc khải, vị linh mục trẻ tuổi Ratzinger đã trở thành một diễn viên cốt cán. Việc thảo luận về mạc khải đặt ra vấn đề là làm sao Thánh Kinh và Thánh Truyền liện hệ với nhau và cả hai đã liên hệ đến quyền giáo huấn của Giáo Hội (magisterium) như thế nào. Đó là một cuộc thào luận của các chuyên viên, nhưng đã có tác động lớn lao trên cách thế theo đó Giáo Hội tự hiểu biết chính mình.
Trong tầm nhìn của Cha Ratzinger lúc bấy giờ, có một chiều hướng nguy hiểm trong việc giải thích Thánh Kinh như là kho tàng trọn vẹn chứa đựng đức tin, một đường hướng trao ban một quyền bính lớn lao cho những nhà chú giải Thánh Kinh và quyền bính rất ít hay không có gì cả cho quyền giáo huấn và cho truyền thống Giáo Hội. Ngài cho biết các nhà chú giải Thánh Kinh thường bất đồng ý kiến và điều đó làm cho đức tin bị tổn thương hơn đối với sự kiện những giả thuyết và những quan điểm luôn luôn thay đổi.
Trong khi Công Đồng thảo luận về vấn đề nầy, cha Ratzinger soạn thảo một bài thuyết trình dựa trên lịch sử để chứng tỏ, như Ngài đã viết sau nầy, là “mạc khải…thì rộng lớn hơn ngay cả đối với những lời ghi trong Thánh Kinh” và Giáo Hội cũng như Thánh Truyền, theo bản chất, cả hai đều bao gồm trong mạc khải.
Nhiều luận cứ nầy cuối cùng đã chiếm ưu thế tại Công Đồng. Về sau nầy Đức Thánh Cha Bênêditô XVI đã gọi Hiến Chế Tín Lý về Mạc Khải của Chúa là một trong những văn bản sáng giá của Công Đồng và là một văn bản mà Giáo Hội chưa am tường thấu đáo.
Theo một quan điểm tổng quát hơn, điều đã làm cho vị Giáo hoàng tương lai cảm thấy bất an nhiều nhất đối với hậu quả tai hại của Công Đồng là cảm tưởng cho rằng mọi việc trong Giáo Hội đều được đem ra duyệt xét lại hết và đường hướng chính trị của trần thế có thể trao lại cho Giáo Hội để lấy quyết định. Ngài đã cảnh báo sự dấy lên của niềm phẫn uất chống lại khuynh hướng Roma và quan điểm về một thứ “giáo quyền của nhân dân” hay “Giáo Hội từ bên dưới” mà trong đó nhân dân xác quyết về định nghĩa “Giáo Hội”. Ngài cũng tỏ ra lo âu về sự tín nhiệm mới mà Công Đồng Vatican II đã truyền đạt nơi các thần học gia đã khiến cho họ cảm thấy mình không còn phụ thuộc các giám mục nữa.
Những sự quan tâm đó được phản ảnh trong nhiều văn kiện được phổ biến trong thời gian Đức Hồng Y Ratzinger đảm trách Thánh Bộ Tín Lý và Đức Tin. Đáng chú ý nhất là vào năm 1984 khi Thánh Bộ cảnh cáo việc sử dụng những khái niệm Mác-xít trong thần học giải phóng. Vào năm 1990 Thánh Bộ kêu gọi những thần học gia bất đồng ý kiến với những giáo huấn của Giáo Hội đừng sử dụng những phương tiện truyền thông để phổ biến quan điểm của mình hay làm áp lực để thay đổi. Và năm 1992 Thánh Bộ tuyên bố các thần học gia không được nhấn mạnh thái quá đến quyền tự trị của các giáo hội địa phương và thu hẹp sự hiệp thông các giáo sĩ vào thực tế có tính cách xã hội.
Vatican II đã mở cửa cho vấn đề đại kết và việc đối thoại liên tôn và Thánh Bộ Tín Lý của Đức Hồng Y Ratzinger đã đưa ra những tiêu chuẩn quan trọng cho cả hai lãnh vực. Vào năm 2000, Thánh Bộ Tín Lý đã ban hành tài liệu “Dominus Jesus” (Chúa Giêsu), nói về sự được cứu rỗi chỉ qua Chúa Giêsu mà thôi và một tài liệu thứ hai về các “Giáo Hội Anh Em”. Cả hai tài liệu đều bị chỉ trích bởi những thành viên tham gia công cuộc đối thoại của Giáo Hội.
Khi tuyên bố Chúa Giêsu Kitô và Giáo Hội cần thiết cho sự cứu rỗi, “Dominus Jesus” đã làm cho một số độc giả có cảm tưởng như văn bản mang tính cách loại trừ, cho dù Vatican đã đoan quyết đó chỉ là một lối diễn tả của đức tin Công Giáo mà thôi. Văn kiện về các “Giáo Hội Anh Em” đã giải bày từ ngữ đó chỉ được sử dụng để diễn tả những giáo hội còn duy trì một giám mục đoàn và Bí Tích Thánh Thể có hiệu lực, như các Giáo Hội Chính Thống Giáo; điều đó bị chỉ trích kịch liệt bởi các nhà lãnh đạo Anh Giáo và Tin lành.
Cả hai văn kiện hoàn toàn dựa trên những giáo huấn của Công Đồng Vatican II để bênh đỡ những luận cứ liên hệ đến hai văn kiện đó. “Dominus Jesus” đã trích dẫn những văn bản Công Đồng hơn 50 lần, kể cả xác quyết về sự “trung gian duy nhất” của Chúa Kitô trong sự cứu rỗi. Khi công bố văn kiện, Đức Hồng Y Ratzinger cho biết ý kiến là Giáo Hội không bao giờ nhấn mạnh chân lý của sứ điệp mình “hoàn toàn khác biệt” với điều mà Vatican II đã xác định.
Trong quyển sách “Giáo Hội, Vấn Đề Đại Kết và Chính Trị” phát hành năm 1987, Đức Hồng Y Ratzinger trình bày rằng để hiểu rõ giáo huấn của Công Đồng về vấn đề đối thoại, người ta phải am tường “giáo huấn nòng cốt” về Giáo Hội như là một cộng đồng hiệp thông. Ngài thối thúc mọi người đọc kỹ hơn cách diễn đạt những văn bản của Vatican II để đối lại ý kiến của một nhóm người chỉ có thể “hội họp nhau, đọc Phúc Âm và nói: ‘Giờ đây chúng ta là Giáo Hội’”.
Ngài cũng tranh luận rằng Công Đồng đã triển khai “giám mục đoàn” như là một thực thể có tính cách thần học, nhưng điều đó đã bị ngộ nhận như một hình thức phân chia quyền bính. Đặc biệt, Ngài đặt thành vấn đề “quyền giáo huấn của các hội nghị giám mục” và vào năm 1985, Ngài tuyên bố là các hội nghị đó “không có căn bản thần học”. Năm 1998 một văn kiện giáo hoàng mà Đức Hồng Y đã giúp soạn thảo nhấn mạnh đến giới hạn quyền bính thuộc các hội nghị các giám mục và Ngài cho rằng những vấn nạn thuộc tín lý không bao giờ được quyết định bằng một cuộc đầu phiếu với đa số.
Sự đa dạng về những công tác mục vụ thuộc giáo dân trong Giáo Hội cũng được Đức Hồng Y Ratzinger xem xét cẩn thận. Bộ Tín Lý đã giúp điều hướng việc soạn thảo một văn kiện vào năm 1997. Văn kiện đó hoàn toàn dựa vào những văn bản của Vatican II đã ca ngợi sự dấn thân của giáo dân trong công việc của Giáo Hội nhưng cảnh cáo việc nhầm lẫn vai trò giáo dân với những thừa tác viên được tấn phong. Trong nhiều trường hợp, Đức Hồng Y Ratzinger đã nhấn mạnh là nhiệm vụ trước tiên của giáo dân được dự kiến bởi Vatican II là phúc âm hóa và thánh hóa thế giới.
Cả hằng trăm lần khi nói hay viết về Công Đồng Vatican II, Đức Thánh Cha Bênêditô luôn ủng hộ uy quyền của những giáo huấn Công Đồng nhưng Ngài cũng tuyên bố chính những giáo huấn đó đòi hỏi một sự học hỏi nghiên cứu thấu đáo, một cái nhìn thận trọng để phân biệt và trên tất cả là một sự hiểu biết thích đáng về Giáo Hội và sứ mệnh của Giáo Hội.
Một cách tổng quát, Đức Thánh Cha Bênêditô XVI đã nhìn Công Đồng qua sự kiện Giáo Hội ảnh hưởng thế gìới chứ không phải thế giới ảnh hưởng Giáo Hội.
Thị kiến đó được phản ảnh rõ rệt trong văn kiện của bộ Tín Lý vào năm 2003 về “người Công Giáo và chính trị”. Văn kiện cho biết những cử tri và những người làm luật phải để đức tin của mình soi chiếu những vấn đề liến quan đến chính trị. Văn bản chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Tân Tiến.
Ngoài những cải tổ trong nội bộ Giáo Hội do Vatican II, Đức Thánh Cha Bênêditô đã nhấn mạnh mục đích rộng lớn hơn của Công Đồng là mang đức tin ra khỏi phạm vi riêng tư và phục hồi đức tin như là một động lực đối với lịch sử.
Để hiểu rõ Vatican II một cách nghiêm chỉnh, Ngài nói người ta phải bắt đầu với câu đầu tiên của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội: “Đức Kitô là ánh sáng muôn dân.” Ngài còn nói thêm là vấn đề ở chỗ Giáo Hội bắt đầu bằng cách nói về Đức Kitô chứ không phải về chính mình.
Theo hảng thông tấn Zenit, ngày 22-12-2005, tại Vatican City, Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã ngỏ ý cuộc khủng hoảng nổi lên trong Giáo Hội tiếp theo sau Công Đồng Vatican II không phài do các văn kiện Công Đồng, nhưng đúng hơn do sự giải thích các văn kiện đó.
Đức Thánh Cha đã phân tích cặn kẽ di sản trao lại do cuộc hội họp vào những năm 1962-1965 của các giám mục trên thế giới, khi Ngài gặp gỡ các cộng sự viên ngày hôm đó tại Giáo Triều Roma để bày tỏ những lời chúc mầng Giáng Sinh của Ngài.
Đức Thánh Cha đã lớn tiếng hỏi: “Điều gì tốt và điều gì khiếm khuyết hay bị hiểu lấm?” trong vấn đề thực thi những văn kiện Công Đồng.
Theo Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI, việc tiếp nhận những sứ điệp của Công Đồng xảy ra tùy theo hai cách giải thích “đối chọi nhau hay thảo luận với nhau.”
Cách giải thích thứ nhất – đối chọi nhau – được Đức Thánh Cha gọi là “khoa chú giải không liên tục và gián đoạn giữa Giáo Hội tiền Công Đồng và hậu Công Đồng.”
Đức Thánh Cha cho biết, theo quan điểm đó, điều gì quan trọng đối với Công Đồng không phải là những văn bản mà là tinh thần đổi mới mang vào Giáo Hội. Theo Ngài nhận xét, quan điểm đó “thường thích sử dụng thị hiếu của giới truyền thông và cũng là một thành phần của nền thần học tân thời.”
Theo Đức Thánh Cha Bênêđitô, cách giải thích thứ hai – thảo luận với nhau – là “khoa chú giải về cải tiến” được đề nghị bởi các Đức Giáo Hoàng đã khai mạc và bế mạc Công Đồng – các Đức Thánh Cha Gioan XXIII và Phaolô VI – và đã mang lại những thành quả “một cách âm thầm nhưng trông thấy rõ rệt.”
Theo quan điểm đó, mục tiêu của Công Đồng và của bất cứ cải cách nào trong Giáo Hội là “truyền đạt giáo lý nguyên tuyền và toàn vẹn, không giảm bớt hay bóp méo”, ý thức rằng “bổn phận chúng ta không những phải lo bảo vệ kho tàng quý báu đó, như thể chúng ta quan tâm không những về thời xa xưa mà còn dấn thân bằng một ý muốn cương quyết và không sợ sệt cho công tác mà thời đại chúng ta đòi hỏi.”
Lặp lại lời Đức Thánh Cha Gioan XXIII, Ngài nói: “Một là kho tàng Đức Tin, tức những chân lý chứa đựng trong giáo lý đáng tôn kính của chúng ta và hai là cách thức những chân lý đó được diễn đạt, tuy nhiên vẫn bảo toàn cũng một ý nghĩa và sự sung mãn.”
Đức Thánh Cha Bêneđitô XVI vạch rõ: theo cách thức đó, Công Đồng đã trình bày một “định nghĩa mới về tương quan giữa đức tin của Giáo Hội và một số yếu tố thiết yếu của tư duy hiện đại.” Ngài còn nhấn mạnh: “Giáo Hội, cả trước hay sau Công Đồng, là một Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, đang lữ hành qua thời gian.”
Ngài còn nói thêm: “Ngày nay chúng ta nhìn lại Công Đồng Vatican II với lòng biết ơn. Nếu chúng ta đọc và lãnh hội, nhờ được hướng dẫn bởi một khoa chú giải thích hợp, điều đó có thể sẽ gia tăng tiềm lực lớn lao đối với sự đổi mới cần thiết trong Giáo Hội.”
(Phỏng theo John Thavis – Vatican City – CNS)
X - TỰ DO TÔN GIÁO HIỆN ĐẠI HÓA NHỮNG QUAN HỆ GIỮA GIÁO HỘI VÀ NHÀ NƯỚC
Linh mục Đa-Minh Yves Congar và hai linh mục Dòng Tên John Courtney Murray và Henri de Bac là những thần học gia vào thập niên 1950 đã bị Vatican bắt phải im hơi lặng tiếng nhưng đã nổi bật lên và trở thành những tiếng nói quan trọng trong Công Đồng Vatican II. Cha Congar và Lubac về sau được chọn làm hồng y.
Một trong những văn kiện cuối cùng được Công Đồng Vatican II chấp thuận và có lẽ là văn kiện được tranh luận nhiều nhất, đó là “Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo” mà cao điểm là Công giáo trong thế giới hiện đại, xét về những tương quan giữa Giáo Hội và nhà nước.
Văn kiện đó đặt nền móng cho Giáo Hội đối phó với những nền dân chủ thế tục, tôn giáo đa nguyên thuộc Tây phương và Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II đã báo động tình trạng bắt bớ Giáo Hội ở những nước Cộng Sản cai trị.
Tuyên ngôn “Dignitatis Humanae” mang lại niềm tín nhiệm của Công Đồng mời gọi đối thoại đại kết và đối thoại với những tín hữu không phải Kitô giáo.
Trong quá trình soạn thảo, văn kiện nầy được phục hoạt do soạn thảo viên chính của tuyên ngôn là cha John Courtney Murray - một linh mục Dòng Tên vào thập niên 1950 đã bị Vatican cấm không được viết về những tương quan giữa Giáo Hội và nhà nước, nhất là những nỗ lực hòa giải Giáo Hội Công giáo với sự tách biệt giữa Giáo Hội và nhà nước theo kiểu Hoa Kỳ. Cuối cùng vị linh mục đó đã được mời tham gia “Văn Phòng Cổ Võ Hiệp Nhất Kitô giáo” của Vatican là cơ quan của Tòa Thánh soạn thảo tài liệu.
Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo tuyên bố rằng, vì nhân phẩm, mỗi cá nhân có quyền dân sự đối với tự do tôn giáo và thực thi niềm tin tôn giáo ở trong cộng đồng với kẻ khác. Đó là một điểm xuất phát rất rõ nét vì từ nhiều thế kỷ trước, Giáo Hội dạy rằng tự do tôn giáo trọn vẹn chỉ thuộc về Giáo Hội Công giáo như là một định chế bởi vì Giáo Hội chứa đựng sự sung mãn của chân lý thiêng liêng.
Trong bài bình luận sau Công Đồng vào năm 1966 - được phát hành sau khi cha qua đời, cha Murray ghi chú như sau: “Giáo Hội không còn ứng phó với trật tự trần thế theo tiêu chuẩn nước đôi: tự do đối với Giáo Hội khi tín hữu Công giáo là thiểu số, đặc quyền đối với Giáo Hội và bất khoan dung đối với kẻ khác khi tín hữu Công giáo chiếm đa số.”
Cha Murray còn viết: “Tuyên Ngôn đã mở đường cho một sự tín nhiệm mới trong những tương quan đại kết và sự thẳng thắn trong những tương quan giữa Giáo Hội và thế giới.”
Tuyên Ngôn công bố: “Quyền tự do tôn giáo được căn cứ trên chính nhân phẩm mỗi cá nhân như được biết đến qua lời mạc khải của Chúa và chính bằng lý trí.” Sự tự do đó phải được nhìn nhận và bảo đảm bởi các quốc gia như là một quyền dân sự bởi vì sự thi hành quyền tự do tôn giáo đòi buộc phải được “chước miễn mọi sự ép buộc từ bên ngoài. Quyền được chước miễn đó tiếp tục hiện hữu ngay cả đối với những ai không sống theo sự bắt buộc phải truy tầm chân lý và bám trụ vào đó.”
Tuyên Ngôn đã được chấp thuận bởi cuộc bỏ phiếu với tỉ số 2,308 - 70 vào ngày 7-12-1965. Đó là ngày bỏ phiếu sau cùng và cũng là ngày trước khi Công Đồng bế mạc.
Công Đồng chỉ chấp thuận sau khi đã “thảo luận một cách sôi nổi” với sự chống đối dữ dội từ nhiều viên chức Vatican và các vị giám mục đến từ những quốc gia mà Giáo Hội Công giáo rất mạnh như Tây-Ban-Nha và Ý-Đại-Lợi, theo như Gregory Baum cho biết. Gregory Baum là một chuyên viên thuộc “Văn Phòng Cồ Võ sự Hợp Nhất Kitô giáo của Công Đồng”. Văn Phòng đã soạn thảo tài liệu tự do tôn giáo vì tầm mức quan trọng đối với vấn đề đại kết. Vào thời điểm đó, Baum còn là linh mục dòng thánh Augustinô.
Sau đó Baum hoàn tục và trở thành giáo sư về tôn giáo học ở Đại Học McGill Montreal và nay đã hồi hưu, cho biết: “Giáo Hội Công giáo đã kết án tự do tôn giáo vào thế kỷ 19 và những người phản đối Tuyên Ngôn không muốn công nhận rằng Giáo Hội đã sai lầm.”
Theo Baum, lập trường trước đây là “chân lý có hết mọi quyền, còn lầm lạc không có quyền nào.” Khi thực hành như vậy có nghĩa là vì họ theo một tôn giáo lầm lạc nên không có quyền tự do tôn giáo, “nhưng điều đó vô nghĩa. Chân lý là một khái niệm trừu tượng. Dân chúng có quyền lợi của họ.”
Baum nhận thấy Tuyên Ngôn đã khiến Vatican duyệt lại những thỏa ước với nhiều quốc gia mà đại đa số theo Công giáo để Công giáo không còn là quốc giáo nữa.
Những người phản đối Tuyên Ngôn lý luận rằng khi chấp thuận nguyên tắc tự do tôn giáo, Giáo Hội tự mâu thuẫn với chính mình. Quan điểm đó ngược lại với quan điểm của các thần học gia khác, như linh mục Murray, theo đó giáo huấn của Giáo Hội cần tiến hóa, căn cứ trên những hoàn cảnh đổi thay, một tiến trình được gọi là sự “triển khai giáo lý”.
Bài bình luận của cha Murray vào năm 1966 cho thấy việc chống đối sự triển khai giáo lý ở đằng sau hầu hết những sự chống đối. Cha Murray viết: “Ý niệm triển khai, chứ không phải ý niệm tự do tôn giáo, là móc điểm thực tế đối với nhiều người chống lại Tuyên Ngôn cho đến cuối cùng.”
Sau cùng, khi Tuyên Ngôn được chấp thuận, cũng có kèm theo một sự nhìn nhận là trong quá khứ Giáo Hội đã vi phạm tự do tôn giáo. Tuyên Ngôn viết: “Dẫu cho ở trong đời sống dân Chúa…có những thời điểm xuất hiện một hình thức đối xử khó mà đúng với tinh thần Phúc Âm và ngay cả ngược lại với Tin Mừng nữa. Giáo huấn của Giáo Hội luôn luôn vẫn là không ép buộc ai phải tin theo.”
Lời thú nhận đó đã được gợi ý bởi Đức Hồng Y Joseph Beran ở Prague, Czechoslovakia, lúc bấy giờ bị đặt dưới quyền thống trị của Cộng Sản. Ghi nhận những vụ thiêu đốt những người ly giáo và những vụ bắt buộc theo Công giáo trong lịch sử quê hương mình, Đức Hồng Y Beran xin Công Đồng chấp thuận Tuyên Ngôn “trong tinh thần đền bù những lỗi lầm trong quá khứ.”
Đức Hồng Y Beran và các nghị phụ đến từ những quốc gia do Cộng Sản chiếm đóng đã liên kết với các giám mục Hoa-Kỳ để trở thành những người ủng hộ Tuyên Ngôn một cách mạnh mẽ. Các giám mục sau bức Màn Sắt nhận thấy cần thiết phải duy trì một số điều giống nhau trong đời sống Giáo Hội ở trên quê hương họ, bởi vì Tuyên Ngôn cổ võ việc thực thi nguyên tắc tự do tôn giáo. Tuyên Ngôn cũng mạnh mẽ kêu gọi Giáo Hội độc lập đối với nhà nước và bảo vệ khỏi bị nhà nước xâm phạm những tôn giáo có tổ chức. Tuyên Ngôn công bố: “Nếu chính quyền dân sự cho mình có quyền kiểm soát hay hạn chế sinh hoạt tôn giáo, phải nói rằng chính quyền đã vượt khỏi giới hạn quyền bính của mình.”
Trong số những người ủng hộ Tuyên Ngôn thuộc khối Sô-viết là Đức Tổng Giám Mục Karol Wojtyla của Krakow, Ba-Lan, về sau được bầu làm Giáo Hoàng Gioan Phao-lồ II năm 1978. Ở trong phòng họp Công Đồng năm 1965, vị tổng giám mục 45 tuổi tranh luận rằng không nhà nước nào có quyền khống chế tôn giáo.
Theo giáo sư Baum, Đức Tổng Giám Mục Wojtyla tỏ ra “xuất sắc đối với văn kiện. Ngài trở thành vô địch về nhân quyền khắp nơi trên thế giới, không chỉ quyền lợi tôn giáo mà thôi, mà còn căn cứ trên nhân phẩm nữa.”
(Phỏng theo Agostino Bono – Washington – CNS)