Đấng phục sinh quan tâm chu đáo - Thoát khỏi bóng tối
- T5, 01/05/2025 - 20:34
- Phạm Văn Trung
ĐẤNG PHỤC SINH ĐẦY SỰ QUAN TÂM CHU ĐÁO
Hôm nay chúng ta được Tin Mừng kể về Chúa Giêsu phục sinh hiện ra lần thứ ba với các môn đệ, trên bờ Biển Hồ Tibêria, với mẻ cá kỳ diệu (Ga 21:1-19). Sau những ngày khổ nạn và cái chết khủng khiếp của Chúa Giêsu, các tông đồ trở lại công việc thường ngày của họ: đi đánh cá. Chắc chắn họ thấy những chuyện đã xảy ra thật là khó hiểu. Có lẽ họ vẫn còn hoang mang, và sống trong một nỗi buồn như một đêm tối bao phủ. Thêm nữa, việc đánh cá tối nay chẳng mang lại kết quả gì. Mọi thứ dường như đã kết thúc, nhưng ngay lúc đó Chúa Giêsu lại đến tìm kiếm các môn đệ của Ngài. Chính Ngài là người đi tìm gặp họ.
- Thiên Chúa đến với chúng ta
Tin Mừng hôm nay bắt đầu vào ban đêm. Đây là thời điểm thích hợp để bắt cá. Đối với Thánh Gioan, ban đêm không chỉ hiểu theo nghĩa đen, mà còn ám chỉ đêm tối bên trong tâm hồn, sự vắng mặt của Thiên Chúa, sự cô đơn và khốn cùng, sự cám dỗ: “Sau khi ăn miếng bánh, Giuđa liền đi ra. Lúc đó, trời đã tối” (Ga 13: 30). Cõi lòng các tông đồ bị sự tối tăm bao phủ, đó là trạng thái tâm hồn của các ông: “Nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả” (Ga 21: 3). Họ vẫn còn sợ hãi, mặc dù họ đã rời khỏi căn phòng có “các cửa đều đóng kín” nơi họ đã thấy Chúa Kitô Phục sinh “đến đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em!” (Ga 20: 19. 26). Họ trở về Galilê, nơi họ gặp Chúa Kitô lần đầu tiên, nơi họ đã từ bỏ mọi thứ để theo Ngài. Việc không bắt được gì trong chuyến đánh cá này càng khiến họ cảm thấy mình bất lực, không thể có được những gì họ mong muốn. Hẳn họ vẫn còn nhớ mẻ cá lạ lùng mà họ có được trong những ngày đầu họ đi theo Rabbi Giêsu, và có lẽ họ đang âm thầm mong sự xuất hiện của Đấng có thể đem lại cho họ thứ mà họ không thể đem lại cho chính mình. Đêm tối đang dần chuyển sang bình minh, và “Khi trời đã sáng, Chúa Giêsu đứng trên bãi biển” (Ga 21: 4).
Sáng nay, chính Chúa Kitô đã xua tan bóng tối của chúng ta: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1:5). Chúa Giêsu có mặt “nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Chúa Giêsu” (Ga 21: 4) đúng như thánh sử Gioan đã khẳng định ngay từ đầu sách Tin Mừng của Ngài: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Ngài ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Ngài mà có, nhưng lại không nhận biết Ngài” (Ga 1: 9-10). Ngài cất tiếng gọi họ: “Này các chú” (Ga 21: 5). Xin cho chúng ta có thể nhận ra Chúa Kitô Phục Sinh và nghe được tiếng Ngài gọi trong đời sống mỗi ngày của chúng ta.
2. Nhận ra Chúa Giêsu, Đấng Phục Sinh.
“Người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: Chúa đó!” (Ga 21: 7). Trước đây, thánh Gioan là người đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu đã sống lại: “Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20: 8). Nay qua mẻ cá kỳ diệu này, hoặc qua giọng nói mà ông rất quen biết, hoặc qua ký ức về mẻ cá đầu tiên, nhưng trước hết chính qua mối tương quan “thương mến” (Ga 20: 2) rất riêng của ông với Thầy Giêsu mà Gioan có đủ sự nhạy bén để mau chóng nhận ra “Chúa đó” (Ga 21: 7). Còn thánh Phêrô, vốn có lòng nhiệt thành hơn, nên ông “vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển đã đến với Chúa” (Ga 21: 7). Vấn đề là các ông đã nhận ra “Chúa và Thiên Chúa của họ” (Ga 20:28). Chính Chúa Kitô Phục Sinh đã tỏ mình ra cho họ. Như thế không chỉ có một, nhưng nhiều phép lạ xảy ra, từ không có con cá nào trở thành có đủ các loại “cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con” (Ga 21: 11), từ không biết đến nhận ra được Chúa Kitô Phục Sinh trong cuộc mưu sinh của đời mình: “các ông biết rằng đó là Chúa” (Ga 21:12), từ “không bắt được gì cả” đến “Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa” (Ga 21: 9). Chính Chúa Phục Sinh phục vụ các ông: “Chúa Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Ngài cũng làm như vậy” (Ga 21: 13).
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy chúng ta không dễ nhận ra Chúa Kitô Phục Sinh trong đời sống hàng ngày biết chừng nào. Chúng ta hiểu rất ít về Đấng Phục Sinh. Ngài vượt quá xa chúng ta dù Ngài vẫn rất gần gũi và chân tình với chúng ta. Không phải bởi lý luận nhưng trên hết chính bởi tình yêu thương mà chúng ta nhận ra và biết Ngài, như Thánh Gioan, “người môn đệ được chúa Giêsu thương mến” (Ga 21: 7).
Chúng ta cũng cần sự giúp đỡ của Chúa Giêsu để nhận ra Ngài luôn sống trong cuộc đời của chúng ta, và có được kinh nghiệm về Đấng đã khẳng định: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11: 25). Ngài sống và có mặt luôn mãi trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta và mời gọi chúng ta đến với một cuộc sống mới, là con cái của Thiên Chúa. Chúng ta hãy chú ý lắng nghe tiếng Chúa, đặt tất cả niềm tin tưởng nơi Ngài; “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1: 37). Chúng ta cùng nhau cất tiếng ca tụng: “Chúa nay thực đã phục sinh, Allêluia.”
3. Vâng theo Đấng Phục Sinh đem lại kết quả dồi dào
Bất ngờ, một người “đứng trên bãi biển…nói với các ông: Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá” (Ga 21: 4-6). Và, vâng theo lời người đàn ông này, mẻ cá “không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá…Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con” (Ga 21: 6-11).
Hôm nay, Đấng Phục Sinh đi tìm gặp các môn đệ của Ngài. Ngài đến để tập hợp họ lại và an ủi họ bằng sự hiện diện của Ngài. Giống như thế, Chúa Giêsu không để chúng ta đơn độc. Ngài liên tục đi tìm gặp và có mặt đúng thời đúng chỗ để giúp đỡ chúng ta. Chúa Kitô vẫn có mặt nơi sâu thẳm cơn đói khát nhiều mặt trong cuộc sống của chúng ta, khi chúng ta bị nỗi tuyệt vọng áp đảo. Ngài tìm kiếm và mời gọi chúng ta đến với Ngài để được nuôi dưỡng và dự phần vào sứ mệnh “Hãy chăm sóc đàn chiên của Thầy” (Ga 21: 17).
Từ khi Chúa Giêsu sống lại, các tông đồ có vè như giữ khoảng cách với Chúa Giêsu. Vị Thầy rất thân quen trước đây của họ nay rất lạ và nhiệm mầu. Các tông đồ không dám tiếp tục ứng xử với Chúa Giêsu theo thói quen trước kia của họ nữa, dù “các ông biết rằng đó là Chúa”, nên “Không ai trong các môn đệ dám hỏi Ông là ai?” (Ga 21: 12). Sự hiện ra của Chúa Giêsu với các tông đồ được biểu lộ qua những dấu hiệu nhiệm mầu nhưng hiển nhiên đến nỗi không ai dám phủ nhận, hoặc thậm chí nghi ngờ. Sự nhiệm mầu đó đã tạo ra một sự kính sợ nơi các ông đối với Ngài. Tuy nhiên, Chúa Giêsu với lòng nhân từ vốn có nói với họ: “Đem ít cá mới bắt được tới đây” (Ga 21: 10) và mời họ: “Anh em đến mà ăn!” (Ga 21: 12). Đó là bữa sáng mà Ngài đã chuẩn bị cho họ. Đó là bữa ăn dành cho các tông đồ, và cho tất cả những ai bước theo các ông, tượng trưng cho niềm vui trên thiên đàng mà một ngày nào đó họ sẽ vui hưởng muôn đời, như ngôn sứ Isaia tiên báo: “Ngày ấy, trên núi này, Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25:6), hoặc như sách Khải huyền khẳng định: “Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới Con Chiên” (Kh 19:9). Bữa ăn sáng đạm bạc này như muốn nhắc lại cho các tông đồ sứ mệnh Thầy Giêsu đã giao cho các ông: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” (Lc 5: 4) và: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mc 1: 14) mà dường như các ông đã quên mất khi trải qua những biến cố bi thảm của Thầy mình. Chúa Giêsu đang chuẩn bị các môn đệ của Ngài cho những sứ vụ tương lai của các ông. Chính qua tình yêu khiêm hạ đối với Chúa Kitô mà Phêrô, các Tông đồ và mỗi người chúng ta trong Giáo hội được trao cho sứ vụ “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Ga 21: 17). Lời Chúa Giêsu kêu gọi Phêrô cũng là lời Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta. Tất cả chúng ta đều thuộc về đàn chiên của Chúa Giêsu, và chúng ta được kêu gọi chăm sóc lẫn nhau. Chúng ta được kêu gọi để biến tình yêu của chúng ta dành Chúa Giêsu trở nên cụ thể bằng cách chăn dắt và nuôi dưỡng các chiên con của Ngài, về mặt tinh thần, tình cảm cũng như thể chất, như cùng nhau đọc kinh chung trong gia đình, trong khu xóm, hội đoàn, và dành thời gian thăm hỏi, giúp đỡ nhau, khi khỏe mạnh cũng như lúc ốm đau, như những người thân thiết.
Chúng ta có thể làm được gì nếu không có Chúa Kitô? Không làm được gì, hoàn toàn không làm được gì. Không có Ngài, cuộc sống của chúng ta sẽ trống không, “không bắt được gì cả” (Ga 21: 3). Chúng ta có tin chắc rằng nếu không có Chúa Giêsu, cuộc sống của chúng ta sẽ mất đi sắc màu vui tươi, nhưng khi có Ngài thì mọi việc sẽ đổi khác không? Chỉ khi liên hệ sâu xa và nghe Lời Đấng Phục Sinh thì những phép lạ mới có thể xảy ra trong cuộc sống của chúng ta. Vâng theo Chúa Kitô, Ngài sẽ không để chúng ta thiếu gì. Nhưng liệu chúng ta có muốn từ bỏ những suy nghĩ vị kỷ, những mưu tính cá nhân, lối sống tục hóa, rồi ra đánh mất ý nghĩa tối hậu của cuộc đời mình vì “không bắt được gì cả” (Ga 21: 3), để vâng lời Thiên Chúa, tin và vui mừng làm chứng rằng Chúa Giêsu Phục Sinh là Đấng Cứu Độ mọi người không?
Xin cho chúng ta, như trong bài đọc thứ hai, có được “quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban” (Cv 4: 33) để sống như lời rao giảng của thánh Phêrô và các Tông Đồ: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. Chúa Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Ngài trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Ngài lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel ơn sám hối và ơn tha tội. Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Ngài” (Cv 5: 29-32).
Phêrô Phạm Văn Trung
THOÁT KHỎI BÓNG TỐI ĐỂ ĐÓN NHẬN ÁNH SÁNG
Nếu chúng ta không có lòng tin để chấp nhận ánh sáng của Chúa Kitô Phục Sinh, thì chúng ta sẽ bị giam giữ mãi trong tối tăm của chính mình, ngay cả dù chúng ta thực lòng không muốn. Ánh sáng đó gây choáng ngợp vì vượt quá xa cảm nhận thông thường của chúng ta. Con người chúng ta không đủ khả năng hiểu rõ ràng và trọn vẹn những gì thuộc về Thiên Chúa, trong đó có mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Kitô. Tâm trí của chúng ta, trước các mầu nhiệm của Thiên Chúa nói chung, và Sự Phục Sinh của Chúa Kitô nói riêng, tỏ rõ sự hạn hẹp yếu kém của nó, vì nó chỉ dựa vào những kinh nghiệm trong thế giới hữu hình của riêng mình và các cảm xúc hay thay đổi tùy lúc, vốn bị chi phối quá thường xuyên bởi những phản ứng với những điều khả giác trong cuộc sống thường ngày. Chúng ta bị giam giữ trong cách cảm nhận đó quá mạnh mẽ đến độ nó trở thành như một bản chất cố hữu, và khuôn định lối suy nghĩ, lối lý luận của chúng ta trong cái vòng xoay khởi đi từ duy cảm, duy nghiệm đến duy lý, để hình thành nên một hệ quy chiếu mà chúng ta xác tín rằng đó là chuẩn mực tri thức duy nhất, ngoài chuẩn mực đó không còn gì khác.
- Chuyện tâm linh không thể coi thường.
Thế nhưng cuộc sống vẫn cho chúng ta thấy có những thực tại vượt ra, rất xa, rất cao, siêu việt khỏi cái chuẩn mực của hệ quy chiếu có vẻ như tuyệt đối và toàn trị đó, vượt ra khỏi sự “độc đoán của lý luận đơn thuần”. Vẫn có đó những thực tại siêu hình mà con người không thể chỉ nắm bắt bằng suy lý thuần tuý, nhưng phải cần tới một cung cách nhận thức khác, như những người bình dân thường nói nôm na rằng “chuyện tâm linh không coi thường được đâu!” Đó là những mặc khải siêu nhiên của Thiên Chúa, là những tỏ bày linh thiêng từ Trời Cao, những thực tại rất tốt đẹp nhưng lại có vẻ kỳ lạ, khiến chúng ta nghi ngờ, không biết chúng có thật hay không. Thật vậy, đôi khi chúng ta không thể tin chỉ vì lý do này: điều đó quá tốt đẹp nên không thể là chuyện có thật được.
Trong sách Tin Mừng của Thánh Luca, các môn đệ của Chúa Giêsu Phục Sinh không tin vào Ngài vì một lý do lạ lùng: niềm vui của họ quá lớn lao! “Các ông còn chưa tin vì mừng quá” (Lc 24,41)
Một số người nói rằng họ không thể tin rằng Chúa Giêsu thực sự biết đến và yêu thương từng người trên thế giới, vì điều đó dường như vượt sức tưởng tượng của họ, dựa trên những kinh nghiệm tích lũy có dư từ lâu trong cuộc sống cụ thể mỗi ngày của họ. Có quá nhiều người, nhiều lối sống, nhiều hoàn cảnh, nhiều bất hạnh, không ai có thể quan tâm chăm sóc hết được.
Một số người lại suy nghĩ cách khác. Không nghĩ đến lượng nhưng nghĩ đến chất, họ nói rằng việc gì phải mắc nợ và mang ơn ai quá đáng như vậy, lấy gì mà trả cho nổi, kinh nghiệm dạy bài học tự lo cho mình trước đã, vậy là đủ. Như thế, họ phản ứng cưỡng lại và kết luận rằng không cần đến điều được gọi là sự tha thứ quá rộng lượng của Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu.
Lại có một phản ứng có vẻ như đạo hạnh hơn: một số người thấy mình bất xứng đến độ không thể hiểu được làm thế nào mà ân sủng của Thiên Chúa lại có thể mang đến cho họ phẩm giá không thể bị phá hủy trong tư cách là con cái Thiên Chúa. Thiên Chúa tuyệt đối thánh thiện cao vời làm sao có thể có điều gì chung với phàm nhân đầy bất toàn, không chút gì tương xứng?
Cảm nhận này nhắc người ta nhớ lại phản ứng của ba môn đệ thân nhất của Chúa Giêsu trong cuộc Biến Hình, khi vinh quang của Ngài làm cho các ông rơi vào trạng thái sợ hãi sững sờ: “Các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất” (Mt 17:6).
Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu, không muốn là nguồn gốc của nỗi kinh sợ của con người. Trong ý định từ muôn đời, Ngài muốn con người hiệp nhất với Ngài trong kế hoạch yêu thương của Ngài, như thánh sử Gioan chiêm niệm:
- “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa...Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Ngài ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Ngài mà có, nhưng lại không nhận biết Ngài. Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Ngài, thì Ngài cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1: 1-12).
Và sau khi “chỗi dậy từ cõi chết”, không phải ngẫu nhiên mà Chúa Giêsu Phục Sinh giúp các môn đệ thoát khỏi sự bàng hoàng khi Ngài yêu cầu họ một cách cụ thể: “Ở đây anh em có gì ăn không? Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng. Ngài cầm lấy và ăn trước mặt các ông” (Lc 24: 41-43). Sự sống lại của Chúa Kitô chắc chắn là một biểu lộ linh thiêng, nhưng vẫn diễn ra trong tất cả những gì rất cụ thể đời thường của con người trần thế, mà vẫn là một mặc khải siêu nhiên của Thiên Chúa, vốn không thể hiểu trọn vẹn hết được. Sách Tin Mừng Gioan mô tả Tôma được Chúa Giêsu khích lệ rất cụ thể: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20: 27). Gioan không cho biết Tôma có làm theo lời Chúa Giêsu không, ông chỉ mô tả: “Tôma thưa Ngài: Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20: 28). Đây là một phản ứng bộc phát tự nhiên và đương nhiên của Tôma nhưng lại cho thấy cả một cõi linh thiêng đang hiện diện trước mặt phàm nhân.
Trước những thực tại siêu nhiên như thế, con người chỉ còn một cách duy nhất là kêu lên như Tôma: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Những mặc khải siêu nhiên của Thiên Chúa là phúc lành dành cho những người có lòng tin tưởng, chứ không dành cho những ai chỉ muốn kiểm định và đánh giá mọi sự theo hệ quy chiếu thuần lý của phàm nhân, vốn không thể định chuẩn cho những thực tại linh thánh: “Chúa Giêsu bảo: Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20: 28).
Tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Kitô là một quyết định cá nhân, một chọn lựa căn bản có sức biến đổi cuộc sống của con người, từ những hạn hẹp của cảm xúc và sự mờ tối của lý trí đến ánh sáng rực rỡ choáng ngợp của cõi linh thiêng, vốn đã được tỏ lộ trước trong Cuộc Hiển Dung. Ông Phêrô thưa với Chúa Giêsu, như trong mơ, rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia. Ông không biết mình đang nói gì” (Lc 9: 33). Người ta chỉ có được ánh sáng này bắt đầu bằng một cuộc gặp gỡ cá vị với Đấng Phục Sinh, trong một hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống, như của hai môn đệ trên đường Emmau: “Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài, nhưng Ngài lại biến mất. Họ mới bảo nhau: Dọc đường, khi Ngài nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Lc 24: 31-32). Sáng kiến gặp gỡ và ý muốn tỏ lộ này luôn luôn khởi đi từ Thiên Chúa, một cách nhưng không, vô điều kiện, bằng một lòng thương yêu vừa mãnh liệt vừa dịu dàng, đầy an vui: “Chúa Giêsu đứng giữa các ông và bảo: Bình an cho anh em!” (Lc 24: 36). Phần việc của con người là khiêm hạ chấp nhận những giới hạn mọi bề của mình để mở tâm trí và cõi lòng ra đón lấy ánh sáng rạng ngời có sức mạnh đổi đời của Đấng đã chiến thắng ngay cả giới hạn to lớn nhất của trần gian là sự chết.
2. Cùng Đấng Phục sinh, tham gia vào kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa.
Tin và đón nhận niềm vui bình an của Chúa Phục Sinh cũng là tham gia vào kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa.
Sau khi tỏ mình ra với các tông dồ, Chúa Phục sinh nhắc rằng sứ mệnh của họ đã được nói đến trước đó rồi và sẽ được hoàn thành, giống như cái chết và sự phục sinh của Ngài:
- “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Chúa Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24: 46-47).
Cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu là cốt lõi của Tin mừng. Và sự sám hối để được ơn tha tội cần được các Kitô hữu công bố nhân danh Ngài. Đó là lời mời gọi của Đấng Phục Sinh, rằng tất cả mọi người ở khắp mọi nơi cần tin vào Ngài và sám hối tội lỗi tối tăm của mình. Thông điệp này cần được công bố nhân danh Ngài cho tất cả các dân tộc, các quốc gia, bắt đầu từ Giêrusalem.
Mọi thứ trong trình thuật Tin Mừng này đều mang tính mới lạ. Chúa Giêsu chết trên thập tự giá vì tội lỗi con người, đó là điều mới lạ. Sống lại từ cõi chết, đó là điều mới lạ. Sám hối để được ơn tha tội nhờ ơn đức tin vào Chúa Phục sinh cũng là điều mới lạ
Điều này không chỉ dành cho người Do Thái, không chỉ dành cho dân riêng của Chúa. Điều này dành cho tất cả mọi người, khắp mọi nơi trên thế giới. Chúa Giêsu muốn chúng ta trở thành một phần trong sự Phục Sinh của Ngài chứ không phải chỉ đứng ngoài chiêm ngắm và ngưỡng mộ sự Phục Sinh đó. Càng phục vụ Chúa Giêsu và sứ vụ của Ngài, chúng ta sẽ càng tin vào Ngài. Tham gia càng nhiều vào sự sống Phục Sinh của Ngài thì chúng ta càng ít bị nguy cơ đứng ngoài lề như một người ngưỡng mộ đơn thuần.
Và nếu chúng ta cảm thấy bị quá khứ trói buộc, chúng ta hãy giống như hai môn đệ trên đường Emmau để Chúa Giêsu “mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh” (Lc 24:45) và giải thích cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã lên kế hoạch xóa bỏ tội lỗi và cứu chữa sự yếu đuối của chúng ta. Cái chết của Ngài dưới tay những kẻ tội lỗi, là chúng ta, lại biến thành nguồn ơn cứu độ cho chúng ta: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19: 10) và Ngài: “là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga 1: 29).
Một trong những chứng nhân lớn lao đầu tiên của niềm tin cậy này là vị Tông Đồ dân ngoại Phaolô. Ngài đã nói lên niềm tin đầy hy vọng đó trước mặt vua Agrippa:
- “Kính thưa đức vua Agrippa…Giờ đây tôi bị đưa ra toà chính là vì hy vọng điều Thiên Chúa đã hứa cho cha ông chúng tôi…Chính vì niềm hy vọng đó mà tôi bị người Do thái tố cáo. Sao trong quý vị lại có người cho rằng việc Thiên Chúa làm cho kẻ chết sống lại là chuyện không thể tin được?” (Cv 26: 6-8).
Vị Tông đồ can đảm lấy chính quá khứ tội lỗi của mình ra để làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh:
- “Về phần tôi, trước kia tôi nghĩ rằng phải dùng mọi cách đểchống lại danh Giê-su người Nadarét. Đó là điều tôi đã làm tại Giêrusalem. Được các thượng tế uỷ quyền, chính tôi đã bỏ tù nhiều người trong dân thánh; và khi họ bị xử tử, tôi đã bỏ phiếu tán thành. Nhiều lần tôi đã rảo khắp các hội đường, dùng cực hình cưỡng bức họ phải nói lộng ngôn. Tôi đã giận dữ quá mức đến nỗi sang cả các thành nước ngoài mà bắt bớ họ. Thế là sau khi được các thượng tế trao quyền và uỷ nhiệm, tôi lên đường đi Đamát. Kính thưa đức vua, đang khi đi đường, vào lúc trưa, tôi đã thấy một luồng ánh sáng chói lọi hơn mặt trời, từ trời chiếu toả xuống chung quanh tôi và các bạn đồng hành. Tất cả chúng tôi đều ngã nhào xuống đất, và tôi nghe có tiếng nói với tôi bằng tiếng Hípri: Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Đá lại mũi nhọn thì khốn cho ngươi! Tôi hỏi: Thưa Ngài, Ngài là ai? Chúa đáp: Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ. Nhưng ngươi hãy chỗi dậy, đứng thẳng lên. Ta hiện ra với ngươi là để chọn ngươi làm đầy tớ và làm chứng nhân về những điều ngươi đã thấy, cũng như những điều Ta sẽ hiện ra mà tỏ cho ngươi biết. Ta sẽ cứu ngươi thoát khỏi tay dân Do thái và các dân ngoại: Ta sai ngươi đến với chúng để mở mắt cho chúng, khiến chúng rời bóng tối mà trở về cùng ánh sáng, thoát khỏi quyền lực Xatan mà trở về cùng Thiên Chúa. Như vậy, nhờ tin vào Ta, chúng sẽ được ơn tha tội và được hưởng phần gia tài cùng với các người đã được thánh hiến” (Cv 26: 16-18)
Mỗi người chúng ta là một người theo Chúa Kitô, chúng ta sống để loan truyền Tin Mừng Phục Sinh này đến mọi người. Chúng ta có những hoàn cảnh sống khác nhau, nhưng sứ mệnh đó không chỉ dành cho một số ít người được gọi đến với Giáo Hội. Đây là đích sống của mỗi Kitô hữu chúng ta, là cốt lõi của Tin Mừng. Vì vậy, thông điệp này phải được thông truyền tới tất cả mọi người trên thế giới: “Chúa Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5: 8).
Lạy Chúa Giêsu Phục sinh! Cuộc sống của chúng con luôn có những giờ phút tối tăm u buồn. Xin Chúa có mặt với chúng con trong những thời khắc ấy, và tỏa chiếu một tia hy vọng, giúp chúng con lấy lại niềm tin, sự an bình, để tiếp tục sống những ngày tháng vui mừng trong sự phó thác, hy vọng vào tình thương của Chúa. Amen.
Phêrô Phạm Văn Trung.