Nhảy đến nội dung

Cái Nhà là nhà của ta

Cái Nhà là nhà của ta

            Nhắc đến Tết, một hình ảnh không phai trong ký ức tôi là sáng sớm ngày Mồng Một, sau khi đi lễ minh niên về, ba tôi chở cả nhà về quê nội để cùng họ hàng bên nội chúc Tết ông bà tôi. Thông lệ đó đã thành truyền thống của đại gia đình, gia đình chúng tôi ở xa nhất, mãi tận Sài gòn, nên khi về đến nhà nội thì bà con đã tựu về đông đủ, đứng chờ chúng tôi cả bên chái nhà trên. Vừa xuống xe là bà con ào ra tay bắt mặt mừng, xúm xít chào hỏi làm như lâu lắm rồi chúng tôi mới gặp nhau.

            Tục lệ cả xứ Việt Nam tôi, ngày tư ngày Tết ai cũng phải vui, chỉ nói lời nhã nhặn, đôi khi khách sáo một chút, nụ cười luôn nở trên môi để làm vui lòng mọi người. Người ta nói vui như Tết, riêng đối với đứa trẻ như tôi thì vui như Tết ở nhà nội của tôi. Sau khi vào nhà chào ông bà, tất cả mọi người trong gia đình đều có mặt nơi gian giữa, nghiêm trang tề tựu trước mặt ông bà tôi đang ngồi đường bệ trên tràng kỷ, lắng nghe bác tôi đại diện cả họ mừng tuổi ông bà. Bọn con nít chúng tôi xếp hàng phía trước, khi bác vừa dứt lời là cả bọn trẻ con đều phải quì nộp xuống cúi lạy ông bà, người lớn đứng phía sau thì cúi chào cung kính. Hình ảnh ông tôi trong quốc phục áo dài khăn đống, chân đi guốc mộc, bà cũng áo dài chỉnh tề, cùng với ông nói lời cầu chúc cho cháu con luôn được may lành an vui trong năm mới, là điều gì đó thật trang trọng, thật linh thiêng trong ngày Tết cổ truyền đáng quí, tôi nhớ mãi như niềm vui của ngày sum họp trong những ngày thật bình yên, xa lắm. Người già lão xứ tôi, các bậc ông bà cha mẹ luôn luôn được kính trọng, tiếng nói của các ngài luôn được con cháu tuân hành, không dám trái ý.

Từ cổ xưa, người Việt Nam có tục lệ thờ ông bà, gọi là đạo gia tiên, như tôn giáo dân tộc. Phật Giáo, rồi sau nầy Thiên Chúa Giáo La Mã cũng nhìn nhận đạo Gia Tiên, chấp nhận việc thờ kính ông bà như một thuần phong mỹ tục của Việt Nam. Các căn nhà Việt Nam hầu như được cất theo cùng một kiểu từ Bắc chí Nam đều có ba gian, gian nhà giữa luôn luôn có bàn thờ ông bà tổ tiên của gia tộc. Các gia đình Công Giáo, bàn thờ Gia Tiên được thay bằng bàn thờ Chúa. Những gia đình nghèo, căn nhà có lúc chỉ có một gian phía trước dùng làm nơi thờ phượng, có đặt bàn thờ Gia Tiên. Trước nhà có bàn Thiên để thờ Trời, trong nhà có bàn thờ Tổ Tiên, sau nhà bếp thì có ông Táo. Người Công Giáo đã thờ Đức Chúa Trời Ba Ngôi qua tượng Thánh Tâm ở bàn thờ trong nhà nên không cần có bàn Thiên như người bên lương; người Công Giáo biết nhưng không cúng ông Táo, sau nầy có nhà thắp hương ( nhang ) bàn thờ ông bà nhỏ đặt kế bên bàn thờ Chúa. Cả ba nơi thờ phượng trong mỗi căn nhà Việt Nam đều có lễ nghi trong ba ngày Tết. Bàn thờ Gia Tiên là nơi trọng nhứt, phải được chăm sóc, quét dọn, bày biện hương hoa tươm tất chu đáo trong dịp Xuân về. Thờ Phượng là việc không thể thiếu trong gia đình Việt Nam, nên người Việt có tâm tình tôn giáo rất thâm thúy. Từ ngàn xưa người Việt đã biết hướng lòng về Trời. Trời, Đất và Người là ba Linh Thể, người Việt thờ phượng từ thời thái cổ, hài hòa, tương tác không bên nào vượt trội hơn bên nào, khác với các tôn giáo khác xem thần minh là trội mà gạt bỏ con người. Chúa Giêsu đã nói: Thầy không còn gọi các con là tôi tớ nữa, nhưng Thầy gọi các con là bạn hữu ( Ga 15, 15 ). Thiên Chúa không hề chối bỏ hay chà đạp con người, nhưng Ngài luôn ở kề bên, hiện diện như người bạn đồng hành của loài người, một Thiên-Chúa-Làm-Người và luôn ở cùng với con người mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28, 20). Xem vậy, quan niệm tâm linh tôn giáo của người Việt, từ thời thái cổ, đã rất gần với Kitô Giáo.    

            Người Việt có tục lệ thờ ông bà, thờ người từ rất xa xưa, nhưng không vì thế mà  việc thờ Trời ra suy yếu, ngược lại dù hết dạ thờ Trời nhưng không coi khinh yếu tố Người vì Con Người, đối với Việt tộc, là nhân linh trong ba Linh Thể: Trời, Đất và Người. Câu chúc Tết truyền thống của người Công Giáo Việt Nam, tôi được nghe và được dạy luôn luôn bắt đầu bằng câu: Hôm nay ngày Tết, con ( hay cháu, tôi ) xin mừng tuổi ông bà ( hay cha mẹ, cô dì chú bác, cả anh em họ hàng, hoặc bạn bè ), xin Đức Chúa Trời Ba Ngôi ban cho ông bà ( hay cha mẹ…) được mọi sự Lành trong Năm Mới. Giáo lý Công Giáo dạy rằng: Đức Chúa Trời đã sai Con Một mình là Chúa Giêsu xuống thế làm người để dạy con người con Đường Nên Thánh, để được trở về với nguồn cội của mình là Trời. Trời Đất đã được kết hiệp nơi Con Người để biến nhân thành nhân linh do được nên Thánh. Con Đường Nên Thánh đó là con đường bên trong tâm hồn, con đường nội tâm, ngược với con đường hướng ngoại của thế gian. Ý nghĩa của sự vụ là con đường tâm linh phải đi ngược chiều. Có ngược chiều thì nhân mới thành nhân linh ( Kim Định, Sứ Điệp Trống Đồng) được Tổ Tiên Việt Nam ghi khắc trên  mặt trống đồng Đông Sơn hay Ngọc Lữ, để chỉ cho con cháu Việt tộc con đường hướng Tâm, ngược chiều kim đồng hồ, ngược chiều logic của thế gian, để kết hợp với Trời trong Tâm của mỗi người. Thánh Âu Tinh trong một câu ta thán nổi tiếng của ngài, đã nói: “ Ôi Thiên Chúa, Ngài là vẻ đẹp muôn đời cổ kính, nhưng mới mẻ từng ngày. Chúa ở bên trong tâm hồn con, nhưng con lại mãi miết tìm Ngài ở bên ngoài, nên con không gặp được Ngài.”. Và Thánh Âu Tinh kết luận: “ Hồn tôi chỉ được yên hàn khi tôi tìm gặp Thiên Chúa ( bên trong tâm hồn ).” . Như vậy, con đường tâm linh ngược chiều, hướng Tâm để kết hợp với Trời, để Có Trời trong Tâm của Việt tộc từ cổ xưa, đâu trái ngược gì với Đức Tin Công Giáo. Chỉ khác một chút là Ông Trời hay Trời trong Tâm Việt chưa được biết rõ như Đức Chúa Trời là Cha Nhân Lành do Chúa Giêsu Kitô đã mạc khải cho nhân loại; dù Ông Trời, Trời, Hoàng Thiên, Đấng Tạo Hóa, Đức Chúa Trời, hay Thượng Đế chỉ là một.

            Nhà của ông bà tôi là nhà ngói ba gian, được cất trên nền nhà cao mà muốn bước lên thềm nhà phải bước lên ba bậc thang gọi là tam cấp. Hầu hết các căn nhà Việt Nam đều có tam cấp, nhà quan hay nhà giàu có thì cao hơn, bậc thang nhiều hơn; đền vua cao nhất tới 9 bậc, cữu trùng, tất cả đều là bội số của số 3. Số 3 biểu tượng cho Trời, Đất và Người, được gọi là Tam Tài bất phân ly mà người Việt cổ tôn thờ. Số 3 linh thiêng, vững vàng như kiềng 3 chân trong đạo lý Việt Nho rất nhân bản, không loại bỏ con người. Đạo lý nầy được tiền nhân Việt tộc khắc ghi trên trống đồng để nhắc nhở con cháu tinh thần khoan hòa, cần mẫn “ Có Trời mà cũng có ta”, chọn con đường hướng nội, đường ngược chiều càng đi càng gần Tâm, mà Tâm là Trời, cũng có nghĩa càng đi tới người Việt càng gặp Trời trong Tâm an hòa, trong sáng, con đường Duy Tâm. Ngược lại là con đường hướng ngoại, thuận chiều kim đồng hồ, càng đi tới càng xa Tâm, cũng có nghĩa là vong thân, mất cốt lõi tinh thần chỉ còn bề ngoài dễ nhìn dễ thấy nên dễ theo quá đà thành duy vật. Nét ngược chỉ sự siêu linh thuộc đức trời, nét xuôi chỉ vật thể thuộc đức đất. Do vậy nét ngược khó hơn nét xuôi, nét xuôi chiều ai cũng thấy cũng dễ dàng đi theo nên hay đi quá đà, khi đã quá đà thì rơi vào duy vật. ( Kim Định, Sứ Điệp Trống Đồng ). Một chiều kích tôn giáo khác là quá coi trọng thần linh mà loại bỏ con người, tạm gọi là duy linh. Duy Linh quá đà sẽ thành mê tín hoặc cuồng tín nên cắt cổ, chặt đầu, thiêu sống người ta nhân danh Thượng Đế, thì đạo đó chắc chắn không phải là chính đạo, mà là bất nhân, vô đạo.

            Đạo lý Việt Nho không có văn bản ghi chép, nhưng bàn bạc trong đời sống Việt tộc qua tiếng nói, câu hát, cầu hò, ca dao, tục ngữ, thuần phong mỹ tục của dân gian hay những kiểu tượng hình qua cái đình, cái nhà; qua cung cách sống hiền hòa, nhẫn nại của người Việt. Triết lý Việt Nho vì đó cũng vô vi bàn bạc khắp nơi như hồn thiêng sông núi, cho Hồn Việt sống động đi vào Tâm Việt chứa đựng cả Trời Đất mênh mang mà Sứ Điệp Trống Đồng đã khắc ghi trên mặt trống Đông Sơn hay Ngọc Lữ. Con đường tâm linh đi ngược chiều vào Tâm tưởng đóng mà mở vì Tâm có Trời, chứa đựng cả vô biên. Trong Kinh Thánh, những giòng cuối của Khải Huyền cho thấy cuộc lương duyên giữa Thần Khí ( là Thánh Thần Thiên Chúa ) kết hợp với Tân Nương ( là con người ) để tạo tác nhân loại mới trong Trời Mới, Đất Mới mà vào được thành Giêrusalem mới từ Trời xuống ( Kh 21; Kh 22 ) mà Chúa Giêsu là Con Người mới đầu tiên và tiêu biểu. Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài ngự đến ( Kh 22, 20) để lại mở cho nhân loại con Đường Cứu Rỗi, mà nếu nhìn theo triết lý Việt Nho vô vi, không giới hạn, thì đó là con Đường tương quan lao tác giữa Trời và Người mà làm cho Đất thành quê hương Sự Sống vĩnh cữu, hài hòa, bình an cho muôn loài. Tâm có Trời, mà Trời là Đấng Hoàn Thiện thì Tâm Việt cũng phải được rèn luyện để thành Thiện Tâm, Bình An dưới thế cho người Thiện Tâm, ôi con Đường huyền nhiệm vô biên tuyệt vời chỉ được nhìn thấy trong Tâm, từ Tâm mà không loại bỏ Con Người. Rõ ràng là Con Đường Cứu Độ mà Đấng Cứu Thế đã dùng rất nhân bản, đầy Tình Người, đâu khác gì con đường qui Tâm, lập thân của Việt Tộc.

            Tương truyền, sau khi tái thôn tính để lập lại nền đô hộ của Tàu trên Việt mà Hai Bà Trưng, là hai vị Nữ Lưu bất khuất của Việt Nam đã là những người đầu tiên khởi nghĩa chống giặc Tàu ngoại xâm, phá vở mưu toan xâm lược của Tàu, dành lại độc lập cho quê hương Việt được 3 năm ; Mã Viện, ( tiếng miền Nam đọc thành “Mã Diện”, mặt ngựa, như thành ngữ “đầu trâu mặt ngựa” của Việt Nam để chỉ hạng côn đồ, hung ác, cậy quyền thế hiếp đáp dân lành ) ra lệnh tịch thu tất cả các trồng đồng Đông Sơn để tiêu hủy bằng cách đúc thành tượng con ngựa bằng đồng đem về Tàu, và một trụ đồng đặt tại biên giới Việt hoa với lời nguyền được khắc trên trụ: Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt. Thiệt là một tâm địa ác ôn, Mã diện muốn cướp đi Hồn Việt, xóa bỏ tâm đồ dựng Nước và giữ Nước của cha ông ta, mong diệt được tấm lòng bất khuất của dân Việt để chỉ còn lại con đường hướng ngoại mà phục vụ Tàu. May mắn thay, cha ông chúng ta đã chôn dấu được một số ít các trống đồng của tiền nhân mà ngày nay các công trình khảo cổ đã khai quật được. Cho Lời Hịch truyền ngàn năm không mai một, để con cháu Việt tộc hãy còn đọc được tâm đồ dựng Nước và giữ Nước của tiền anh anh hùng.

            Ngược lại với con đường ngược chiều qui tâm hướng nội, là con đường ly tâm hướng ngoại, một con đường logic tưởng là mở nhưng lại đóng. Không cần dông dài, chỉ cần nhìn vào thế giới hôm nay sẽ thấy ngay điều gì con đường ly tâm, hướng ngoại ấy đã mang lại cho nhân loại. Trở lại định nghĩa của cha Kim Định: nét xuôi chiều ai cũng thấy cũng dễ dàng đi theo nên hay đi quá đà, khi đã quá đà thì rơi vào duy vật. Chủ thuyết Cộng Sản Duy Vật ngoại lai đã du nhập vào Việt Nam, thành chủ đạo thống trị một Đất Nước hơn 4000 năm văn hiến, biến người dân thành vong thân, vong bản ngay trên quê hương của mình, thì ngày mất Nước, mất Nhà không còn xa, đau thương thay dân Việt ! Nhìn vào Cộng Sản không ai chối bỏ được cái xấu xa của duy vật. Nhưng chưa hẳn chỉ có Cộng Sản là duy vật, các nước Tây Phương bấy lâu nay đi theo chiều logic kim đồng hồ nên dễ dàng hướng ngoại. Hướng ngoại đã thành chủ đạo bao trùm thế giới do ảnh hưởng mạnh mẻ của phương Tây, của Âu Mỹ, trên toàn thế giới. Con đường logic của khoa học thực nghiệm đã thành công và rất thành công, đưa nhân loại lên nền văn minh vật chất siêu đẳng như hiện nay. Nhưng quá siêu đẳng để làm người ta quên đi con đường nội tâm, mất gốc, mất cốt lõi tinh thần, mất linh hồn mà quá đà thành vô tâm, duy vật, ai cũng thấy. Con đường hướng ngoại logic đã biến con người thành vong thân, vong bản, vô nhân, chối bỏ con người chỉ coi vật chất là trọng, chạy theo bề ngoài, coi trọng tiền bạc, giàu sang, quyền lợi bên ngoài hơn con người mà hủy diệt con người. Nền văn minh vật chất, chối bỏ con người, chỉ cần quyền lợi kinh tế với tất cả logic của nó đang đưa nhân loại vào con đường hủy diệt không xa. Con người đã mất quân bình trong đời sống, đừng trách chi những tàn độc, hung ác đang dần dần lộ hình qua chiến tranh, bạo lực, khởi đầu những cơn đau đớn ( Mt 24, 8) Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất ( Mt 10, 39). Con đường hướng ngoại tưởng mở mà đóng là vậy.

            Vì vận nước quá điêu linh, 1000 năm đô hộ giặc Tàu, 100 năm đô hộ giặc Tây, 20 năm nội chiến từng ngày ( Trịnh Công Sơn, Gia Tài Của Mẹ ) người Việt Nam đã mất con đường hướng nội mà thành vong thân, vong bản, chỉ biết chạy theo đồng tiền và vật chất, mất đi Khí Hạo Nhiên chí đại, chí cương bên trong tâm hồn, nên biết bao cảnh thương tâm đã xãy ra. Những nàng Kiều Việt Nam thời đại vì tiền mà bán rẻ nhân phẩm quên mất “ Chữ Tâm kia mới bằng 3 chữ Tài ”( Nguyễn Du, Đoạn Trường Tân Thanh ). Xét cho cùng, những dòng Việt Sử chính tông, huyền sử hay lịch sử, chỉ được chính thức dạy dỗ cho học sinh trung tiểu học miền Nam Việt Nam chưa quá 20 năm, chưa tròn một thế hệ, thì lại bị cắt đứt thay thế bằng những dòng sử pha trộn ngoại lai thời cộng sản thuộc, như Tàu thuộc hay Pháp thuộc, làm dân Việt đã mất Nước thành mất gốc. Bây giờ để tìm lại, thì cần tìm lại con đường Hướng Tâm theo bản sắc Việt, mới mong tìm lại được con người Việt để lại kiên cường. Vấn đề có cần duy trì nền văn hóa ấy chăng, xin thưa ngay là rất cần, trước là cho dân tộc đang cần một chủ đạo hướng dẫn công cuộc phục quốc kiến quốc mà ngoài gốc nguồn bản địa không tìm đâu được chủ đạo ứng hợp hơn. Sau là hy vọng giúp vào con đường xây đắp văn hóa nhân tộc: hiện nay văn hóa hoàn cầu đang trải qua cơn khủng hoảng trầm trọng từ nền móng. ( Kim Định, Sứ Điệp Trống Đồng, Lời Tựa ). Ước chi dân Việt biết tìm đọc những giòng Việt Sử chính tông, tìm hiểu đào sâu văn hóa Việt như một thứ kinh điển Khải Triết cần thiết để duy trì văn hóa dân tộc, trong đời sống dân Việt khắp nơi, tìm lại nguồn Việt Lạc Hồng để sống còn.

Về Nguồn, người Việt đã nghe danh từ nầy rất nhiều hiện nay, nhưng về nguồn không có nghĩa là chỉ xây cất những mái nhà cong vút quan liêu kiểu cách bằng vật liệu đắt tiền để khoe giàu, khoe sang; không phải là những chiếc áo dài sặc sỡ thêu rồng thêu phượng kim tuyến lấp lánh lòe loẹt, lại thêm cái khăn quàng to tày rế đội đầu như phường tuồng; cũng không phải chỉ biết khua chiên đánh trống inh ỏi mọi nơi mọi lúc mà không biết gì hơn. Nhưng Về Nguồn có nghĩa là tìm biết tận căn cốt lõi tinh thần Nhân bản hài hòa giữa và với Trời và Đất, như cha ông truyền dạy. Là học hỏi để nâng cao văn hóa, hiểu biết văn hóa Việt tộc thâm sâu, không chạy theo vật chất bề ngoài. Là rèn luyện nhân cách, rèn luyện Tâm Trí trên con đường Thiện Tâm trong tâm hồn, nhưng không quên đi tình liên đới với đồng bào, đồng loại. Ôi cao quí thay chữ Đồng Bào của Việt Tộc mà hiểu được nguồn gốc của người Việt mình, chung một Mẹ Việt Nam.

Nghĩ về trời Xuân dân tộc, tôi bỗng nhớ biết bao lời hát chất ngất ngày nào được cùng các bạn tôi cất cao lời trong những lần cắm trại, đi chơi du hành dã ngoại, hay những buổi làm việc thiện nguyện với anh chị em Thanh Niên Thiện Chí ngày còn là sinh viên:

 

Ôi Quê Hương ta đẹp tươi đứng trong Trời Đất.

Ta yêu quê ta, thì đâu có bao giờ mất.

Yêu giống nòi mình lầm than mãi rồi.

Yêu tiếng lòng chẳng biết sao nguôi.

Trong ngày Tết năm nay, con ước mong được cùng hát lại với các Đồng Bào khắp nơi của con bài đồng dao mà con đã được dạy, đã học thuộc từ tấm bé, như một nén hương lòng con gởi về Quê Cha Đất Tổ:

Cái Nhà là nhà của ta,

Công khó Cha Ông lập ra

Chúng ta phải gìn giữ lấy

Muôn Năm với Nước, Non, Nhà

 

Cái nhà là Nhà của ta…

Nam Hoa

Tác giả: