Nhảy đến nội dung

Cuộc Chiến Đấu

 

 

Cuộc Chiến Đấu

 

Bão băng, ice storm, là cơn bão đáng sợ nhứt trong mùa Đông, hệ thống đài không ngừng phát hình, phát sóng những tín hiệu khẩn cấp để tường trình cũng như báo động đến mọi người đang phải di chuyển trên các tuyến đường, nhứt là các xa lộ trong ngày có bão. Một lớp băng mỏng khó nhìn thấy nằm khuất ở một khúc quanh, hay trải một khoảng ngắn trên xa lộ, mắt chưa kịp nhận ra, đã là nguyên nhân gây tai nạn có khi chết người trong những ngày có mưa băng giá. Bão băng nguy hiểm vì người ta khó nhìn thấy những lớp nước đá mỏng bị che phủ dưới tuyết hay trong làn nước mờ đụt của mưa. Ẩn khuất bao giờ cũng đáng ngại hơn.

Có một ẩn khuất khác, đáng ngại còn hơn những lớp băng của ice storm, mà có lần Chúa Giêsu đã quở mắng : “ Loài rắn độc kia, xấu như các ngươi, thì làm sao nói điều tốt được ? Vì lòng có đầy miệng mới nói ra .” ( Mt 12, 34 ) Và Thánh Phaolô đã từng kêu lên : “ Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” ( Rm 7, 19), khi nói về điều ẩn khuất của cuộc chiến đấu nội tâm.

Người Đông phương coi Tâm là trọng vì Tâm là chủ thể của toàn thể con người. Ý giả tâm chi sở phát (**), ý chí của con người xuất phát từ Tâm, sự phát hiện này rất quan trọng vì nó là bước khởi đầu đi vào thế giới siêu linh(**). Tâm nối kết được với Linh, Tâm Linh, là con đường huyền nhiệm thường được các tôn giáo nhắc tới. Tâm thuộc về Thân mà Linh thuộc về Thần, có nghĩa nhờ qua Tâm, con người mới nối kết được với đời sống thiêng liêng của thần linh, quan niệm nầy được Đông Phương nhìn biết rõ hơn. Tâm và Linh là hai điều khác nhau, Lời Thiên Chúa là Lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người ( Dt 4, 12). Tâm và Linh là hai điều khác biệt nhưng lại hòa hợp bên trong con người, là một hài hòa kỳ diệu của công trình tạo dựng mà Đấng Tạo Hóa, Thiên Chúa, đã đặt để đầu tiên cho con người bên trong, con người tâm linh. Đó là công trình kỳ diệu trong muôn vàn điều kỳ diệu, trái ngược nhưng hòa hợp, chỉ có Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, mới thực hiện được và an bài trong vũ trụ vần xoay để tạo ra Sự Sống của vũ trụ nơi con người, mà người Đông Phương nhìn biết rõ hơn Tây Phương cho con đường Tâm Linh của họ.

Quan niệm hòa hợp nầy của Đông Phương không chối bỏ Thiên Chúa, Đấng mà người Viễn Đông gọi là Trời, hay Ông Trời; nhưng Đông Phương càng nhận biết nguồn gốc của mình rõ hơn khi nhận rằng con người xuất phát từ Trời, Thiên địa chi dức, cho tiếng Nhân, Con Người, của Đông phương và Tây phương vẫn cùng chung một nguồn gốc là Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, từ xa xưa. Nhân giả kỳ thiên địa chi đức, âm dương chi giao, quỷ thần chi hội; con người của Đông phương không chỉ có xác và hồn như Tây phương, nhưng còn có Tâm nơi quỷ thần chi hội nữa, nên mới có cuộc chiến đấu, như Thánh Phaolô nói đến, giữa Sự Thiện ( thần lành ) và Sự Ác ( quỷ, thần dữ) mà người Đông phương gọi là Thiện Tâm và Ác Tâm.

Tâm là con người bên trong của chính mình, nói đúng ra Tâm là chính mình nên Tâm không thể diệt nhưng chỉ thay đổi để chuyển Ác Tâm thành Thiện Tâm. Cuộc chiến đấu nội tâm của con người Đông phương luôn luôn là con đường quyết liệt, rèn luyện công phu qua ba đợt tiến trình chuyển đổi của Ý, là nơi xuất phát của Tâm; Tình, là cái động của Tâm; Chí, nơi đến của Tâm(**). Mới hay con đường chiến đấu của cuộc chiến nội tâm nơi người Đông phương sâu thẳm, cam go biết bao nhiêu trong việc cố gắng loại bỏ Loài rắn độc của lòng đầy ác tâm(Mt 12, 34), cũng như những ô uế bên trong con người(Mc 7, 15). Hành trình chuyển hóa để thay đổi Tâm, con người bên trong, gọi là Tu Tâm, con đường của Tỉnh Thức vì ngủ mê, u mê, sẽ không thể nhìn thấy Ác Tâm thế nào và Thiện Tâm ra sao để chuyển hóa. Vì vậy, Chúa Giêsu đã khuyên: “ Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện không ngừng, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến, và đứng vững trước mặt Con Người ( Lc 21, 36), là Lời khuyên vô cùng sâu sắc và chính đáng.

Cũng chính bởi câu 12 trong thư Do Thái chương 4, mà nhiều người cho rằng Lời Chúa có 2 mặt. Thực ra, Lời Chúa rất bao la, không bao giờ mâu thuẩn vì Thiên Chúa là Đấng thành tín, luôn luôn đưa con người ta đến suy tư cao sâu, đạt Chí để cảm hóa con người. Mẫu người hiền xưa, Á Đông gọi là quân tử, phải luôn luôn phấn đấu, thắng không kiêu, bại không nản, khổ nhục không sợ, danh lợi cũng chẳng màng, giữ vững Tâm mà đạt Chí. Chí đây không phải là ý chí hay ý định, nhưng là Chí hướng, Chí Thiện. Hoàn Thiện là Chí, là nơi cao nhứt phải đến của Tâm, anh em hãy nên hoàn thiện vì Cha anh em trên trời là Đấng Hoàn Thiện (Mt 6, 48), Lời Chúa đã chỉ cho người ta thấy đích điểm của con đường Hoàn Thiện bên trong, con đường hẹp tâm linh, được nhìn rõ của hành trình Tu đạt hoàn chỉnh nơi Thiện Tâm của Đông Phương. Khi Tâm đã hiệp với Linh nơi điểm cao nhứt là Hoàn Thiện, con người hoàn toàn được chuyển hóa, loại bỏ Ác Tâm, đạt được Thiện Tâm thì con người sẽ có Bình An, Bình An dưới thế cho người Thiện Tâm. Trở lại định nghĩa khi nảy: Tâm là Thân và Linh là Thần (**), hiểu nghĩa rộng là Chúa Thánh Thần của người Kitô giáo; thì con đường tâm linh của người Viễn Đông hoàn toàn phù hợp, có thể nói, là Con Đường hẹp mà Chúa Giêsu đã chỉ cho nhân loại: Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa tới diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy (Mt 7, 13-14). Theo cách nhìn đó, Tâm là nơi con người tìm gặp và kết hợp được với Thánh Thần Thiên Chúa, là Thần Khí Sự Sống, khi không còn Ác Tâm. Thiên Chúa ở bên trong ( Thánh Augustine) nơi đâu có Thiên Chúa, nơi đó là Nước Trời, muốn đạt Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được ( Mt 11, 12 ), đủ biết cuộc chiến đấu nội tâm ấy quyết liệt và cần thiết bao nhiêu. “ Vậy anh em hãy tỉnh thức( Tâm ) và cầu nguyện( Linh) không ngừng, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến, và đứng vững trước mặt Con Người ( Lc 21, 36).

Dĩ nhiên nói dễ, làm khó - nói trúng khó hơn - nói lời uyên nguyên khó nữa. Nói kiểu luân lý hình thức, nói kiểu giảng giải lên mặt thầy đời, nói kiểu chỉ tay năm ngón… tất cả đều dễ ợt, dễ hơn làm gấp bội lần, ai nói cũng được vì toàn là những chuyện ăn làm, thị phi theo lưu tục, hiện rõ ra trước tai mắt mọi người ai mà không thấy. Đó mới là cái biết từ ngoài chưa phải là cái biết hệ tại tự nội tâm phát ra.(**) Lời uyên nguyên cho suy tư thành tựu, nó ở mãi đợt căn cơ, chỉ cần một lời, nhưng là lời quán thông bao gồm được mọi khía cạnh. Tổ thuật là tìm ra chỗ then chốt làm cho các vấn đề ăn chịu với nhau cách linh động do nguồn sinh lực tuôn trào ra tự lời uyên nguyên để soi sáng vào mọi ngõ ngách tâm hồn. "Tri viễn chi cận. Tri phong chi tự. Tri vi chi hiển" (T.D 33) Biết thế mới nói lên lời sáng soi sống động gây nên một nếp sống mới.(**).

Con người vẫn chờ mong trong khắc khoải "Lời" sáng soi đầy sinh lực của hiền triết. Loài người đâu chỉ có sống vì cơm bánh, nhưng còn sống vì lời Thiên khải.(**) Đức Giêsu đáp: Đã có Lời chép rằng, người ta  sống không chỉ bằng bánh, nhưng còn nhờ mọi Lời miệng Thiên Chúa phán ra (Mt 4, 4) Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng ích gì, Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là Sự Sống ( Ga 6, 63). Hoán chuyển nội tâm không chỉ dừng lại ở Thiện Tâm, nhưng còn nhờ Lòng Thiện để hiểu Lời Sự Sống. Lời ấy phải nghe bằng tai của Tâm để nhìn thấy sự việc với mắt của Tâm mà hoán cải, thay đổi từ tâm hồn bên trong, đến thay đổi cả con người, thay đổi cả nếp sống, đưa con người vào nếp sống mới. Lời phải nghe và đem ra thực hành (Lc 7, 46-49). Thực hành thì phải tích cực, bền bỉ ngày qua ngày, bằng hành động của chính mình, dù mỗi khi một chút, để đạt thành tựu của Chí hướng Thiện nơi Thiện Tâm.

Đức Giêsu đã có cái nhìn tri viễn từ điều Người thấy, hiểu được do lai của Ngọn Gió Thánh Thần, Gió muốn thổi đâu thì thổi ( Ga 3, 8) Biết được chỗ tế vi của những cái đã hiển hiện ra trước mắt(**), nên từ 2000 năm trước Người đã nhìn suốt tương lai nhân loại để nói lên những Lời cảnh báo cho sự sụp đổ của thế gian nếu người ta vẫn cứ mãi sống trong nề nếp cũ, thói quen cũ mà không thay đổi ( x. Lc 17, 22-37), Người chỉ cho người thời đại ấy nhìn thấy những điều “ còn hơn nữa” ( x. Mt 12, 38-42) để hiểu Lời dạy bảo của Người mà sống theo để được Sống, nhưng người ta có lắng nghe thấu đáo để biết mà thay đổi tận căn cơ chưa ? Để con người thời đại nầy, sau 20 thế kỷ, đã không tiến đến thời hoàng kim như con người mong ước, nhưng lại đang nhìn thấy viễn ảnh suy vong của nhân loại không còn xa, nguyên do vì sao, có ai hỏi để suy ?

Ai cũng biết là thời gian nầy tiến sĩ David Suzuki tranh đấu rất nhiều cho vấn đề ô nhiễm môi sinh. Ông kêu gọi người ta thay đổi, cấp bách thay đổi, nhưng thay đổi thế nào thì chưa có lời đề nghị rõ ràng đem đến hữu hiệu. “Remember, we are animals !” Dr. Suzuki nói vậy, thì như con vật : Thiếu khí thở, thiếu nước uống, thiếu thực phẩm, hay do thay đổi khí hậu đột ngột, con vật sẽ chết như thời kỳ khủng long dinosaurs dù nó to lớn, khỏe mạnh đến đâu. Trong lời đề nghị của ông, linh hồn không còn nữa!

Cách đây 25 thế kỷ, Aristote định nghĩa con người là con vật biết suy lý (*), từ đó danh lý ra đời vì theo Aristote chỉ có lý luận do suy tư như con vật, nghĩa là từ những quan sát của tai nghe, mắt thấy bên ngoài bên ngoài. Phải nói triết học cổ điển chỉ biết có sự thật do lý trí kiến tạo bằng dữ kiện giác quan, mà không biết sự thực tự thân (**). Người ta không còn phân biệt  sự thật (le vrai) và sự thực (le réel)(**) Ngày nay người ta gọi là chân lý đối vật (vérité-object) nghĩa là do lý trí tạo ra mà không là Thực thể Chân như, nó có sao thì mở phơi ra như vậy, không bị bóp méo do những ý niệm, những phạm trù của lý trí(**). Chính từ ý niệm và phạm trù của danh lý, nhị nguyên đối kháng của Tây phương ra đời. Khi đã nhận nguyên lý nhị nguyên, dầu một cách vô thức cũng vậy thì mọi sự vật đều bị coi như những cái chi rời rạc, nên phải tuân theo định đề nhị nguyên, và theo đó con người chỉ còn có Xác và Hồn mà thiếu Thần.(**) Tâm là nhịp cầu nối giữa Thân và Linh không có, nhịp cầu đã gãy, nếu không nói là hoàn toàn đã mất ở thế giới Tây Phương. Vì quan niệm về vũ trụ nhân sinh đã bị khập khiễng ngay từ trong căn bản. "Không phải ở chỗ này hay chỗ kia, nhưng người thời đại đi cà nhắc từ trong yếu tính, một cách kỳ cục và đã từ lâu lắm. Những tổ chức trong phạm vi xã hội, việc tái võ trang tinh thần, bụi rắc mắt của những hoạt động văn hóa, tất cả những thứ đó không sao đạt tới căn cơ. Mặc dầu đầy thiện chí, đầy cố gắng không ngừng nghỉ, tất cả những hoạt động trên chỉ là chi cành, vá víu từng ngày"( Heidegger)(**).

Trong Thánh Vịnh 50 (51), Thánh Vịnh nổi tiếng, Thánh vương David đã viết:

Lạy Chúa,

Ngài thấy cho: lúc chào đời con đã vương lầm lỗi,

Đã mang tội khi mẹ mới hoài thai.

Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật

Dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan. ( TV 50, 7-8 )

Một Sự Thực được nhắc đến, có lẽ Sự Thực nầy là Sự Thật mà Philatô hỏi Chúa Giêsu trong ngày xử án Người không ? Và Chúa đã thinh lặng, không trả lời câu hỏi đó tiếng nào. Không một tiếng cho một Sự Thực mà nhờ đó con người được Thiên Chúa dạy cho thấu triệt lẽ khôn ngoan, chính người ta phải tự đi tìm câu trả lời. Có lẽ tới đây, chính là lúc nầy đây, chúng ta phải mở một ngoặc lớn cho Nhịp Cầu Gãy nói trên.

Mở ngoặc đơn: Từ ngữ Tâm Linh, đến hôm nay, vẫn còn như xa lạ đối với thế giới Tây Phương, nhiều người nói tới Tâm Linh nhưng nếu hỏi Tâm Linh là gì, họ trả lời chưa chính xác. Có người cho Tâm Linh là Linh Hồn, là Tinh Thần, thực ra chữ Linh trong Tâm Linh và Linh Hồn hoàn toàn khác nhau. Tâm Linh là một từ của Đông Á mà chữ Linh được hiểu đồng nghĩa với Thần ( Spirit ), Tâm thì thuộc về Thân nghĩa là Con Người, vì thế Tâm Linh được hiểu là sự kết hợp mật thiết giữa Con Người và Thần Linh. Tâm là con người bên trong, không hình tướng nên Tâm mới dễ dàng hợp với Thần cũng là Đấng thiêng liêng. Tâm có tai, có mắt; Tâm nói được ( tiếng lương tâm ), nghe được, nhìn được nhưng không phải là cách nhìn, nói, nghe của thể xác bên ngoài. Tâm có đời sống độc lập với Thân mặc dù ở trong Thân (Ác Tâm vẫn cư ngụ trong một người có dáng vẻ hiền lành, tử tế bên ngoài), và Tâm là một lực bên trong nhưng điều khiển Thân bên ngoài từ ba đợt Ý, Tình và Chí của con người, cho nên Tâm là Toàn Thể của con người (**). Có người cho chữ Thần của Linh đi với Tâm là Tâm Thần là một xuyên tạc đầy ác ý, làm sai lạc nguyên nghĩa của Linh trong Tâm Linh. Tâm Thần là một bệnh lý của Thân thuộc về thân xác, chưa chắc đã có trong linh hồn người bệnh đừng nói chi đến Linh là Thần Linh hoàn toàn không thuộc Thân.

Linh Hồn ở trong thân xác, không có đời sống riêng nhưng hoàn toàn tùy thuộc vào thân xác cho tới lúc xác chết đi, hồn thoát xác để nên độc lập bên ngoài thân xác. Linh hồn không có tiếng nói, không nhìn, không nghe như Tâm. Chưa có ai nghe nói về tiếng nói của Linh Hồn khi Thân xác còn sống. Linh Hồn (Soul), là một thực thể chịu sự điều lý của Thân xác: Xác sống lành, chết Linh Hồn được thưởng; xác sống dữ, chết Linh Hồn bị trầm luân. Linh hồn trong cách đó là một thực thể cô lập, đơn côi riêng rẻ trong bóng tối u linh hoàn toàn chịu điều lý của Thân, không liên lạc chi tới Thần nếu xác thân từ chối Thần. Cho nên chữ Linh đi với chữ Hồn chỉ có nghĩa là Supre-Sensible, "Siêu giác quan trực thị" mà không có nghĩa là Tâm linh khi Linh đi với Thần(**)

Muốn thay đổi biến chuyển của linh hồn lên cao hay xuống thấp, xác thân phải thay đổi tình trạng đang có; nhưng muốn thay đổi tình trạng xác thân thì phải thay đổi từ Tâm vì, theo cách nầy, Tâm mới thực là tổng chỉ huy của con người: Tâm là chủ tể của toàn thân (toàn thể) Ý là cái sự phát ra của tâm,Tình là cái sự động của tâm, Chí là cái chỗ đi đến của tâm (Kim II)(**), cho nên muốn thay đổi con người phải tìm Tâm mà nói chuyện chứ không phải linh hồn! Và chỉ có Tâm mới tiếp xúc được với Linh ngay khi xác thân còn sống, Thần Khí mới làm cho sống chứ xác thịt chẳng có ích gì ( Ga 6, 63). Tâm tiếp cận được nguồn sáng siêu nhiên, gọi là Thần (Spirit), mặc thân xác có muốn hay không, chính tiếp cận nầy làm Tỉnh Thức xác thân.

Tâm Linh vẫn chưa được thế giới Tây phương chấp nhận, hoặc đôi khi có người nhìn tâm linh như một đối nghịch với đức tin Thiên Chúa Giáo, gọi đó là ma quỉ, không thèm nhắc tới, vì chưa hiểu ý nghĩa thực sự và giá trị của Tâm trong con đường tâm linh. Sở dĩ có điều đối ngược nầy là do nguyên nhân khác, sẽ bàn sau. Nên có lần một người bạn gay gắt chất vấn tôi: “ Tâm là cái gì ? Đâu chị chỉ cái Tâm của chị đó cho tôi coi coi !”. Thưa : Tâm là đây, là điều mà vua David gọi là “ tâm hồn chân thật ”, phơi bày trước mặt Chúa với những cái hay hay dỡ của vua. Nhờ Chân Tâm nầy, vua David đối thoại được với Thiên Chúa và được Chúa dạy ngài thấu triệt lẽ khôn ngoan ngay trên Thực thể Chân như đầy lầm lạc và tội lỗi của vua như vua đã viết trong Thánh Vịnh 50, 7-8.

Câu chuyện vua David làm người ta nhớ lại chuyện dụ ngôn hai người cầu nguyện trong Đền Thờ mà Chúa Giêsu đã kể trong Tân Ước, ai có tai thì nghe, ai hiểu được thì hiểu. Hai câu chuyện hai thời điểm khác nhau nhưng cùng một đề tài: Sự chân thành của Tâm, theo cách nói của người Đông phương. Hãy trở về thâm tâm để Thành (**), Thành đây không phải là thành công theo kiểu người đời ưa tìm kiếm, nhưng Thành đây là đạt Chí, điểm phải đến của hành trình hoán cải Tu Tâm, để con người hoàn toàn được đổi mới nhờ Ơn Ban của Thánh Thần và cố gắng thay đổi nơi con người từ đợt căn cơ là Tâm, hoán chuyển Ác Tâm đạt Thiện Tâm của con người. Danh lý làm ra như khác nghĩa, nhưng với Sự Thực Tự Thân, Chân Như, vẫn chung cùng một hướng đi, Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa đã đến với con người trong chiều hướng đó. Đấy là Sự Thật, Sự Thật mà Chúa Giêsu không trả lời cho Philatô vì Người biết Người có nói, có giải thích bao nhiêu thì hiểu lầm vẫn xảy ra, như hiểu lầm vẫn còn đó, cho tới ngày hôm nay. Một Sự Thật hoàn toàn khác hẳn với sự thật của con người: Sự Thật của Chân Tâm vì Sự Thật nầy thay đổi được con người, thay đổi được thế giới, là điều nhân loại mong mỏi từ 2000 năm nay. Đóng ngoặc đơn.

( Còn tiếp )

Nam Hoa

Chú thích (**) : Kim Định, Tâm Tư, website Việt Nam Văn Hiến

Tác giả: