Chúa đã tìm đến tôi khi tôi cần nhất
- T5, 22/05/2025 - 15:06
- Lại Thế Lãng
CHÚA ĐÃ TÌM ĐẾN TÔI KHI TÔI CẦN NHẤT.
Tác giả: Mary Ann Johnston - Lại Thế Lãng chuyển ngữ
Mẹ Têrêsa thường nhìn thấy Chúa trong “những người nghèo nhất trong những người nghèo”. Hai lần trong đời, tôi là một trong những người cần nhất này. Một lần là khi tôi là một người ăn xin, ngồi với một tách cà phê trống rỗng trên bậc thềm nhà thờ, tìm kiếm những đồng xu từ những người đi lễ sáng Chủ Nhật.
Nhưng trước đó đã đến thời kỳ nghèo đói về mặt tinh thần, khi tôi ở giữa những người nghèo nhất trong số những người nghèo mà không nhận ra điều đó. Chính trong mùa đen tối này, tôi đã nhận được sự bố thí đầu tiên—không phải từ những người qua đường tử tế, mà từ chính Chúa.
Lần gặp gỡ đầu tiên. Chuyện xảy ra trong kỳ nghỉ ở Châu Âu, nơi tôi đã muốn đến từ lâu. Paris là điểm dừng chân đầu tiên của tôi, và sáng hôm sau khi đến nơi, tôi đi thẳng đến Nhà thờ Đức Bà.
Tôi đến đó với tư cách là một du khách, không phải là một người hành hương, vì tôi đã mất đức tin trong năm cuối tại một trường trung học Công giáo. Tôi đã đặt câu hỏi về những sự thật mà tôi từng tin và coi Giáo hội như một khuôn mặt có thẩm quyền để chống lại. Cùng với sự nổi loạn của tôi là cảm giác cô đơn, tổn thương và tuyệt vọng. Vì vậy, khi tôi bước vào Notre Dame, tôi vẫn đang tìm kiếm, vẫn mang theo tất cả những hành trang này.
Tôi đang chiêm ngưỡng tác phẩm nghệ thuật và những ô cửa sổ kính màu tuyệt đẹp, thì đột nhiên tôi thấy một Thánh lễ đang diễn ra ở một trong những nhà nguyện bên cạnh. Khi tiếng chuông Thánh hiến vang lên, Chúa đã mở lòng và mở trí tôi. Một sự nhận thức vui mừng dâng trào trong tôi: Đây chính là nó! Đây chính là câu trả lời! Đây chính là điều tôi đang tìm kiếm! Quá xúc động, tôi quỳ xuống cùng với những người thờ phượng khác.
Tôi ở lại nhà thờ một lúc, khóc vì vui sướng và cảm thấy một mong muốn lớn lao được đi xưng tội. Không tìm thấy một linh mục nói tiếng Anh, tôi bày tỏ sự ăn năn của mình bằng cách bố thí cho một người ăn xin đang đứng ở phía sau. Đó là số tiền mà tôi đã dự trù cho bữa tối của mình, nhưng số tiền đó có là gì so với những bố thí mà Chúa vừa ban cho tôi?
Tôi rời Notre Dame với một bài hát trong tim. Tôi đã đưa ra lựa chọn và con đường của tôi đã rõ ràng: Tôi sẽ quay lại nhà thờ mà tôi đã vô cùng yêu mến khi còn nhỏ. Đó là một cuộc sống hoàn toàn mới. Khi tôi trở về nhà ở Thành phố New York, tôi đã ngay lập tức đi xưng tội.
Chỉ có Chúa mới biết điều gì đang chờ đợi phía trước. Bằng cách kéo tôi đến với Ngài, Ngài đang chuẩn bị cho tôi một thử thách khi tôi cần Ngài hơn bao giờ hết.
Vào bóng tối. Một năm sau, khi tôi mới hai mươi ba tuổi, bệnh tâm thần đã tấn công. Tôi sống ở nhà, làm phóng viên cho một tờ báo địa phương. Dưới áp lực phải làm công việc của hai người, tôi đã ngã gục trong phòng tin tức trước mặt các đồng nghiệp.
Vấn đề còn nghiêm trọng hơn cả căng thẳng do làm việc quá sức. Tôi mất hết liên hệ với thực tế. Sau một lần suy sụp khác ở nhà bố mẹ, tôi được đưa đến khoa tâm thần của một bệnh viện địa phương. Ở đó, tôi được chẩn đoán mắc chứng tâm thần phân liệt hoang tưởng, một căn bệnh về não gây ra ảo tưởng—suy nghĩ sợ hãi và nhìn thấy, nghe thấy những thứ không thực sự tồn tại. Đó là xuống địa ngục. Tôi thậm chí không thể đếm được mình đã ra vào khoa tâm thần bao nhiêu lần trong những năm sau đó.
Căn bệnh của tôi tiếp tục gây ra cho tôi nhiều vấn đề. Khoảng năm năm sau khi tôi suy sụp, tôi bỏ nhà đi, bỏ lại gia đình lạc lõng và sợ hãi không biết tôi đang ở đâu, thậm chí không biết tôi còn sống hay đã chết. Bố mẹ, anh chị em tôi không biết phải tìm ở đâu. Họ thuê thám tử tư; cảnh sát đang tìm kiếm. Nhưng tôi đã biến mất.
Tôi đã dùng hết tiền tiết kiệm cả đời để mua vé máy bay và bay thẳng đến Los Angeles. Ở đó, tôi lang thang trên phố, không biết mình đang ở đâu hay thậm chí mình là ai. Tôi đi từ nhà thờ này sang nhà thờ khác—ăn xin trên bậc thềm, tìm kiếm thức ăn và nhận trợ giúp tại các nhà xứ và tu viện.
Nhưng có điều gì đó đã lôi kéo tôi vào những nhà thờ đó. Mặc dù tôi thậm chí không biết tên mình hoặc tôi bị bệnh tâm thần, tôi vẫn cố nhớ lại rằng Chúa yêu tôi và ở bên tôi. Tôi ngồi hàng giờ trước Mình Thánh Chúa chỉ để nói chuyện với Cha trên thiên đàng. Tôi nói với Người rằng tôi yêu Người nhiều như thế nào và tôi hối hận về những tội lỗi trong quá khứ của mình ra sao. Hãy nhìn xem tôi đã làm gì với Người, nhưng Người vẫn ở đây với tôi, tôi muốn nói như vậy. Trái tim tôi tan vỡ vì tình yêu.
Thật kỳ lạ, tôi không nhớ mình đã cầu xin Chúa đáp ứng nhu cầu của mình trong thời gian đó. Bằng cách nào đó, tôi biết rằng chính Người đã giúp tôi sống sót ngoài kia trên phố. Người là bạn và là người đồng hành đã dịu dàng chăm sóc tôi. Bất cứ nơi nào tôi đến, Người đều ở bên tôi.
Trở về nhà. Một năm sau khi tôi mất tích, tôi đang lang thang quanh một nhà ga xe lửa thì đột nhiên, số điện thoại của dì tôi hiện ra trong đầu tôi. Cùng với đó là ý nghĩ: Gọi về nhà. Đó là lần đầu tiên ý nghĩ đó xuất hiện trong đầu tôi.
Tôi tình cờ có một vài đồng xu trong túi, vì vậy tôi tìm thấy một chiếc điện thoại công cộng, quay số. Khi em họ tôi trả lời, tôi thậm chí còn nhớ mình là ai: "Debbie, Mary Ann đây." Tôi đưa cho cô ấy số điện thoại mà tôi đang gọi và cúp máy. Vài phút sau, điện thoại reo. Đó là cha tôi. "Đi đến sân bay, lên máy bay và bay về nhà," ông nói. "Cha sẽ chuyển tiền qua điện tín cho con."
Bằng cách nào đó, bệnh tình của tôi đã thuyên giảm đủ để tôi có thể làm theo chỉ dẫn của ông. Tôi nhận tiền, bằng cách sử dụng giấy phép lái xe mà tôi đã không nhìn đến trong một năm. Không nhớ rõ mình sẽ đi đâu, tôi bay đến Washington, D.C., rồi đến Newark. Và Chúa vẫn đang dõi theo tôi. Khi tôi đến sân bay Newark, tôi nhìn thấy chú tôi, người vừa mới xuống máy bay. Chú đưa tôi đến nhà chú; sáng hôm sau, dì tôi lái xe đưa tôi về nhà với bố mẹ tôi trong tâm trạng nhẹ nhõm.
Tôi lại quay lại khoa tâm thần, nhưng lần này mọi thứ đã tốt hơn. Bóng tối đã biến mất, và cả mong muốn chạy trốn cũng vậy. Dần dần, với sự giúp đỡ của thuốc, tôi bắt đầu hoạt động bình thường trở lại. Tôi chuyển đến căn hộ của riêng mình, rồi quay về sống với mẹ sau khi cha tôi mất. Khi bà mắc bệnh ung thư ruột kết, tôi đã chăm sóc bà cùng với chị gái tôi.
Nhờ ơn Chúa, tôi đã đi được một chặng đường dài. Tôi đã tìm thấy mục đích sống của mình, đó là yêu Chúa và sống cho Ngài trọn vẹn nhất có thể. Tôi đã gia nhập Dòng ba Thánh Đaminh, lấy tên là Sơ Therese Margaret. Tôi cũng là thành viên của hiệp hội “Những Người Đồng Công Đau Khổ” của Mẹ Teresa, những người tận tụy cầu nguyện cho các Nữ tu Truyền giáo Bác ái.
Người ban tặng hào phóng. Những trải nghiệm của tôi khi là một trong những người nghèo nhất trong số những người nghèo đã thay đổi tôi mãi mãi. Bây giờ tôi biết rằng Chúa rất gần. Khi tôi nhìn lại những buổi sáng Chủ Nhật khi tôi đi xin bố thí, tôi gần như có thể thấy Chúa đang ngồi đó trên bậc thềm bên cạnh tôi. Mẹ Teresa đã đúng: Ngài thực sự hiện diện trong những người nghèo nhất trong số những người nghèo—đó là lý do tại sao tôi luôn nói với mọi người rằng đừng bao giờ đi ngang qua một người ăn xin mà không cho họ thứ gì đó.
Thiên Chúa luôn ban ơn cho chúng ta. Người có thể đến với chúng ta theo những cách bí ẩn hoặc bất thường, nhưng cũng có thể đến trong những sự việc và khó khăn hàng ngày. Người tỏ mình ra với những ai đang cầu nguyện sâu sắc trước Mình Thánh Chúa, nhưng cũng có thể tỏ mình ra với những du khách tham quan không quan tâm đến Người.
Thiên Chúa cúi xuống từ thiên đàng và lau khô những giọt nước mắt của người ăn xin, kẻ nổi loạn, kẻ tội lỗi sợ hãi ăn năn không biết đi về hướng nào. Đối với mỗi người chúng ta, Người ban bố của bố thí. Và khi chúng ta gặp Người và nhận được những gì Người ban tặng, chúng ta không bao giờ còn như cũ nữa.