Dân Mình Ngộ Quá !
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Nam Hoa
Dân hai nhăm triệu ai người lớn ?
Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con.
(Tản Đà, Mậu Thìn Xuân Cảm, 1932)
Dân Mình Ngộ Quá !
Tác phẩm “Gì cũng Cười” của tác giả Nguyễn Văn Vĩnh viết đã lâu, thời văn học Việt Nam chuyễn mình theo hình thức mới, dùng chữ Quốc Ngữ trên diễn đàn sách vở, báo chí. Tác phẩm ngắn, nhưng được ghi vào văn học sử cận đại Việt Nam không phải chỉ bằng văn chương nhưng bằng tính chất độc đáo của nó, nói lên cá tính ngồ ngộ của dân Việt.
An Nam ta có một thói lạ là thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng hì, mà dở cũng hì; quấy cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng, mọi việc hết nghiêm trang. ( Nguyễn Văn Vĩnh, Gì Cũng Cười, Đông Dương Tạp Chí 1913 ). Ông viết tiếp: Nhưng mà xét ra cái cười của ta nhiều khi có cái vô tình độc ác; có cái láo xược khinh người; có câu chửi người ta; có nghĩa yên trí không phải nghe hết lời người ta mà gièm trước ý tưởng người ta; không phải nhìn kỹ việc người ta làm mà đã chê sẵn công cuộc người ta.(sđd). Như thế, cái cười của dân mình không hẳn vì tánh vui vẻ xuề xòa, nhưng còn điều gì ẩn khuất bên trong. Lòng có đầy miệng mới nói ra ( Mt 12, 34), đôi khi nói không được thì nhăn răng hì một tiếng thay vì.
Tiếng cười, do đó, thay điều muốn nói mà dân mình là dân thích hội hè, tìm dịp nói năng, nhưng vì lẽ nào không nói được thành phát ra tiếng cười lắm nghĩa: Cười thoải mái, cười vô tư, cười cầu tài hay e thẹn, cười mỉa mai hay chua chát, cười ruồi, cười mát, cười đểu, cười gằn… Cười vì vui mà đôi khi cười cũng vì sợ. Xét cho cùng, Đất Nước 4000 năm bao nhiêu năm thực sự Tự Do ? Tôi còn nhớ mang máng ngày còn bé được xem phim Việt Nam “ Chúng Tôi Muốn Sống”, có một đoạn chiếu cảnh một người bật cười khi ngủ và lời diễn viên vai chính phụ họa: “ Chỉ lúc mơ mới cười được !”. Có thể nào bao nhiêu năm chinh chiến, loạn lạc, hết chống ngoại xâm thì quay sang nội chiến; hết nhục nhằn 1000 năm Bắc thuộc, lại trăm năm bị đô hộ bởi giặc Tây, đến độ có người nói: Là người Việt mà cả đời chưa một lần chạy giặc thì chưa phải Việt Nam ! Từng đó gian nan đã làm thành tiếng cười, xem chừng vô lý, của người mình chăng ? Vậy hóa ra, cái Gì Cũng Cười thâm căn cố đế để thành Tật của người Việt Nam như Nguyễn Văn Vĩnh nói tới trong Xét Tật Mình (sđd), khiến Dân mình phải nhìn lại vì cái tiếng, cái tật bị mang từ bấy lâu là do đâu.
Đọc lại Việt Sử, cháu con Việt Nam không khỏi ngậm ngùi, bàng hoàng hay thương cảm cho những giòng Sử đẫm máu của cha ông ta từ ngày lập quốc đến nay. Nhưng công bình mà nói, những giòng Việt Sử chính tông chỉ được thực sự giảng dạy cho con dân Nước Việt từ sau 1954 tại Miền Nam Việt Nam chính thức bắt đầu từ 1958, năm mà nền giáo dục cũng như guồng máy cai trị tại Miền Nam Việt Nam dưới nền Đệ Nhất Cộng Hòa bắt đầu hoàn chỉnh, được cải tổ và giảng dạy theo đường hướng mới sau bao năm người Việt điêu linh do thời bị trị và những xáo trộn chính trị, quân sự chia đôi đất nước. Năm 1958, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa tổ chức Đại hội Giáo dục Quốc gia lần I tại Sài gòn với sự tham dự của mọi thành phần xã hội: giáo sư các cấp từ tiểu đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật..., phụ huynh học sinh, học giả, đại diện quân đội và các tổ chức tư nhân để xây dựng một nền Giáo dục Quốc gia theo ba nguyên tắc ‘nhân bản’, ‘dân tộc’, và ‘khai phóng’ được ghi cụ thể trong tài liệu ‘Những nguyên tắc căn bản’ do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và, sau đó, trong Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967 (Hà Minh Thảo, Giáo Dục Nhân Bản và Đại Học Fulbright ). Và nền giáo dục nhân bản đó chỉ kéo dài đến 30 tháng 4, 1975 là chấm dứt khi đất nước Việt Nam đổi chiều trong biến cố lớn, đem Việt Nam vào chế độ Cộng Sản mãi đến hôm nay. Có nghĩa, người Việt được học rõ nguồn gốc dân tộc, các biến loạn lịch sử cổ kim của Đất Nước mình trong vòng chưa đến 20 năm, chưa tròn một thế hệ, thì thời thế lại đổi thay !
Trước đó, thời Pháp thuộc kéo dài 100 năm, dân mình không có nền giáo dục riêng, chương trình học rập khuôn theo mẫu quốc cốt đào tạo cán bộ, nhân viên làm việc cho chính quyền thuộc địa và giới chủ nhân thời đó. Sau nầy, miền Bắc rơi vào chế độ Cộng Sản, giáo dục tập chú theo Mác-Lê phục vụ cho chế độ, biến con người thành tập thể bầy đoàn tiến nhanh tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa, cá nhân chỉ thành một đơn vị sản xuất rập khuôn, không ra ngoài chủ nghĩa tam vô, nhân bản trở thành thứ xa xỉ phẩm tiểu tư sản thành thị phải bị dẹp bỏ, bị nghiền nát trong guồng máy tập đoàn. Xa hơn trước, dưới các thời Bắc thuộc, loạn ly, người dân trở thành những kẻ nô lệ lên non tìm báu, xuống biển mò châu, để mang về cống nạp châu báu đó cho cường quyền thống trị mà chẳng dám hé môi. Qua bao ngàn năm bị đày ải dưới bạo lực cường quyền, người dân không còn tiếng nói, chỉ biết ...nhăn răng cười cho qua dằn vặt khổ ải. Tiếng cười dân mình là cái cười xuất phát từ tiềm thức hơn là bản năng, từ cõi lòng cay đắng, đè nén của thống khổ nhục nhằn hơn là biểu lộ niềm vui, từ ngàn năm trước (!?). Những cái cười đó là dịp khả thể biểu lộ những gì trong thâm tâm họ, đôi khi chua cay, độc ác mà chính họ cũng không ngờ. Ôi nụ cười đáng thương hơn đáng trách, vì họ có hiểu điều mình làm đâu, chỉ cốt tìm an phận hay chút hảo danh vốn hiếm hoi của người bị trị, chẳng hiểu Tự Do để đồng cảm với người, ngay chính đồng bào của họ, vì nguồn gốc lịch sử Việt tộc vốn mịt mờ không được học đến, không người nhắc nhở cho nhau.
Vài điểm về người mình theo Viện nghiên cứu xã hội học Hoa Kỳ thì người Việt có các tố chất cơ bản sau:
* Cần cù lao động, nhẫn nại, chịu đựng trong mọi hòan cảnh khó khăn song dễ thỏa mãn.
* Thông minh, sáng tạo, song chỉ có tính chất đối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn, chủ động.
* Hiếu học, biết quý trọng giáo dục, người trí thức, có khả năng tiếp thu nhanh, song ít khi học “đến đầu đến đuôi” nên kiến thức không hệ thống, mất cơ bản. Ngoài ra, người Việt học tập không phải chỉ vì kiến thức (nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện, vì kiếm công ăn việc làm, ít vì chí khí, đam mê).
* Thích ai thì bốc lên tận mây xanh, ghét ai thì dùng mọi lời lẽ để lăng nhục, sỉ vả, chửi bới người ta. Thiếu thận trọng về ngôn ngữ. Thiếu tinh thần vô tư.
* Ham tiền - Hiếu danh - Coi thường danh dự - Vô cảm và hèn nhát - Coi nhẹ ý nghĩa "đồng bào".
( Những tính Tốt và Xấu của người Việt, không rõ tác giả)
Đó là vài nhận xét của người ngoài, dĩ nhiên có người đồng ý, có người không. Nhưng nếu đi vào chiều sâu, nhìn sự việc tận nguồn gốc: Đành rằng phải có chuyên môn nhưng đồng thời phải dạy cho biết cái Toàn thể tức là Đạo làm người. Có thế mới là "tiên quy nhi hậu vi chi". Nếu không trước hết hồi hướng về thâm tâm để mình tìm lại mình rồi mới thực hiện (vi chi) thì dầu chuyên môn có giỏi rồi cũng chỉ đến "vinh thân phì gia", chứ không mong gì giúp ích xã hội. Điều nhận xét trên áp dụng cho toàn thế giới. Con người hiện nay đã "thành công" rất lớn, nhưng "thành nhân" rất nhỏ. Con người chưa được sửa soạn đủ để hưởng cái thành công của mình. Thay vì lấy thành công tô thắm cuộc đời thì lại dùng để tiêu diệt lẫn nhau. Vì chưa tìm ra cái toàn thể làm gốc để quy tụ các động tác tư riêng nên mọi chương trình trở thành vá víu. (Kim Định, Tâm Tư)
Sau bao nhiêu năm bị trị, dân mình đã nghèo, lại khốn khó hơn nên, dù thông minh, vẫn chưa học được cách để phát huy con người thật sự nhân bản, đa số thích hướng ngoại, chạy theo vật chất, bề thế bên ngoài mà đánh mất gia sản văn hiến 4000 năm, mang giá trị tinh thần lớn lao. Có nói họ cũng không hiểu, hở chút ra là tranh, là dành, như lũ trẻ con, chẳng chút suy tư. Đó là tình trạng mà các triết gia gọi là vong thân, đánh mất chính mình. Mở quyển "Thế nào là suy tư" của Heidegger lại đọc thấy câu này: "Điều đáng cho chúng ta suy tư hơn hết là chúng ta chưa có suy tư". Một điều kinh hoàng được Heidegger phát giác là con người chưa có suy tư: hay có suy tư nhưng một cách kỳ cục. "Con người đã làm quá nhiều mà suy tư quá ít, mãi từ bao thế kỷ đã như vậy".( Kim Định, Tâm Tư ). Người mình đã vong thân còn thêm vong bản, đánh mất căn bản nguồn cội, đánh mất Việt Nam ngay trong chính tâm tư ! Người mình đã làm việc quá nhiều mà suy tư quá ít, vì bao nhiêu ngàn năm rồi đã vong thân còn thêm vong bản, nên chẳng biết thương chính dân tộc của mình, chính người mình. Đã hại dân còn thêm bán Nước, chỉ lo làm giàu vinh thân phì gia, mà quên dân tộc mình đã quá lầm than ! Chỉ biết lợi lộc mà quên chính nghĩa, chỉ nhìn bề mặt mà quên chiều sâu tinh thần, lo duy vật mà thiếu duy Tâm nên trọng điều đáng coi khinh, lại khinh điều đáng coi trọng.
Vong thân vì con đường hướng Tâm bít lối, chỉ lo tranh dành lợi lộc bên ngoài, nói nhiều nhưng chỉ toàn chuyện đâu đâu, lầm lẫn giữa thời sự và tâm linh, không nhận được ánh sáng nội tâm biết chính mình để sửa đổi mà cải tiến, nên 4000 năm rồi Nước vẫn còn tụt hậu. Vong bản, nên từ lâu rồi dân mình thích học theo Tàu, theo Tây mà chê học Việt dù văn hóa Việt Nam rất phong phú, đầy Nhân Nghĩa, trọng Con Người nhân bản tâm linh. Dân mình xín nói tiếng Tàu, tiếng Tây, tiếng Mỹ hơn tiếng Việt, xính hàng ngoại hơn hàng nội hóa lôcan. Dân mình ngộ vậy đó. Có lần ông thầy dạy Việt Văn nói với chúng tôi: Dân mình thích xài hàng made in ở đâu cũng được, ngay cả made in Căm-Bu-Chia, mà không phải Việt Nam. Dân mình ngộ quá ta ơi ! Thích thành công bề ngoài, hơn rèn luyện chính mình để thành nhân chi mỹ, dân mấy chục triệu có ai như Nguyễn Thái Học dõng dạc “ Không thành công, nhưng Thành Nhân ” để nghĩ tới Nước, tới Dân.
Văn hóa Việt Nam không ghi bằng văn tự, nên đến nay có người nghi vấn về nền văn hiến 4000 năm, mà không thấy những khắc cốt ghi tâm còn sống mãi trong tâm hồn người Việt, dân có tiếng nói đầy thanh âm như tiếng hát ca:
Tiếng Nước tôi, tiếng mẹ sinh từ thưở nằm nôi
Bốn nghìn năm thành tiếng lòng tôi, Nước ơi ! ( Phạm Duy, Tiếng Nước Tôi )
Sóng vỗ mênh mang như câu ru êm của Mẹ dịu dàng
Nước biếc, sông sâu như đôi tay ôm của Mẹ trùng dương
( Phạm Duy, Mẹ Trùng Dương, trường ca Mẹ Việt Nam )
Những trưa hè yên vắng, hay giữa đêm thanh, có ai lắng nghe được tiếng ru nhẹ nhàng theo nhịp võng kẽo kẹt đong đưa lời chân chất, đầy tự tình hiền hòa dân tộc:
Ầu ơ...ơi... Đèn Sài Gòn thì ngọn xanh ngọn đỏ, đèn Mỹ Tho thời ngọn tỏ ngọn lu.
Anh dìa anh học chữ Nhu. Ầu ơ...ơi.. Anh dìa anh học chữ Nhu
Chín Thu em đợi ( mà) mười Thu em chờ . Ầu ơ … ơi ơ…
Ầu ơ...ơi... Tưởng giếng sâu, tui nối sợi dây dài
Ai ngờ giếng cạn. Ầu ơ...ơi.. Ai ngờ (mà) giếng cạn, tui tiếc hoài sợi dây. Ầu ơ..ơi !
Người mình không hời hợt vô tâm, chỉ tại thời thế điêu linh khiến xui dân mình khốn khổ, quên mất cội nguồn tiền nhân dầy công xây đắp, chỉ cần ai khơi lại giòng lịch sử chính tông, bi tráng đã làm nên dân tộc kiêu hùng bất khuất dù bị đày ải dưới biết bao bạo tàn của bạo lực bá quyền ỷ mạnh hiếp yếu đã mấy ngàn năm. Như đứa bé lên năm lên ba làng Phù Đổng thời Hùng Vương thứ sáu; trước thế mạnh như nước vỡ bờ của giặc Ân phương Bắc tràn sang cướp phá Nước ta, Vua ra hịch cầu hiền giúp Nước, cậu bé đã vươn vai lớn dậy, xin Vua ban roi sắt, ngựa sắt để xông pha trận mạc đánh đuổi ngoại xâm. Dẹp giặc xong, Phù Đổng tướng quân đã một mình một ngựa lên núi Sóc Sơn và biến mất, không màng danh lợi, chỉ lo đem hết sức lực nhiệt huyết giúp Nước, cứu Dân. Về sau Vua phong là Phù Đổng Thiên Vương, người mình gọi nôm na là Thánh Gióng để nhớ công.
Dân mấy chục triệu vẫn có người như Nguyễn Thái Học trọng Thành Nhân hơn thành công. Thời loạn ly binh biến, vẫn có người như Thánh Gióng từ cậu bé con vươn vai lớn lên trước nguy cơ của Đất Nước, không màng danh lợi mà ra tay giúp đời. Thì dân Việt có thể tin rằng, qua bao nhiêu đau khổ, qua từng đó tang thương, Dân ta sẽ trưởng thành trong thẳm sâu tâm hồn mà vươn vai đứng dậy, sát cánh bên nhau vì chí hướng cao đẹp mà gìn giữ tổ quốc, truyền cho nhau Mệnh Trời đã có trong Tâm mà bảo vệ giống nòi.
Nguyện xin Ơn Trên soi sáng và dẫn dắt chúng con, ban sức mạnh tinh thần từ tâm linh trong sáng, kết hiệp với Trời là Đấng chúng con vẫn hằng tin tưởng, tín thác và cầu xin.
Lạy Mẹ Maria, Người Mẹ mà dân Việt chúng con vẫn hằng tha thiết nguyện cầu, xin Mẹ đoái thương nhìn xem nước Việt chúng con đang lâm cảnh khốn khó lầm than mà ra tay phù hộ, cứu giúp chúng con. Giúp chúng con biết nhìn ra con đường đúng đắn để theo, và ra sức vượt thắng trở ngại lớn lao từ bên trong tâm hồn, đến bên ngoài bạo lực để đưa Việt Nam thân yêu của chúng con thoát nguy nan.
Nam Hoa