Nhảy đến nội dung

Cùng chết để cùng sống lại với Chúa Giê-su - Ông đã thấy và đã tin

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

LỄ VỌNG PHỤC SINH C

St 1,1-2,2 ; Xh 14,15-15,1a ; Is 54,5-14

Ed 36,16-17a.18-28 ; Rm 6,3-11 ; Lc 24,1-12

CÙNG CHẾT ĐỂ CÙNG SỐNG LẠI VỚI CHÚA GIÊ-SU

I.HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Lc 24,1-12

(1) Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn. (2) Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. (3) Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả. (4) Họ còn đang phân vân, thì kìa hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ. (5) Đang lúc các bà sợ hãi cúi gầm xuống đất, thì hai người kia nói: “Sao các bà lại tìm Người sống ở giữa kẻ chết? (6) Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê, (7) là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại. (8) Bấy giờ các bà nhớ lại những điều Đức Giê-su đã nói. (9) Khi từ mộ trở về, các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. (10) Mấy bà nói đây là bà Ma-ri-a Mácđala, và bà Ma-ri-a mẹ ông Giacôbê. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các Tông đồ như vậy. (11) Nhưng các ông cho là chuyện lẩn thẩn, nên chẳng tin. (12) Dầu vậy, ông Phê-rô cũng đứng lên chạy ra mộ. Nhưng khi cúi nhìn, ông chỉ thấy những khăn liệm thôi. Ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về những sự việc đã xảy ra.

2. Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay tường thuật biến cố Phục Sinh của Đức Giê-su theo thứ tự như sau:

- Sự kiện mồ trống: Ngày từ sáng sớm ngày thứ nhất, mấy người phụ nữ đã đi ra mộ để xức dầu thơm cho Đức Giê-su. Tới nơi, họ thấy tảng đá che ngoài cửa mộ đã được lăn sang một bên, nhưng không thấy xác Thầy trong mộ.

- Sứ điệp Phục sinh: Họ đang thắc mắc thì có hai thiên sứ hiện ra cho biết Đức Giê-su không còn ở trong mộ của kẻ chết nữa, nhưng đã sống lại, đúng như Người đã nói tại Ga-li-lê.

- Tông đồ cứng tin: Các bà vội trở về báo tin cho Nhóm Mười Một những điều mới xảy ra. Nhưng các ông không tin và coi là chuyện lẩn thẩn.

- Phê-rô kiểm chứng: Tuy vậy, để biết rõ thực hư, Phê-rô cũng chạy ra mộ và đã thấy những khăn liệm còn để lại. Ông trở về nhà và rất ngạc nhiên về những sự việc vừa xảy ra.

3. CHÚ THÍCH:

- C 1-3: + Ngày thứ Nhất trong tuần:Từ ngày Đức Giê-su phục sinh, ngày thứ Nhất hôm nay sẽ trở thành ngày Hưu lễ của Ki-tô giáo, thay cho ngày thứ Bảy (Sabát) của Do Thái giáo, và gọi là Chúa nhật nghĩa là Ngày của Chúa. + Các bà đi ra mộ: Các bà này gồm bà Ma-ri-a Mácđala, bà Gio-anna, và bà Ma-ri-a mẹ ông Giacôbê và mấy bà khác nữa (x. Lc 24,10). + Mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn:Khi ra thăm mộ, các bà đem theo dầu thơm để hoàn tất việc mai táng Chúa Giê-su, đã được ông Giôsép Arimathê vội vã thực hiện vào chiều thứ Sáu trước ngày Sa-bát (x. Mc 15,42.47). + Họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả:Đây là lần thứ nhất Tin mừng Lu-ca dùng từ “Chúa Giê-su” để nhấn mạnh tước hiệu mới của Người là “Chúa”. Về sau sách Công vụ sẽ nhiều lần dùng từ này để gọi Đức Giê-su (x. Cv 1,21; 8,16; 15,11).

- C 4-5: + Phân vân: Vì không thấy thi hài Đức Giê-su trong mộ nên các bà phân vân lo lắng không biết người ta đã đem xác Thầy đi đâu (x. Ga 20,2). + Hai người đàn ông y phục sáng chói đứng bên họ:Sau này các bà khẳng định đó là hai vị thiên thần (x. Lc 24,23). + “Người sống”: Giờ đây Đức Giê-su trở thành “Người sống”, đúng như Lời Người đã nói (Ga 11,25).

- C 6-7: + Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi: Thiên thần bảo cho các bà biết về mầu nhiệm Đức Ki-tô đã từ cõi chết sống lại (x. Rm 6,9). Từ đây Người mở ra một con đường sống cho những kẻ đã an giấc ngàn thu (x.1 Cr 15,20-26). + Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê:Đối với Lu-ca, toàn bộ mầu nhiệm vượt qua phải được hoàn tất tại Giê-ru-sa-lem (x. Lc 9,51), để Giê-ru-sa-lem trở thành nơi xuất phát thông điệp ban ơn cứu độ (x. Lc 24,49). Do đó, trong sách Công Vụ Tông Đồ của Lu-ca, các Tông đồ đã được Đức Giê-su Phục Sinh trao cho sứ vụ làm chứng nhân cho Người bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem (x. Cv 1,8).

- C 12: + Phê-rô cũng đứng lên chạy ra mộDù không tin Thầy sống lại, nhưng Phê-rô cũng đi kiểm chứng thực hư. Kết quả ông chỉ nhìn thấy khăn liệm (x. Lc 24,12a). Còn Tin mừng Gio-an thì thuật lại cuộc chạy đua ra mộ giữa hai Tông đồ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,3-4).

4. HỎI ĐÁP:

HỎI 1: Đức Giê-su được môn đệ liệm xác theo phong tục Do thái ra sao?

Đáp: Việc liệm xác Đức Giê-su được thực hiện theo phong tục Do thái gồm các công đoạn như sau: Trước hết là tắm xác, nghĩa là lau chùi các vết máu cùng các vết nhơ khác trên cơ thể Người. Sau đó Đức Giê-su được đặt trên một tấm khăn vải trắng, rồi được bôi một loại dầu thơm đắt tiền (x Ga 12,3-7), được chế biến từ nhựa cây cam tùng và được gọi là mộc dược. Dầu thơm được bôi trên toàn thân Người nhiều lần cho ngấm dần vào da thịt để bảo quản xác khỏi bị hư hoại trong một thời gian dài. Rồi xác Người được quấn lại bằng băng vải từ đầu đến chân (x. Ga 19,40). Cuối cùng xác Người được môn đệ an táng trong một ngôi mộ mới đục sâu trong đá và các ông làm một phiến đá lớn làm của che kín phía ngoài mộ (x. Ga 19,41-42).

HỎI 2: Tại sao các môn đệ lại phải vội vã an táng Đức Giê-su?

ĐÁP: Sở dĩ có việc mai táng vội vã là do Luật Mô-sê qui định: cấm mai táng vào ngày Sabát, và xác tử tội đang bị treo trên thập giá phải được hạ xuống trước khi mặt trời lặn (x. Đnl 21,22-23). Đức Giê-su chết lúc 3 giờ chiều áp ngày Sabát, nên thời gian còn lại từ 3 đến 6 giờ là quá ngắn, không đủ để làm đủ các công đọan của việc mai táng, nên các môn đệ phải làm cách vội vã cho kịp thời gian Luật cho phép.

HỎI 3: Sự phục sinh của Chúa Giê-su có giống sự phục sinh của các người đã chết và được Người cho sống lại không?

ĐÁP:

Sự Phục sinh của Đức Giê-su không phải là được hồi sinh trở về với cuộc sống trước khi chết, giống như các trường hợp của chàng thanh niên con trai bà goá thành Naim, bé gái 12 tuổi mới chết đang nằm trên giường, hay như ông La-da-rô bạn thân của đức Giê-su đã chết chôn trong mồ  4 ngày được Người cho sống lại. Cả ba trường hợp này, người chết đều sống lại, nhưng sự sống lại này chỉ là trở lại với đời sống cũ trước khi chết. Nghĩa là họ vẫn còn nằm dưới quyền lực của sự chết, và đến một ngày nào đó họ vẫn phải chịu chung số phận của mọi người “là cát bụi sẽ về với cát bụi”.

Trường hợp phục sinh của Chúa Giê-su lại hoàn toàn khác hẳn. Quả thực, Người đã chết, nhưng Ngài đã phục sinh, nghĩa là Người hoàn toàn chiến thắng sự chết, Người không sống lại để sống thêm một thời gian rồi chết lại. Sống lại đối với Chúa Giê-su nghĩa là từ đây Người đón nhận sự sống mới sung mãn đến độ sự chết không thể chi phối được Người nữa; cũng như không một định luật tự nhiên nào có thể chi phối được Người nữa. Cụ thể là vào buổi chiều ngày Thứ Nhất trong tuần sau khi từ cõi chết sống lại, Đức Giê-su đã đến với các môn đệ trong khi cửa phòng đóng kín vì sợ người Do thái. Đức Giê-su đã nói chuyện với họ, ăn uống trước mặt họ. Một vài người trong bọn còn được sờ vào vết đinh ở bàn tay bàn chân và vết đâm ở cạnh sườn Người, giống như sờ một người đang sống chứ không phải một bóng ma người chết. Đó chính là sự sống lại mà các môn đệ Đức Giê-su đều cảm nghiệm được mỗi lần Người hiện ra với họ.

II.SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi” (Lc 24,5-6).

2. CÂU CHUYỆN:

1) PHIM “CHIẾC CẦU SÔNG QUAI”: SỰ HỒI SINH TINH THẦN

Cuốn phim “Chiếc cầu sông Quai” kể về một câu chuyện đã xảy ra trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Trong khi giao chiến, một số quân nhân đồng minh đã bị quân Nhật bắt làm tù binh, và được mang tới vùng biên giới giữa Miến Điện và Thái Lan, để làm công việc lao động khổ sai: xây một tuyến đường sắt vận chuyển vũ khí chiến tranh cho quân Nhật. Cuộc sống ở trại tù này rất khắc nghiệt: Mỗi ngày tù binh phải làm công việc xẻ đá để làm đường trên cầu sông Quai, dưới cái nắng nóng giống như bên lò lửa. Họ bị bọn cai tù Nhật đối xử tàn tệ và đến lượt họ lại biến thành những kẻ độc ác, đối xử với bạn tù bằng luật rừng, trộm cắp đồ ăn, nghi kỵ đánh lộn và chém giết nhau, nhất là sẵn sàng chỉ điểm cho bọn cai tù khi có ai muốn vượt ngục

Nhưng rồi trong số tù nhân trên có hai người là bạn thân đã hình thành một nhóm người thay vì dùng thời gian nghỉ để bài bạc thì đã họp nhau chia sẻ Lời Chúa. Nhờ nhóm học hỏi Kinh Thánh này, mà các bạn tù đã dần dần khám phá ra có Đức Ki-tô đang hiện diện giữa họ. Người luôn thấu hiểu và sẵn sàng cảm thông với nỗi đau của họ, bởi vì xưa Người cũng đã từng trải qua những nỗi đau khổ, từng chịu cảnh đói khát mệt mỏi, bị môn đồ phản bội, bị kẻ thù đánh đòn và sau cùng chịu chết cách nhục nhã trên cây thập tự. Từ đó, các tù nhân không còn nghĩ mình là nạn nhân của một cuộc chiến dã man tàn khốc, không còn làm tay sai chỉ điểm cho kẻ thù, không còn trộm cắp lẫn nhau… thay vào đó đối xử với nhau bằng tình huynh đệ, thể hiện qua việc cầu nguyện và quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Từ đó trong trai tù, bầu khí vui tươi đã dần dần thay thế bầu khí ngột ngạt căng thẳng. Sự biến đổi trong trại tù “cầu sông Quai” chính là một phép lạ, khiến các tù nhân tin tưởng đoàn kết giúp đỡ nhau thay vì nghi kỵ thù ghét làm hại lẫn nhau. Sự biến đổi này là sự sống lại, giống như mầu nhiệm Đức Giê-su từ cõi chết trỗi dậy.

2) NIỀM TIN VỀ SỰ SỐNG ĐỜI SAU CỦA MỘT SỐ LÃNH TỤ NỔI TIẾNG:

Hầu như mọi người, mọi dân tộc trên thế giới đều tin có sự sống vĩnh hằng sau cái chết, ngay cả những người đã từng khẳng định mình không theo một tôn giáo nào cũng tin như thế.

Ngày 19 tháng 9 năm 1987, nhân khi tiễn Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II khi kết thúc chuyến viếng thăm Hoa kỳ, Phó Tổng thống Bush đã kể lại câu chuyện về Chủ tịch Trung Quốc là Mao Trạch Đông mà ông Bush đã có dịp gặp gỡ trước khi ông này chết. Trong lần ấy, Chủ tịch Mao đã tâm sự với ông Bush như sau: “Tôi sắp sửa về Trời. Tôi đã nhận được lời mời gọi của Chúa”. Còn Tổng thống Míttơrăng (F. Mitterand) của nước Pháp thì trong mấy ngày cuối đời đã trả lời về cái chết với phóng viên của một tờ báo như sau: “Nếu có Chúa, thì tôi tin rằng Người sẽ nói với tôi: Cuối cùng thì anh cũng đã đến đích. Thôi mau vào đi !”.

3) TẦM QUAN TRỌNG CỦA MẦU NHIỆM PHỤC SINH:

Một cuốn phim tựa đề “Thế giới chìm trong bóng tối” trình bày câu chuyện về một nhà khảo cổ danh tiếng đứng đầu một cuộc khai quật khoa học tại Mồ Thánh Chúa ở Giê-ru-sa-lem.

Ngọn đồi Golgotha đã được các nhà khảo cổ cẩn thận đào bới, vì Tin Mừng Gio-an thuật lại  thân xác Đức Giê-su đã được an táng trong một ngôi mộ, cạnh nơi Người bị hành hình thập giá. Sau nhiều ngày đào bới cẩn thận, ngày nọ nhà khảo cổ chủ nhiệm công trình tuyên bố: “Chúng tôi đã tìm thấy xác ông Giê-su”. Sau đó ông ta tổ chức một cuộc họp báo quy tụ hàng trăm ký giả các nơi để trình bày kết quả cuộc đào bới của đoàn khảo cổ do ông lãnh đạo. Ông đã đưa ra trước mặt mọi người một cái xác người đã bị khô đét, tay chân người này có dấu đinh bị đâm thủng, cạnh sườn có vết lưỡi đòng đâm thâu và những vết máu còn in trên tấm khăn liệm xác.

Cuốn phim quay lại cảnh nhiều người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ hét to: “Đây đúng là một sự thật hiển nhiên không thể chối cãi: Ông Giê-su thực sự đã bị đóng đinh, đã chết và được mai táng trong mồ như lời thánh kinh đã ghi nhận”. Nhà khảo cổ liền xác nhận: “Vâng đúng thế. Ông Giê-su đã bị đóng đinh, đã chết và được môn đệ an táng trong mồ. Nhưng làm gì có chuyện sống lại, bởi vì xác của ông ta vẫn còn nằm đây mà chúng tôi đã tìm thấy được”.

Sau đó cuốn phim mô tả về hậu quả của cuộc tìm thấy xác Đức Giê-su:

- Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.

- Một linh mục đã tắt đèn cạnh Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa đi và đóng cửa nhà thờ.

- Chuông các thánh đường đều im tiếng.

- Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.

- Thánh giá tại nhiều nơi đã bị hạ xuống.

- Các ngọn nến Phục Sinh tại các nhà thờ bị tắt ngủm.

- Thế giới chìm trong một màn đêm u tối dày đặc.

Cuốn phim kết thúc với cảnh nhà khảo cổ đang hấp hối trên giường bệnh. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã phải thú nhận: “Tôi đã đánh lừa cả thế giới. Chính tôi đã làm giả xác Đức Giê-su và bí mật đặt xác khác vào trong mộ một vài năm trước khi khởi sự công cuộc đào bới này”.

Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người đã tuôn đến viếng Mồ Thánh ở Giê-ru-sa-lem như vẫn xảy ra hàng năm vào Tuần Thánh. Những ngọn nến Phục Sinh lại được thắp sáng và các tín hữu lũ lượt đốt những ngọn nến cháy sáng niềm hy vọng đi đến khắp hang cùng ngõ hẻm để soi sáng những con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ lại tiếp tục ngân vang báo tin Chúa Giê-su đã Phục Sinh và mọi người đều vui mừng ca hát: “Sự sống đã chiến thắng thần chết. Thập giá đã chiến thắng địa nguc. Allêluia!”.

3. THẢO LUẬN: Khi tuyên xưng đức tin: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy”, các tín hữu phải sống thế nào trong xã hội hôm nay, để chứng tỏ niềm tin về một thế giới mới và một cuộc sống vĩnh hằng đời sau?

4. SUY NIỆM:

1) ĐỨC TIN VỀ MỘT CUỘC SỐNG VĨNH HẰNG ĐỜI SAU:

Hầu như mọi người, mọi dân tộc đều tin còn có một thế giới khác vĩnh hằng sau cuộc sống đời tạm này: Người ta tin rằng sau khi chết, con người vẫn còn sống một cách nào đó: “Thác là thể phách, còn là tinh anh” (Cái chết chỉ ở thể xác bề ngoài, còn linh hồn vẫn tồn tại mãi mãi). Người ta cũng tin rằng trần gian chỉ là nơi ở tạm thời, còn chết mới là về với nguồn cội: “Sinh ký, tử quy” (Sống gửi thác về).

Nhưng cuộc sống ấy như thế nào thì có nhiều niềm tin khác nhau:

-Đức Phật thì chủ trương có sự luân hồi: Người ta sẽ lần lượt trải qua nhiều kiếp sống khác nhau. Hồn người chết sẽ được đầu thai vào kiếp khác để trở thành một người hay một loài vật khác tùy theo kiếp trước họ đã sống như thế nào, là người tốt hay kẻ xấu. Chỉ những bậc tu hành đắc đạo, diệt dục, loại trừ được các “tham, sân, si” và có lối sống đại từ đại bi... mới được siêu thoát thành Tiên thành Phật trong cõi Niết bàn cực lạc.

-Còn Đức Khổng Tử thì không khẳng định gì về cuộc sống sau khi chết, vì ngài không được biết thực hư ra sao. Do đó khi Tử Cống hỏi: “Người chết rồi có biết gì nữa không?” thì Khổng Tử đã trả lời nước đôi như sau: “Nếu ta nói người chết rồi vẫn còn biết, thì sợ các con cháu hiếu thảo sẽ liều mình chết theo ông cha. Nếu ta nói người chết không còn biết gì nữa, thì sợ con cháu bất hiếu sẽ không thèm chôn cất cha mẹ nữa” (Khổng Tử gia ngữ số 8).

-Riêng Đức Giê-su: Vốn là Con Thiên Chúa từ trời mà đến, nên Người đã dạy cho loài người biết rõ ràng về một đời sống vĩnh hằng sau khi chết. Trong bài giảng về Bánh Hằng Sống, Người đã khẳng định về hiệu quả của bí tích Thánh Thể: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,51). Khi nói chuyện với cô Mác-ta trước khi làm cho La-da-rô đã chết chôn trong mồ 4 ngày được sống lại, Đức Giê-su nói: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25). Rồi trong Tin mừng Chúa Nhật Phục Sinh hôm nay, thiên thần đã nói với mấy người phụ nữ: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi!” (Lc 24,5-6).

2) VỀ SỰ CỨNG TIN CỦA CÁC MÔN ĐỆ VÀO MẦU NHIỆM PHỤC SINH:

- Các môn đệ không phải là những người dễ tin: Tin mừng Mát-thêu thuật lại lời tiên báo của Đức Giê-su với các môn đệ ít ngày trước cuộc khổ nạn như sau: “Con người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại (Mt 16,21). Ông Phê-rô chỉ quan tâm đến cuộc thương khó mà ông cho là sự thất bại, nên yêu cầu Thầy đừng chấp nhận như vậy. Ông không chú ý đến lời Thầy: “Ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. Các tông đồ khác tuy có nghe Thầy nói sẽ từ cõi chết sống lại, nhưng cũng không muốn tin. Do đó, khi vừa thấy Thầy bị bắt, các ông kẻ thì bỏ Thầy chạy trốn, kẻ chối không biết Thầy, kẻ trở về làng cũ và không muốn theo Thầy nữa...

-Còn các đầu mục Do thái thì cẩn trọng hơn: Họ đã nghe Đức Giê-su nói đến việc đến ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại, nên sau khi Người đã chết và được các môn đệ mai táng trong mồ, họ đã yêu cầu Phi-la-tô cho lính canh mồ để tránh việc Người sống lại. Nhưng dù họ có canh gác cẩn thận, Đức Giê-su vẫn từ cõi chết trỗi dậy đúng như Người đã báo trước.

-Về phần các môn đệ: do không tin Thầy sẽ từ cõi chết sống lại, nên khi nghe bà Mađalena báo tin xác Thầy không còn trong mộ, hai môn đệ Phê-rô và Gio-an bán tín bán nghi đã chạy đua ra mồ kiểm tra thực hư. Hai ông đều quan sát thấy các khăn liệm còn đó nhưng xác Thầy biến mất! Riêng Gio-an thì liên kết sự kiện khăn liệm kèm theo mồ trống đã đạt đến đức tin. Các môm đẹ khác thì sau khi được Chúa Phục Sinh hiện ra nhiều lần để trấn an, để chứng minh Người đã sống lại bằng việc ăn uống, cho xem và sờ vào các vết thương ở tay chân và cạnh sườn, rồi được nghe Người giảng mầu nhiệm phục sinh phù hợp với lời Kinh Thánh đã chép, liên kết với cử chỉ bẻ bánh… thì các ông mới tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su. Nhất là sau khi đón nhận được Ơn Thánh Thần vào lễ Ngũ Tuần, các ông mới thực sự xác tín để hăng say đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng vào mầu nhiệm “Đức Giê-su đã sống lại từ cõi chết” và sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho lời rao giảng ấy.

3) NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA MẦU NHIỆM PHỤC SINH CỦA ĐỨC GIÊ-SU:

-Mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su không giống như sự sống lại của những kẻ chết được Người cho hồi phục sự sống, vì sau khi sống được một thời gian, họ đã chết lại như bao người khác (x. Mc 5,41-42; Lc 7,14-15; Ga 11,39-44). Mầu nhiệm Phục Sinh cũng không có nghĩa là Chúa Giê-su sẽ sống mãi trong thành quả sự nghiệp của Người như người ta thường nói: “Trâu chết để da, người chết để tiếng”. Nhưng Người đã thực sự sống lại cả về sự sống thể xác cũng như tinh thần.

-Mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su nghĩa là Người đã được biến đổi trở thành một “Người Sống” (x. Lc 24,5), giống như “Thiên Chúa hằng sống!”: Thánh Phao-lô đã diễn tả sự sống siêu việt ấy như sau: “Chúng ta biết rằng: Một khi Đức Ki-tô đã từ cõi chết sống lại, thì không bao giờ chết nữa. Cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống là sống cho Thiên Chúa” (Rm 6,9b-10).

-Mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giê-su nhằm mục đích ban ơn cứu độ là sự sống vĩnh hằng cho loài người: Đức Ki-tô đã sống lại vinh quang ra khỏi mồ, để xuống nơi trú ngụ của các vong linh, gọi là Âm phủ (Shéol) hay ngục Tổ tông, hoàn tất việc loan báo tin mừng cứu độ cho người sống kẻ chết. Người đã mở ra một con đường sống cho nhân lọai chúng ta, là con đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang” (x Lc 24,26; Mt 16,21), để chúng ta “Cùng chết với Đức Giê-su thì sẽ cùng được sống lại với Người” (x. 1 Pr 3,18). Đó là con đường của đạo Công Giáo (Xem sách Giáo lý Hội thánh Công giáo số 632, 633, 634, 635).

4) MẦU NHIỆM PHỤC SINH LÀ CUỘC VƯỢT QUA CỦA THỜI TÂN ƯỚC:

-Lễ “Vượt qua”: nhắc lại công cuộc ngày xưa Đức Chúa đã giải phóng con cháu Gia-cóp khỏi ách nô lệ cho dân Ai-cập: Kể từ khi đại gia đình của tổ phụ Gia-cóp di cư sang bên Ai-cập, con cháu Gia-cóp đã hiện diện suốt 430 năm tại đây. Sau những năm tháng hạnh phúc khi tổ phụ Giu-se làm quan đệ nhị còn sống, là đến những năm tháng đau khổ khi họ bị làm nô dịch cho dân Ai Cập, bị khinh dể ngược đãi và giết hại... Con cháu Gia-cóp cuối cùng đã được Đức Chúa sai Mô-sê đến giải thoát khỏi ách nô lệ cho dân Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ cách lạ lùng và cuối cùng vượt qua sa mạc trong thời gian 40 năm. Trong thời gian này, con cháu Gia-cóp được Đức Chúa bang trợ bằng quyền năng và tình thương, được ký kết giao ước với Đức Chúa để trở thành dân riêng của Ngài, được lãnh nhận thập giới, ghi khắc trên hai tấm bia đá, được nuôi dưỡng hằng ngày bằng man-na, thịt chim cút, nước tinh khiết chảy ra thành dòng suối từ tảng đá… được Đức Chúa bảo vệ khỏi bị chư dân tiêu diệt… và cuối cùng đã về đến Miền Đất được Đức Chúa hứa ban cho tổ phụ Áp-ra-ham và dòng dõi đến muôn đời. Sự giải thoát nói trên được gọi là mầu nhiệm Vượt Qua, và lễ Vượt Qua luôn được cử hành trong bữa tiệc chiên tại tư gia vào ngày 14 tháng Nisan hằng năm.

-Ngày nay: các tín hữu được Hội Thánh mời gọi vượt qua bản thân để sống hướng thượng nhân ái qua việc chay tịnh, lãnh nhận các phép bí tích, cầu nguyện và làm việc bác ái cụ thể, chia sẻ cơm áo vật chất cho tha nhân. Quả vậy, trong Mùa Chay Chúa muốn chúng ta “vượt qua” những ham muốn, những toan tính đời thường để đón nhận tha nhân và sống hòa hợp với mọi người. Lễ Phục sinh nhắc nhở chúng ta về cuộc “vượt qua đó”. Thánh Phao-lô dạy phải mừng lễ Vượt qua này như sau: “Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên vượt qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ” (1 Cr 5,7a-8). Hôm nay, Hội Thánh mời gọi chúng ta phải chết đi cho con người cũ, cùng với những thói hư tật xấu như: ích kỷ, ganh ghét, gian tham, hướng chiều theo các đam mê bất chính… để nhờ ơn Thánh Thần tái tạo, trở thành một người mới luôn biết quên mình nghĩ đến người khác, sống bao dung nhân hậu, công chính và khiêm tốn phục vụ tha nhân vô vụ lợi… Có như vậy, việc mừng lễ Phục Sinh mới thực sự mang lại niềm vui và hy vọng được phục sinh với Chúa Giê-su trong cuộc sống vĩnh hằng ở đời sau.

5. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Xin giúp chúng con biết tôn trọng tha nhân, hợp tác với nhau và với mọi người thiện chí để tiêu diệt các sự gian ác tội lỗi, đẩy lùi văn hóa sự chết là những tệ nạn xã hội như sì-ke, ma tuý, mại dâm, cờ bạc, say sỉn, cướp bóc, lừa đảo, thù hận làm hại kẻ khác... Xin cho chúng con quyết tâm xóa sạch những điều bất chính ra khỏi con người chúng con, khỏi gia đình và khu xóm chúng con. Nhờ đó, mọi người sẽ được sống chan hòa yêu thương nhau, cùng nhau kiến tạo một “Trời Mới Đất Mới”, nơi không còn nước mắt, không còn khổ đau và chết chóc... nhưng là một Thiên đàng đầy tình yêu thương và hạnh phúc viên mãn.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH - HHTM

**************

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

CN LỄ NGÀY PHỤC SINH ABC

Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9

ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN

I. HỌC LỜI CHÚA

1.TIN MỪNG: Ga 20,1-9

(1) Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp Si-mon Phê-rô và người môn đệ  thương mến. bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu ?”. (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đệ kia mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó nhưng không vào. (6) Ông Si-mon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu, khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh,  Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.

2. Ý CHÍNH:

Gio-an viết Tin Mừng nhằm mục đích “Để anh em tin rằng  Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (ga 20,31). Riêng đoạn Tin Mừng hôm nay, Gio-an cho thấy Đức Giê-su thực sự đã từ cõi chết sống lại như Người đã báo trước.

3. CHÚ THÍCH:

- C 1: + Ngày Thứ Nhất trong tuần: Theo Sáng Thế Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày. ngày Thứ Nhất là ngày sau ngày Sa-bát và bắt đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo Hội dựa vào việc Chúa Phục Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên gọi là ngày Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. +sáng sớm… lúc trời còn tối: Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm mộ, các Tin Mừng có những diễn tả hơi khác nhau: Ở đây Gio-an viết: “Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga 20,1); Còn Mát-thêu viết: “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28,1); So với Mác-cô: “Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc” (x. Mc 16,2) ; Riêng Lu-ca lại viết: “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24,1). + Ma-ri-a Mác-đa-la: Mác-đa-la là một thị trấn nằm trên bờ phía tây biển hồ Ghen-nê-xa-rét. Là quê của bà Ma-ri-a. Bà đã từng bị 7 quỷ ám trước khi theo Chúa Giê-su (x. lc 8,2). Bà là một trong những phụ nữ đầu tiên đã ra thăm mộ Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1; Lc 24,10). Trước đó, bà đã can đảm đứng gần thập giá (x. Ga 19,25; Mt 27,56) và đã chứng kiến hai môn đệ mai táng Thầy trong mồ (x. Mt 27,61; Mc 15,47).

- C 2: + Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô: Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phê-rô là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Do đó, Ma-ri-a Mác-đa-la cần phải báo cáo với ông trước tiên về việc xác Thầy biến mất. + Và người môn đệ thương mến: Cách nói “môn đệ được thương mến” là kiểu nói riêng trong Tin Mừng Gio-an. Đây là cách tác giả nói về mình một cách khiêm tốn khi không muốn nhắc đến tên của mình. + Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết: Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa sống lại như nhiều lần Người đã báo trước, mà bà chỉ theo suy luận tự nhiên để cho rằng ai đó đã đến mang xác Thầy ra khỏi mồ. Từ “Chúng tôi” trong câu này ám chỉ Ma-ri-a không đi ra mồ Chúa một mình mà đi chung với mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).

-C 3-4: + Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ: Khi được các phụ nữ báo tin mộ trống và xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là Phê-rô và Gio-an liền tức tốc chạy ra mộ để kiểm tra thực hư. điều đó cho thấy lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi vượt của hai ông. + Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước: Lý do Gio-an chạy nhanh hơn và đến mộ trước Phê-rô đơn giản là vì ông trẻ  hơn nên khỏe và chạy nhanh hơn Phê-rô, và có lẽ cũng vì nôn nóng do yêu mến Thầy nhiều hơn.

- C 5-6: + Băng vải còn ở đó: Đây là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức Giê-su. Khăn này theo truyền thuyết còn được lưu giữ tại nhà nguyện thánh Gio-an ở Tu-ri-nô miền Bắc nước Ý. + Nhưng không vào: Gioa-an không vào có thể do ông tôn trọng và nhường cho Phê-rô là đàn anh vào trước mình. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông cảm thấy bàng hoàng trước sự kiện cửa mồ rộng mở và mải lo suy nghĩ về những tấm khăn để lại, đủ thời gian cho Phê-rô theo sau kịp chạy đến nơi. + Si-mon Phê-rô … vào thẳng trong mộ: Phê-rô tính nóng nảy nên lập tức bước vào trong mồ.

- C 7-9: + Và khăn che đầu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi: Bên trong mộ các khăn liệm xác vẫn còn để lại, khác với trường hợp La-da-rô khi sống lại ra ngoài trong tình trạng “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn (x. Ga 11,43-44). Điều này cho thấy Đức Giê-su không cần ai giúp đỡ khi trỗi dậy ra khỏi mồ. Người đã tự lăn tảng đá che kín mộ ra thì cũng có thể tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện khăn còn để lại cho Gio-an thấy Thầy Giê-su đã thực sự sống lại. Vì không kẻ trộm nào lại bỏ công sức và thời gian để làm một việc vô ích là cởi các dây vải ra và xếp gọn để vào một chỗ rồi mới đem xác trần đi cả ! + Ông đã thấy và đã tin: Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác được xếp gọn lại đã giúp Gio-an suy luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức Giê-su đã từ cõi chết sống lại. +Trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết: Trước khi thấy các dấu chứng vừa nói thì Gio-an và các Tông đồ đều không tin Thầy các ông sẽ sống lại, dù Người đã báo trước tới ba lần (x. Mt 16,21; 17,23; 20,19). Nhưng khi thấy các dấu chứng như mồ trống, các khăn vải liệm xác, dây băng được cuộn lại riêng một chỗ, thì các ông đã nhớ lại những lời Thánh Kinh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su và tin Người đã thực sự sống lại từ cõi chết (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs 6,2).

4. CÂU HỎI:

1) Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật ? 2) Về thời điểm bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mồ Chúa, so sánh bản tường thuật của 4 tác giả Tin Mừng khác nhau như thế nào ? 3) Bạn biết gì về thân thế của bà Ma-ri-a Mác-đa-la ? 4) Bà đã báo tin xác Thầy biến mất cho ai ? Tại sao ? 5) Qua câu nói với Phê-rô và Gio-an, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có tin việc Thầy Giê-su đã phục sinh hay không ? 6) Hành động chạy nhanh ra mồ của Phê-rô và Gio-an cho thấy tinh thần trách nhiệm của 2 ông như thế nào ? 7) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô ? 8)Tại sao ông Gio-an đến mộ trước Phê-rô mà không vào bên trong mộ ngay ? 9) Khi thấy hiện tượng mồ trống, băng vài và khăn che đầu được xếp gọn, hai ông đã tin gì về mầu nhiệm Đức Giê-su sống lại ?

II.SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).

2. CÂU CHUYỆN:

1) MỘT CUỘC CHẠY MA-RA-THON :

Hàng năm, báo chí cũng như truyền thanh và truyền hình đều thường tường thuật về những cuộc chạy ma-ra-thon. Vậy chạy  ma-ra-thon là gì? Tôi xin thưa đó là chạy đua đường dài, với khoảng cách là 40 cây số. Nguồn gốc của việc chạy  là thế này: Vào năm 490 trước Công nguyên, tướng Mil-ti-a-de, người Hy Lạp, đã chiến thắng quân Ba Tư tại Ma-ra-thon, một ngôi làng cách thủ đô A-thène 40 câu số. Liền sau cuộc chiến thắng, tướng Mil-ti-a-de đã phái một người chạy bộ, vượt khỏang đường dài này, để loan báo tin vui cho dân chúng thủ đô Hy Lạp. Người chạy đem tin vui này vừa vào tới thành thì liền tắt thở vì kiệt sức. Vì thế, anh đã trở thành biểu tượng cho những cuộc chạy đua đường trường trên thế giới.

Tin mừng Chúa Nhật Phục Sinh hôm nay cũng tường thuật hai cuộc chạy ma-ra-thon : Cuộc chạy thứ nhất là của cô Ma-ri-a Ma-đa-le-na báo tin cho các môn đệ xác Thầy đã biến mất. Cuộc chạy thứ hai là của hai môn đệ Phê-rô và Gio-an đi ra mộ để kiểm tra thực hư. Những người này đã đi tìm Chúa và sau đó đã đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.

2) ĐẰNG SAU SỰ KIỆN NGÔI MỘ TRỐNG CỦA ĐỨC GIÊ-SU:

Đầu tháng 3/2007, kênh truyền hình Discovery đã cho trình chiếu một phim tài liệu mang tựa đề “Ngôi Mộ Thất Lạc của Chúa Giê-su”. Nội dung xoay quanh việc khám phá khảo cổ năm 1980 ở khu Tal-pi-ot, phía đông Giê-ru-sa-lem. Mười hộp đựng cốt đã đưọc khai quật, trong đó có một hộp khắc tên Giê-su con ông Giu-se. Phải chăng đoàn làm phim đã kiếm được bằng chứng khảo cổ về con người Giê-su thành Na-da-rét ? Phải chăng đây là chứng cớ làm lung lay niềm tin vào Đấng Phục Sinh?

Các chuyên gia khảo cổ Do thái đã không cho là như thế. Vì chín phần trăm đàn ông Do thái ở thế kỷ thứ nhất mang tên Giê-su; mười bốn phần trăm mang tên Giu-se. Đây không phải là lần đầu tiên, và cũng không phải là lần cuối cùng những hộp đựng cốt như thế này xuất hiện. Ít ra là đã có hai hộp mang tên Giê-su con ông Giu-se được khai quật từ năm 1930. Câu chuyện tìm được hài cốt của Chúa Giê-su chỉ là giả tưởng.

Như vậy chúng ta có thể đi đến một kết luận rằng tuy chúng ta không thể căn cứ vào sự kiện ngôi mộ trống để quả quyết một cách chính xác rằng Chúa đã sống lại thật, nhưng chúng ta phải nhận rằng sự kiện ngôi mộ trống là một sự kiện có thực. Sự thật này có thể được coi là một đóng góp quan trọng vào những sự kiện khác để chứng minh cho việc phục sinh của Chúa. Mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta tuyên xưng rằng: đằng sau câu chuyện “Ngôi Mộ Trống” là sự hiện diện đích thực của một “Đấng Phục Sinh”, của một quyền năng có sức mạnh biến cải những trái tim đang đau buồn thất vọng thành bừng sáng tin yêu, biến những con người yếu đuối nhát sợ nên mạnh mẽ tuyên xưng đức tin dù phải lấy cái chết mà “làm chứng” Thầy mình đã sống lại và vẫn đang sống.

3) VỀ SỨ VỤ RAO GIẢNG TIN MỪNG PHỤC SINH:

Sau khi chịu chết trên thập giá, Đức Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn Người vẫn còn mang những dấu tích đau thương từ những cây đinh nhọn và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã lên tiếng hỏi Đức Giê-su rằng: “Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người dưới thế gây ra ?” Người đáp: “Đúng vậy !” Thiên thần hỏi tiếp: “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay các tội lỗi của họ không ?” Chúa trả lời: “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại nói: “Thế thì Chúa đã làm gì để họ nhận biết ơn cứu độ đó ?”  Chúa đáp: “Ta lại đi loan báo Tin Vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin Mừng cứu độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của loài người và nghi ngờ họ nên hỏi tiếp: “Giả như Phê-rô, Gio-an và các Tông đồ quên thi hành sứ mệnh rao giảng đó thì sao ? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ gian ác mà chán nản buông xuôi thì sao ? Chúa có lập thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa thôi ?” Chúa Giê-su trả lời: “Ta sẽ không bao giờ lập ra thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người thường nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh Thần Khí của Ta cho họ, để giúp họ thi hành sứ mệnh, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ mệnh đó”.

4)MẦU NHIỆM PHỤC SINH DIỄN TẢ TÌNH THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA :

Tại một nghĩa trang bên Đức, có mội ngôi mộ rất được chú ý, đó là ngôi mộ được làm bằng đá hoa cương, bên dưới đúc xi măng cột sắt rất kiên cố. Ngôi mộ được nhiều người chú ý vì đó là ngôi mộ của một người đàn bà giàu có. Trong chúc thư, bà yêu cầu người ta xây cho bà một ngôi mộ kiên cố, để nếu có sự sống lại của người chết, thì bà vẫn nằm yên dưới mộ. Trên mộ, bà ta xin được ghi: “Đây là ngôi mộ sẽ không bao giờ mở ra”.

Thời gian trôi qua, ngôi mộ xem ra vẫn kiên cố. Thế nhưng một hôm có một hạt giống rơi vào khe đá của ngôi mộ, gặp đất bên dưới, nó bắt đầu nẩy mầm, lớn lên thành cây, rễ của nó đâm xuyên qua ngôi mộ để rồi cuối cùng làm cho quan tài của người đàn bà vỡ ra.

Câu truyện trên đây diễn tả tình yêu vô bờ của Thiên Chúa đối với con người, khi cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết để mở ra cho con người lối đi vào sự sống vĩnh cửu với Ngài. Con người có thể chối bỏ và khước từ tình thương của Thiên Chúa, nhưng với muôn ngàn cách thế khôn lường, Thiên Chúa vẫn tiếp tục theo đuổi con người. Con người tưởng mình có thể lẩn trốn được Thiên Chúa, nhưng qua một hạt giống nhỏ bé, tình yêu của Ngài vẫn tiếp tục len lỏi vào tâm hồn của con người. Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Vinh quang, danh dự và niềm vui của ngài là cho con người được sống đời đời. Cho dù con người có loại bỏ Thiên Chúa để đi tìm cái chết, Ngài vẫn luôn theo duổi và chờ đợi con người đáp lại tình thương của Ngài để được sống mãi với Ngài.

5) GƯƠNG CAN ĐẢM TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN:

Một câu chuyện rất cảm động đã xảy ra hồi thế chiến thứ hai tại Liên xô.

Một người đàn bà bị bắt làm tù nhân trong một trại giam tại Liên xô cũ. Chính bà kể lại câu chuyện mà bà đã mắt thấy tai nghe, để mọi người tin vào sức mạnh của mầu nhiệm phục sinh của Chúa.

“Một buổi chiều kia, một cô gái trẻ cùng bị giam với chúng tôi đã kề miệng vào tai tôi hỏi khẽ:

- Chị biết hôm nay là ngày gì không?

Rồi không đợi tôi trả lời, cô ta nói tiếp:

- Hôm nay là ngày lễ Phục sinh.

Nghe thế tôi tự hỏi:

- Lễ Phục sinh đã đến rồi sao? Tuy là lễ của niềm vui và hy vọng, nhưng trong tù niềm vui của chúng tôi đã bị héo úa, khô cằn. Còn niềm hy vọng thì tôi đành để trong lòng chứ không dám nghĩ tiếp.

Bỗng một tiếng reo vang nổi lên phá tan bầu không khí nặng nề:

- Đức Ki-tô đã sống lại!

Tôi quay lại nhìn mặt cô gái vừa cất tiếng tuyên xưng đức tin và bắt gặp đôi mắt cô ánh lên sự lung linh huyền diệu. Cùng lúc ấy, từ mọi phía của các phòng giam khác vang lên câu trả lời:

- Ngài đã sống lại thật.

Quá sửng sốt, các nhân viên trại giam đứng bất động như tượng gỗ. Có lẽ trong tâm trí họ đang giận dữ lên án một việc chưa bao giờ xảy ra tại đây. Sau một lúc yên lặng, tôi nghe tiếng giày nặng nề tiến đến phòng giam của chúng tôi, rồi phòng bị mở tung cửa ra, hai nhân viên hỏi ai đã xướng câu mê tín dị đoan đó, và hùng hổ túm lấy cô gái lôi sền sệt ra khỏi phòng.

Qua tuần lễ Phục sinh, họ giam riêng cô vào phòng không lò sưởi để nhờ cái lạnh thấu xương và cơn đói hành hạ, thì con người cuồng tín này sẽ phải gục ngã.

Một tuần sau, cô gái được trả lại phòng giam với chúng tôi như trước. Mặt cô xanh xao, người cô gầy đi thấy rõ. Sau khi nằm yên tại một góc phòng, cô gái khều bọn tôi lại, và thều thào:

- Dù sao tôi cũng đã tuyên xưng niềm tin vào sự Phục sinh trong trại giam. Còn những điều khác không quan trọng !

Nói xong, cô cố gắng mỉm cười và tôi thấy trong mắt cô vẫn sáng lên như trước”.

3. SUY NIỆM:

Bằng lối văn súc tích và hàm chứa những tư tưởng sâu sắc, Tin Mừng Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong bài Tin Mừng Phục Sinh hôm nay như sau:

1) LÒNG MẾN ĐÃ THÔI THÚC MA-RI-A MÁC-ĐA-LA ĐI TÌM CHÚA:

Niềm vui Phục Sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ ngay từ sáng sớm tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mồ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mộ biến mất. Cũng như do lòng mến đã thêm can đảm để đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại chứng kiến việc 2 môn đệ an táng Thầy trước đó (x. Mt 27,61), thì sáng sớm hôm nay lại thôi thúc bà cùng mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để ướp thêm thuốc thơm cho xác Thầy theo phong tục Do thái (x. Mc 16,2). Khi thấy mộ trống không, Ma-ri-a hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,2). Theo bà thì ai đó đã đến lấy trộm xác Thầy và bà không biết họ đã để xác Thầy ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a không hề nghĩ rằng Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm lại được xác Thầy để mang về chôn vào trong mộ mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, Ma-ri-a quay lại mồ để tiếp tục than khóc. Trong lần ra mộ thứ hai này, bà đã trở thành người đầu tiên gặp được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người trao cho bà sứ mệnh như sau: “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).

2) LÒNG MẾN ĐÃ GIÚP GIO-AN NHẬN RA CHÚA TRƯỚC ANH EM:

Gio-an là một trong bốn môn đệ được Thầy kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến hình (x Mt 17,1) và cũng là người môn đệ được Thầy yêu mến nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy đã thôi thúc, làm cho ông trở thành người can đảm hơn các anh em như sau : Không bỏ chạy nhưng âm thầm theo dõi các sự kiện xảy ra từ lúc Thầy bị bắt đến khi bị xét xử giữa hai tòa án đạo và đời; Can đảm đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trăn trối Đức Ma-ri-a làm Mẹ mình và đón Mẹ về nhà mình mà phụng dưỡng thay Thầy (x Ga 19,27). Cũng do tình yêu thôi thúc mà Gio-an đã trở thành người môn đệ đầu tiên trong Nhóm Mười Hai nhận ra Chúa Phục Sinh tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7). Cũng chính tình yêu ấy đã thúc bách Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô và đạt đến đức tin trước ông này (x Ga 20,8). Sau cùng chính lòng mến đã khiến Gio-an viết Tin Mừng Thứ Tư, trong đó đề cao giới răn yêu thương. Tương truyền khi về già, mỗi lần rao giảng Tông đồ Gio-an đều giảng về đề tài yêu thương. Khi có người thắc mắc lý do thì Gio-an đã trả lời rằng: Chỉ việc tuân giữ giới răn yêu thương là đủ. Vì “yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10b).

3) LÒNG MẾN LÀM PHÊ-RÔ ĐƯỢC THA TỘI VÀ ĐƯỢC TRAO QUYỀN:

Phê-rô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức Giê-su trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông đã tình nguyện bỏ hết mọi sự mà đi theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu danh sách Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được chiêm ngưỡng Thầy biến hình trên núi cao (x Mt 17,1); Được chứng kiến phép lạ Người phục sinh bé gái mới chết (x Lc 8,51); Được ở gần Đức Giê-su khi Người lo buồn trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin Mừng,  Đức Giê-su có lần đã đến ở trọ nhà ông Si-mon Phê-rô tại thành Ca-phác-na-um (x Mc 1,29). Phê-rô thường đại diện anh em tuyên xưng đức tin “Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó, Phê-rô đã được khen có phúc, và được Thầy hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ông còn được  trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em sau khi trở lại (x. Lc 22,31-32).

Dù còn nhiều khuyết điểm như: bị Thầy nặng lời quở trách vì dám khuyên Thầy đừng chấp nhận đường thập giá (x Mt 16,22-23); Hoặc có lúc bị Thầy trách kém lòng tin (x Mt 14,31) hoặc trách khi không muốn Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8);  trách khi quá tự tin vào sức mình (x Mt 26,33-35). Nhất là đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù được Thầy cảnh báo trước đó (x Mt 26,69-75). Nhưng bù lại ông cũng có lòng yêu mến Thầy hơn mọi người. Lòng mến của Phê-rô thể hiện qua việc dứt khoát bỏ nghề chài lưới bắt cá để theo Thầy làm nghề chài lưới bắt các linh hồn (x Mt 4,18-20). Ông cũng thường được Đức Giê-su hỏi ý kiến như: Có nên nộp thuế Đền thờ không ? (x Mt 17,24-27). Số lần phải tha thứ cho anh em (x Mt 18,21). Ông cũng đại diện anh em để tuyên xưng đức tin và thề quyết trung thành với Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông tỏ ra can đảm khi rút gươm chém tên đầy tớ của thượng tế để bảo vệ Thầy (x Ga 18,10). Ông đi theo Gio-an để theo dõi diễn tiến cảnh Thượng Hội Đồng xét xử Thầy (x Ga 18,15). Trong Tin Mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị mất, Phê-rô cùng Gio-an chạy ra mộ để kiểm chứng thực hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, Phê-rô đã tin Thầy đã thực sự sống lại chứ không bị lấy trộm xác (x Ga 20,8-9). Sau đó ông còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước Nhóm Mười Một (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được Gio-an quả quyết người mặc áo trắng trên bờ hồ là Thầy, Phê-rô đã vội khoác áo vào nhảy xuống biển bơi nhanh vào bờ để gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng ba lần tuyên xưng yêu mến Thầy đã được Thầy trao sứ mệnh chăn dắt chiên con chiên mẹ và đàn chiên Hội Thánh (x Ga 21,15-17). Lúc cuối đời ông còn chứng tỏ lòng mến đích thật khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho thầy (x Ga 21,18-19).

4) GIÁ TRỊ CỦA ĐỨC TIN VÀ LÒNG MẾN:

Chính lòng mến Chúa đã làm cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn sám hối tội lỗi, đi ra thăm mộ trước tiên và đã được Chúa Phục Sinh hiện ra trao cho sứ mệnh loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các môn đệ. Cũng chính lòng mến đã làm cho Gio-an nhận ra Thầy trước các anh em và thấy được ý nghĩa các sự kiện của mầu nhiệm Phục Sinh. Lòng mến  cũng làm cho ông Phê-rô luôn gắn bó với Thầy, hy sinh mọi sự để theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông đã mau sám hối và được Thầy tín nhiệm trao sứ mệnh trở thành Đá Tảng đức tin, củng cố đức tin cho anh em (x Lc 22,32), và sứ mệnh chăn dắt đàn chiên Hội Thánh.

Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để chúng ta khỏi bị thất vọng hay hốt hoảng khi gặp đau khổ thất bại giữa đời thường. Cuộc sống của chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng : khi những gì chúng ta yêu quý nhất hoặc những người thân yêu nhất không còn. Bấy giờ chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi tìm người chết trong nước mắt như Ma-ria Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng cái chết đã không giam hãm được sự sống: Sự sống đã trỗi dậy từ cõi chết; Ánh sáng đã bừng lên từ bóng tối tử thần;Tình yêu đã chiến thắng hận thù và Tin Mừng sẽ được loan báo đi khắp thế gian.

4.THẢO LUẬN:

1) Nơi Đức Giê-su sự sống đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù. Còn bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì “Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực tới hồi thái lai” không ? 2) Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa sẽ ban ơn giải cứu và giúp bạn được mau trỗi dậy ?

5. LỜI CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Sự phục sinh của Chúa vừa mời gọi, lại vừa lôi cuốn chúng con hướng tâm hồn lên để nhận ra giá trị tương đối của sắc đẹp, tiền bạc, danh vọng, chức quyền trần gian… hầu noi gương các thánh: sẵn sàng hy sinh tất cả vì yêu Chúa và dám sống chết cho tình yêu, để dấn thân đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, sẵn sàng đón nhận những đau khổ thua thiệt... vì xác tín rằng: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.

LM ĐAN VINH -  HHTM

Tác giả: