Giải Thoát, con đường Xuất Thế hay Nhập Thế ? ( 3 )
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Nam Hoa
Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra,
Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên,
Vì anh em sắp được cứu chuộc.
( Lc 21, 28)
Giải Thoát, con đường Xuất Thế hay Nhập Thế ? ( 3 )
Thế giới ngày nay chưa Thái Hòa sau hằng bao nhiêu thế kỷ đã nghe Lời ban Sự Sống của Chúa Kitô, Hoàng Tử Hòa Bình, tại sao vậy?
“Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành!. ” ( Mt 7, 27 )
Rõ ràng đã có lời giải đáp cho vấn nạn 2000 năm, hay hơn nữa, của con người trước viễn ảnh kinh hoàng của căn nhà nhân loại đang từ từ sụp đổ mà người ta bắt đầu nhìn thấy. Lý do sụp đổ, dễ hiểu thôi, vì nền móng đã bị hư hoại mà bấy lâu nay người ta chưa nhìn ra: Căn nhà được xây trên Đá hay trên Cát, có vậy thôi.
Nhiều lần Chúa Giêsu đã thở dài vì xem chừng người ta vẫn chưa hiểu Lời Chúa rao giảng, các người có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy (Mt 13, 14), nghe mà không hiểu thì làm sao thực hành, nhìn mà chẳng thấy làm sao biết thực hư? Hiểu biết rất cần thiết để thực hành vì hiểu sai sẽ làm sai. Người ta đã hiểu đúng Lời Chúa để đem ra thực hành chưa, nếu có tại sao căn nhà nhân loại hôm nay đang lung lay tận nền móng? Nói khác đi thiếu nhà là tại vong thân, mà vong thân là tại thiếu suy tư. Một điều kinh hoàng được Heidegger phát giác là con người chưa có suy tư: hay có suy tư nhưng một cách kỳ cục. L'homme a pensé mais d'une manière étrange. (V.A 155) "Con người đã làm quá nhiều mà suy tư quá ít, mãi từ bao thế kỷ đã như vậy". Heidegger (W.D. 22)"Vũ trụ trở nên hoang tàn vì chẳng có một ai suy nghĩ trong tâm can". (Kinh thánh) (**)
Thánh sử Luca cũng viết cùng một đề tài rao giảng của Chúa Giêsu về Căn Nhà Con Người, như Thánh Mát Thêu, với cách trình bày chi tiết hơn: Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em biết người ấy sẽ ví được như ai. Người ấy ví được như một người khi xây nhà đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lụt dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà, thì cũng không lay chuyễn nổi, vì nhà đã xây vững chắc. Còn ai nghe mà không thực hành, thì ví được như người xây nhà ngay trên mặt đất, không nền móng. Nước sông ùa vào, nhà sụp đổ ngay và bị phá hủy tan tành. (Lc 6, 47-49)
Chúa Giêsu hay dùng dụ ngôn hoặc những lời ví von để giảng dạy, nói xong, Người hô lên rằng: “Ai có tai nghe thì nghe” (Lc 8, 8). Nhưng ai chẳng có tai? "Vúc vách cũng còn có tai", huống chi người. Sao lại cứ "vô ngôn ẩn ngữ"? Thưa, vì Đạo là cái chi rất vi tế kín nhiệm không thể dùng lời nói thẳng ra được. Cần phải cảm nghiệm, thể nghiệm có nên nói hết ra người nghe tưởng là liền hiểu mà kỳ thực chưa liền hiểu tức mới hiểu bằng lý trí mà chưa cảm nghiệm bằng tâm tình và thể nghiệm bằng siêu thức. Vì thế các bậc thầy hay dùng lối nói úp mở để nhử mồi, để thúc đẩy môn đệ lên đường nghĩa là người học Đạo phải đưa vào sự chăm chú trìu mến vì "ai có tai mới hiểu được"(**). Hiểu bằng lý trí, cảm nghiệm bằng tâm tình, để rồi thể nghiệm bằng siêu thức là những cách đã cuốc, đã đào sâu những Lời đã nghe. Đạo cần khởi đầu tự chỗ tế vi đó(**) vì ai có tâm chân thành muốn tìm Đạo phải tự đích thân lên đường tìm kiếm, bằng không chỉ nghe mà không hiểu, nhìn mà không thấy thôi. Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được. Ai có tai thì nghe ( Mt 11: 12, 15). Sức mạnh đây không phải sức mạnh bắp thịt hay của cải hoặc có bao nhiêu sư đoàn quân lính tinh nhuệ, nhưng là sức mạnh tinh thần tiềm tàng nằm ẩn sâu trong tâm thức con người.
“ Còn ai nghe mà không thực hành, thì ví được như người xây nhà ngay trên mặt đất, không nền móng.” ( Lc 6, 49 ). Muốn Hành thì phải Học, muốn Học thì phải Hiểu, không hiểu không học được hoặc vã học như vẹt, nói mà chẳng hiểu mình nói cái gì cũng không giúp ích chi. Văn minh nay cũng chưa bao giờ tìm ra được cái Học có Hành, nghĩa là cái hành gắn liền với học (***) như Thân và Tâm, vì Nhà chỉ mới được xây ngay trên mặt đất, nền móng chưa đủ sâu hay không có nền móng. Tử viết: "vị chi tư dã", chưa có suy tư, bởi suy tư chân thực phải là quy tư tức tưởng niệm Lời Vô Ngôn đầy tính cách viên dung quán nhất(**). Học mà chưa có Hành vì chưa Hiểu, chưa Hiểu vì chưa có Suy Tư. Còn ai nghe mà không thực hành vì chưa hiểu Lời Vô Ngôn đầy Sự Sống của Đấng là Sự Sống.
Xây ngay trên mặt đất, vì chỉ dựa vào những điều mắt thấy tai nghe bên ngoài, rồi suy tư chỉ với những điều lưu tục đó. Tai mắt và lý trí là những cơ năng có cùng không sao đạt được cái vô cùng. Dùng những sản phẩm trực thị của chúng (données immédiates sensorielles) là việc của lưu tục, của chân lý thế gian…(**), nên căn nhà nhân loại không có nền móng, xây trên Cát mà không xây trên Đá. "Cứ sự lịch sử tư tưởng Tây Âu không khởi đầu suy tư điều đáng suy tư, nhưng lại để nó trong quên lãng. Như thế là tư tưởng Tây Âu đã khởi đầu bằng một sự biếng trễ, nếu không phải chính là một sự sa đọa". Heidegger, W.D.154 (**). Danh lý ra đời khiến cho con người chạy theo sự vật mà quên mình, theo những "sự thực hiển nhiên của tai mắt mà quên mất nhân tình"(**). Con người bị dẫn đi từ Con Vật, đến Cây Sậy biết suy nghĩ, tất cả còn một chiều nên toàn nói những chuyện đâu đâu, xa với con người(*) . Rồi đến đoàn lũ của tập thể sản xuất, nô lệ hóa cho cơ khí kỷ thuật thay vì làm chủ nó. Chế độ nô lệ đã không được bãi bỏ mà chỉ thay đổi hình thức hay là chuyển chỗ. Thí dụ cái nạn người bóc lột người đã từ nô lệ chuyển sang nông nô. Rồi từ nông nô chuyển sang thợ thuyền Âu Châu thế kỷ 19, rồi từ đó chuyển sang đầu cổ các dân nhược tiểu, hoặc tiếp nối dưới chế độ cộng sản để trở nên một thứ nô lệ cùng tột: nô lệ không những trong từng miếng cơm mà cả đến lời nói, cái nhìn, cảm nghĩ, nghe ngóng, cái cười. Tóm lại không thể đẩy chế độ nô lệ đến chỗ khốn cùng hơn được nữa.(*). Cứ nhìn vào thực tế, những điều đang làm con người mất Tự Do, bị nô lệ hóa đã lâu lắm rồi, đang đưa nhân loại về đâu ắt sẽ hiểu.
Danh lý đưa người ta tới thuyết Hữu Vi Nhị Nguyên đối kháng Có và Không, lại thêm một khốn cùng nữa cho con người. Người ta chạy theo Có: Có tiền, Có quyền, Có bằng cấp, Có địa vị…chẳng ai muốn bị xem là Không; vì Không là bị người đời chà đạp, khinh khi. Hữu Vi kéo theo cái đuôi Hơn Thua, Thắng Bại, Được Mất… mà thành tranh chấp bất tận từ đời nầy sang đời khác cho con người lâm cảnh khốn cùng, máu đổ thịt rơi, chưa biết bao giờ ngừng. Người ta vẫn chưa đủ Tỉnh Thức để nhìn ra: Những điều cao trọng đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa ( Lc 16, 15). Thứ triết học nhị nguyên đó đã tựu thành mọi tai ương cho nhân lọai là: Chủ nghĩa thực dân, chế độ kỳ thị chủng tộc và chế độ cộng sản…(Vũ Khánh Thành, Hành Trình An Vi và Kim Định). Tai ương đó không ở đâu xa mà ngay trên thế giới hôm nay không ngày nào mà không có bắn giết chỉ vì Hữu Vi chọn một bỏ một, tao có mầy không, tao được trọng vọng, mầy chỉ là thứ bần cùng đáng chết. Nhị nguyên (dualism) cả 2 do 2 nguyên nhân khác nhau đến độ không sao hội nhập được phải chọn một bỏ một, chia văn hóa ra hai mảng mà Nietzche gọi là nhát chém chẻ đôi luôn dỉ máu qua các thời đại, bên vô bên hữu, bên chủ bên nô... gây nên đầy bất an xao xuyến.(***)
Lối vụ mắt(oeillère) khiến người ta không tìm được những cái tế vi siêu hình.(***) không thể đào sâu và đặt nền móng trên đá (Lc 6,48), tảng Đá Siêu Linh,Tảng Đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên Tảng Đá góc tường ( TV 118, 22). Vậy cần tập luyện cẩn trọng về những cái mắt không thấy, tai không nghe, vì những cái tế vi đó mới là cái Thường Hằng bao trùm vạn vật và bởi đấy sách nói: không gì hiện rõ bằng cái ẩn tàng, không gì hiển lộ bằng cái tế vi. "Thị cố quân tử giới thận kỳ sở bất đố, khủng cụ hồ kỳ sở bất văn. Mạc hiện hồ ẩn, mạc hiển hồ vi." T.D.I(**) Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt anh sáng, thì toàn thân anh sẽ sáng. Còn nếu mắt anh xấu, thì toàn thân anh sẽ tối. Vậy nếu ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối, thì tối biết chừng nào. ( Mt 6, 22-23). Tưởng không có Lời khuyên Tu Thân nào thực tế mà hàm súc hơn.
Lời Hằng Sống của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế giúp cho con người tập nhìn lại chính mình tận nội tâm, từ đó nhìn lại sự việc chung quanh, nhìn người khác với một tương quan mới. “Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em” ( Mt 7, 5 ), bà góa nghèo nầy đã bỏ vào nhiều hơn hết ( Lc 21, 3), các ông đừng xét đoán theo bề ngoài nữa nhưng hãy xét đoán cho công minh ( Ga 7, 24). Người đã hướng tầm nhìn của con người theo một chiều kích mới, bao la, sâu thẳm đến vô biên: Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: “ Ở đây này !”hay “Ở kia kìa!”, vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông. ( Lc 17, 20-21). Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa nhân loại, ai có Tâm vô biên như thiên địa chi tâm mới có thể nhìn ra, vì lý trí cũng như giác quan có hạn nên chỉ có thể thấy một vật trong một lúc mà không thể nhìn bao quát toàn thể và trong một trật. Thế mà có nhìn được tổng quát mới nhìn ra được mối tương sinh tương tức.(**)
Hễ đạo mà còn có thể ở kia mà không ở đấy thì là đạo hẹp hòi không phải chính đạo, vì Chân đạo vô biên: không đâu không ở, nên không gì không có đạo: "các hữu thái cực"(**). Người Đông phương đã biết nhìn bao quát của chiều kích vô biên, nên nhìn ra được mối tương sinh tương tác trong vũ trụ. Đối với họ, quan niệm “ Chúa ở khắp mọi nơi, đâu đâu cũng có Chúa ” ( Giáo lý Công Giáo) không phải là điều mới lạ, nhưng là một quan điểm rất gần gũi với con người. Không thể nói Chúa chỉ có ở bên Tây, bên Đông không có, vì như chớp lóe ra từ phương Đông và chiếu sáng đến phương Tây như thế nào, thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy. ( Mt 24, 27), Chúa Giêsu đã hé mở, ngay bây giờ, cho nhân loại nhìn thấy chân trời mới của Chân Đạo vô biên trong ngày quang lâm của Người. Người Đông Phương đã biết nhìn sự phản phục, sự trở lại, mà chúng ta gọi là sự quang lâm của Đấng Cứu Thế không phải chỉ là lời hứa suông, nhưng là một điều hiện thực khả thi sẽ xảy ra vì đó là thiên cơ, thiên kỳ phản nhi, chắc chắn sẽ có trong tương lai huyền nhiệm bất định mà chỉ có Cha Trên Trời mới thấu hiểu, mà với cái nhìn hạn cục hẹp hòi của danh lý hữu vi nhị nguyên đối kháng, người Tây phương khó nhận ra.
Trở về với quan niệm "trọn vẹn ở đây"của Đông Phương, là triết lý không ở đâu cả "vô hồ xứ giả" nên phải đặt nền tảng nơi tâm thức con người. Vì tâm thức con người cũng giống vũ trụ không ở đâu nhưng không đâu không ở.(**) để nhìn từ bên trong mối tương quan của Lưỡng Cực Âm Dương khác biệt nhưng không chống đối lại tương tác tạo sinh. Đông phương nhìn vũ trụ theo quan điểm Nhất Nguyên Lưỡng Cực, nên cái nhìn của họ nhất quán hơn: Chỉ có một nguồn gốc là Thiên, là Trời, là Một Thiên Chúa sinh ra muôn loài ( Giáo Lý Công Giáo), và con người bắt nguồn từ Thiên đó cộng với Địa để tạo sinh trong tương tác Âm Dương, Thiên Địa chi đức, Âm Dương chi giao. Theo cách nhìn nầy thì với Đông hay Tây phương, nguồn gốc Con Người cùng chung một mối mà Sáng Thế Ký đã viết, cho thấy nguồn gốc Sự Sống con người là vô biên, vô cùng vì bắt đầu bằng chính vô cùng là Thiên Chúa Hằng Sống. Và tôi biết: Mệnh lệnh của Cha là sự sống đời đời ( Ga 12, 50) cho nhân loại, Chúa Giêsu đã xác quyết như vậy. Và Sự Sống đó không thể hạn cục một nơi chốn nào mà trong Toàn Thể Viên Dung, có nghĩa là Tại nơi nầy ngay hôm nay rồi chuyển lan đến bậc cao hơn để chuyển hóa trong bước tiến hóa không ngừng của con người; cũng như Triều Đại Thiên Chúa không thể hạn cục, không ở đây hay ở kia nhưng ở giữa nhân loại, để nhân loại tiến hóa không ngừng trong Vương Quốc của Đấng là Sự Sống. Con đường Sự Sống là Con Đường Sinh không bao giờ Diệt, bước vào đường Diệt là bước sai rồi. Sinh, Phục Sinh, Tái Sinh luôn luôn, cho dù bước đi trong lưỡng cực dị biệt nhưng luôn luôn hòa hợp không bao giờ đối kháng, để tạo sinh. Thầy là Sự Sống Lại và là Sự Sống ( Ga 11, 25). Lòng anh em đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy ( Ga 14, 1).
"Nhất nguyên lưỡng cực" và tự hai cực có sự đong đưa bất tận làm nên vũ trụ năng động giữa hai bộ âm dương nhị khí, ở đây 2 thái cực được nhìn như nhau hai mặt bổ túc để làm nên một thực thể vì thế giữa hai cực có một mối Tương Quan cơ thể (organic) tức cả hai cần cho toàn thể: bỏ một bên là chết(***). Trong khi đó Nhị Nguyên Đối Kháng theo đường lối Hữu Vi chọn một, bỏ một. Cứ so sánh sẽ dễ dàng nhìn ra đâu là con đường Diệt, đâu là con đường Sinh. Không cần nhìn xa xôi, ngay trong thế giới hôm nay vì người ta đã chọn lầm nên bước vào con đường Diệt của Nhị Nguyên Đối Kháng bấy lâu nay mà không nhận ra, hậu quả đang đưa nhân loại đến bờ diệt vong, không phải trong sách vở hay trong Kinh Thánh nữa, nhưng là một thực tại kinh hoàng đang xảy ra đó đây, ngay trên địa cầu nầy như lời cảnh báo cho những sai lầm của con người, đã có.
Mối liên hệ thuộc bản thể nó quan trọng vô cùng nhưng những nền văn hóa một chiều đã không nhìn ra (Heidegger gọi đó là đánh mất nét gấp đôi) thành ra người theo văn hóa đó chỉ thấy sự vật đặc sệt, một chiều độc khối, tĩnh lặng, vì không nhìn ra mối Tương Quan nối sự vật lại nhất thể, nên chỉ thấy sự vật đa tạp, cá biệt. Ðó là điều sai lầm rất trầm trọng. Đây là mối Tương Quan nền tảng nối hai bên thái cực lại một, để làm nên cái vũ trụ quan năng động, đối chọi lại vũ trụ tĩnh im, đông đặc, một là một. Vì thế chữ Tương ở đây (do số hai mà một) kéo theo nhiều hình ảnh khác để nói lên diễn tiến theo bước tiến hóa của con người.(***). Người Việt từ thời thái cổ đã biết nhìn mối tương quan tương tác trong hai khác biệt tạo thành lưỡng hợp tính(dual unit), ghi lại bằng những nét đôi song trùng độc đáo tìm thấy ở Bắc Sơn thời đá mới ( 5000 BC) như: Trời-Đất, núi-sông, nước-lửa, đực-cái, tròn-vuông, cứng-mềm (Kim Định, Để Tiến Tới Một Thần Học Việt)…được nhìn nhận như một hòa hợp tạo sinh. Nét song trùng đó có khắp nơi nhưng người ta không để ý vì những cái duy (ism) một chiều phân biệt chia cắt không hàn gắn của Nhị Nguyên đối kháng như duy hữu hay duy vô, duy tĩnh hay duy động, duy vật hay duy tâm…( sđd). Nơi Thiên Chúa, theo quan điểm Kitô Giáo, là một Thiên Chúa Nhất Nguyên, Một Chúa nhưng ba ngôi đồng bản thể trong sự hòa hợp tối cao, lạ lùng. Nơi Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, người ta nhìn thấy có Hai bản thể Thiên Chúa và Con Người song đôi, không tách rời nhau. Và Lời rao giảng của Người luôn luôn có nét song trùng độc đáo: Kính Chúa và Yêu Người, Tỉnh Thức và Cầu Nguyện, Sám Hối và Hoán Cải, Sống Lại và Sống; Con Đường của Người là kết hợp song trùng của Sự Thật và Sự Sống; Thánh Giá của Người là nơi kết nối Đất ( nét ngang) và Trời ( nét dọc) để trên đó Nhân Hoàng của nhân loại, Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là Con Người, tỏ hiện đem Ơn Cứu Độ đến cho con người. Bao lâu nhân loại chưa bước vào địa hạt nhân hoàng, bao lâu giới trí thức còn y cứ trên thiên hay địa mà ấn định thị phi, tốt xấu thì nhân loại còn bị rất nhiều đau thương gây ra bởi những lập trường quá xa cách con người và không thể kiến tạo nổi sự thống nhất hòa hợp được. Điều đáng chú trọng thứ hai là nhờ quan niệm nhân hoàng mà con người không để cho mình bị nhào nặn bởi thiên hay địa như Tây phương trước đã bị với thần thoại và nay đang bị địa hoàng tức vật lý cơ giới điều khiển.(*)
Lời rao giảng của Chúa Giêsu, và trên Thánh Giá nơi Mình và Máu của Người đã bảo đảm cho Ơn Cứu Độ, đưa con người là tạo vật yếu hèn lên thành con của Thiên Chúa là Đấng quyền năng vô song, vô biên. Có người cho là vô lý vì con người giới hạn, đầy hèn yếu như vậy làm sao là con thật của Thiên Chúa. Nhưng trong truyền thống suy tư hòa hợp của Á Đông thì con người là Con Thật của Thiên Chúa (Kim Định, Để Tiến Tới Một Thần Học Việt), không gì khó hiểu hay hoài nghi chi cả, Chúa Giêsu đã làm sáng tỏ Ơn Phúc vô biên đó trong Chân Lý của Người. Xét cho cùng thì truyền thống suy tư của người Á Đông không có điều gì đi ngược lại với Chân Lý Kitô Giáo, mà còn làm cho Chân Lý ấy dễ hiểu hơn cách suy tư một chiều của Tây phương.
Cũng vì cách suy tư một chiều, không liên hệ chi đến một gì khác, gì nữa, đưa con người lên địa vị độc tôn của cá nhân chủ nghĩa Tây phương. Hậu quả tai hại đầu tiên là cá nhân chủ nghĩa làm cho mỗi người trở nên như một thực thể xa lạ không dính dáng tới mình. Đó chính là cái ý tưởng hẹp hòi đầy chống đối diễn ra bằng những lời tranh đấu với dụng ý chinh phục, thay vì hòa đồng thống nhất. Ngược lại với chủ trương coi con người thuộc âm dương đặt con người vào vòng vũ trụ, nên có một mối liên hệ cơ thể cấu tạo nên nhau, tạo ra quan niệm thái hòa thay cho chống đối: coi mọi người như anh em. Mối tương quan mật thiết này sẽ vươn lên lấn át mọi kỳ thị về chủng tộc, tôn giáo, ý kiến v.v…(*) Lấy sự hòa dịu làm lối sống ở đời, nhờ sự mềm dịu nho nhã đó mà nó hòa được cả hai bên đen trắng, bên tròn bên vuông là vòng tròn thái cực viên đồ, là vòng tròn chu tri hay vòng tròn Thái Hòa. Chữ Hòa đây phải gọi là Thái Hòa vì nó là nguồn gốc mọi cái hòa lẻ tẻ khác:
- Trong con người là hòa tình với lý, hòa tâm với vật...
- Trong gia đình là hòa vợ với chồng hoặc cha với mẹ, hoặc chị anh với các em...
- Trong xã hội là hòa nhân dân với chính quyền, nên không có hai nền văn hóa: một cho chính quyền một cho dân như ở các nơi
- Trong nhân loại là hòa giữa các nước để làm nên cuộc Thái Bình đưa đến mối tình huynh đệ phổ biến.
- Trên cấp siêu hình là hòa có với không, Vô với Hữu, chứ không duy hữu kiểu Hữu thể học ontology của Tây Âu, hay duy vô kiểu Vô Nhị advaita của Ấn Ðộ.(***)
Từ bao thế kỷ nay, nhân loại vẫn chưa có Thái Hòa vì đã không nhìn ra nét song trùng lưỡng hợp tính (Heidegger gọi đó là đánh mất nét gấp đôi) mà Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, đặt để cho muôn vật muôn loài từ khi tạo thành vũ trụ, nhưng cứ theo đà Nhị Nguyên Đối Kháng nên giờ đây sự phân cực đã quá rõ, đem con người vào tranh chấp để tiêu diệt lẫn nhau. 2000 năm trước, Chúa Giêsu đã nhìn thấy hậu quả do sai lầm của con người gây ra, Người đã báo trước những sụp đổ của căn nhà nhân loại vì nền móng đã bị hư hoại từ rất lâu rồi, nhưng con người không hiểu biết để nhận ra mà sửa đổi, để trở lại con đường hòa hợp như Lời Người rao giảng, đưa con người thoát vòng nô lệ của vật chất, bạo quyền.
Những biến cố tại Trung Đông, người ta đã quá khốn khổ vì thứ thiên đàng vu nghiễn mà nhóm người cuồng tín cực đoan tạo ra, chẳng những gieo kinh hoàng cho những người tại vùng, mà còn đe dọa cả an ninh toàn thế giới. Khí hậu thay đổi gây ra bỡi hiện tượng bầu khí quyễn bị nóng dần lên do tác dụng của cơ khí, kỷ thuật của nền văn minh thượng thừa ngày nay, mang lại những cơn siêu bão, cuồng phong biển gào sóng thét làm người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc ( Lc 21, 25-26). Nền văn minh chỉ còn biết vật chất và những phát triễn của nó mà không kể chi đến con người. Không nói chi đến chủ trương cộng sản: hạ tầng kinh tế quy định thượng tầng nhân văn, đã rõ ràng con người bị khuôn trong phạm trù sự vật, nhưng ngay trong thế giới tự do có thiếu chi thuyết vô ý thức cũng như chủ trương như thế phát sinh ra các hệ thống tư tưởng khiến con người bị tước đoạt hầu hết nhân phẩm, nhân cách và coi như phương tiện sản xuất. Hết mọi giá trị đều bị thẩm định theo lượng số kiểu một món hàng. Cái quan niệm đó đã đâm rễ sâu trong con người thời đại đến nỗi chính những triết học được khởi xướng lên với hảo ý cứu gỡ con người khỏi “vong thân” kết cục lại vẫn vô tình xử với con người như một tỉnh vật (nature morte), một cái máy sản xuất, một con số vô hồn nào đó (*). Con người đã không được tôn trọng vì sự thiếu hiểu biết của chính con người. 20 thế kỷ trước, Chúa Giêsu đã từng quở trách: Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật ! Các người đã cất dấu chìa khóa của sự hiểu biết: các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản ( Lc 11, 52)
Nếu muốn hiểu cặn kẽ cần phải tìm về với nguồn gốc (*), tức căn để của Con Người, là Tính Bản Nhiên của con người. Cho nên bản tính đó luôn luôn tiến tới trong sinh lực, trong sự chinh phục thiên nhiên đồng thời tiến sâu vào nội tâm, vào tiêm thức, siêu thức(*). Con người vẫn tiến trong văn minh kỷ thuật bên ngoài nhưng không thể bỏ qua con đường trở lại nội tâm Tâm Linh để tạo hài hòa, cân bằng trong đời sống của con người toàn diện. Cần tìm lại chính mình luôn luôn để sửa đổi, làm cho con người siêu linh bên trong luôn lớn lên, đạt tầm vóc Con Người trưởng thành như Đức Kitô. Để Nhân Bản mà nhân loại hướng về là nền Nhân Bản Tâm Linh, đôn hậu tình người chính là con đường dẫn tới tâm bao la, cũng là con đường hiện thực chiều kích đại ngã của ta vậy(*) Đạt đến nền nhân bản tâm linh của chung loài người, tức là mở ra một đường hướng dẫn tới nền móng căn cơ thống nhất nhân loại (*)
Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc( Lc 21, 28). Khi người ta nhận nhìn ra được những sai lầm của mình từ những bài học đau thương kinh hoàng mà nhân loại kinh qua, muốn hay không người ta cũng phải thay đổi để sống còn và để Sống. Chừng đó, Đấng Nhân Hoàng của loài người trên Thánh Giá, và những Lời Hằng Sống của Người sẽ thực sự trở lại với nhân loại lần nữa, để Cứu Độ con người vẫn theo cách của Người: Thay đổi con người từ tâm thức, từ Lòng Hiểu bên trong. Thay đổi từ tâm trạng nầy sang tâm trạng khác, từ tâm trạng cũ sang tâm trạng mới không phải là việc một sớm một chiều vì thay đổi Tâm Trạng cần thời gian.
Những Lời rao giảng của Đức Giêsu khi còn tại thế là Đường dẫn nhân loại đi về Sự Sống, đặt nền móng ngay trên tâm thức chân thực của con người chân như, Sự Thật, để nâng đỡ và giúp chuyển hóa con người lầm lỗi. Chuyển hóa đó bắt đầu từ bên trong tâm hồn: “ Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” ( Lc 18, 13), nghĩa là bắt đầu từ lúc con người biết nhận rằng mình lầm lỗi bằng tâm hồn chân thật. Con đường chuyển hóa thật sự là con đường của Tâm, chuyển đổi từ Ác Tâm thành Thiện Tâm, tiệm tiến từng ngày trong mỗi ngày sống của mình. Chúa không để ý đến Tội, Người chỉ nhìn đến Tâm thành để ban Ơn Cứu Độ bắt đầu từ đó cho con người. Người nâng đỡ, tháo gỡ và giải thoát con người ra khỏi tình trạng nô lệ tội lỗi, tiền bạc, quyền hành, địa vị, giàu sang …; nhưng người ta vẫn chưa hiểu nên mù quáng bước đi trong con đường cũ, nếp sống cũ của thế gian, chà đạp và hủy diệt con người ( x. Lc 18, 9-14; Ga 16, 8-11). Số người sống theo tiết nhịp thiên nhiên rất họa hiếm, đa số sống theo cái tiết nhịp riêng đầy nhóc tham lam(*) của nền móng cũ đã hư hoại từ lâu mà người ta không nhận ra như chiếc áo cũ đầy vá víu xả bổn trục mạt, bỏ nền móng gốc là con người để chạy theo ngọn là những cái bên ngoài, của thời thế mạt. Lời Chúa Giêsu là những điều mới mẻ, đưa nhân loại vào nếp sống mới, Sự Sống đời đời của Trời Mới, Đất Mới, nhưng người ta vẫn mù quáng bước đi trên lối cũ đường xưa, chẳng thay đổi được gì. Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì miếng vải mới sẽ co lại, khiến áo rách lại càng rách thêm. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy bầu sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng bị hư. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới: thế là giữ được cả hai. ( Mt 9, 16-17).
Chúa Kitô đã đem đến cho nhân loại con Đường mới từ 2000 năm trước, nhưng con người vẫn chưa ra khỏi thói quen cũ, nề nếp cũ mà thành nô lệ cho tên Thủ Lãnh thế gian mãi đến hôm nay. Căn nhà nhân loại thành xiêu vẹo chực đổ trong đường lối cũ, nhưng người ta cũng chưa Tỉnh Thức để tìm ra giải đáp. Đáp số đó là nền nhân bản tâm linh, mà chúng ta có bổn phận thiêng liêng đem nó lên thay cho những quan niệm nhị nguyên đầy chất giết người. Trước hết lấy con người làm căn bản, lấy sự sống làm tiêu chuẩn. Trong cái sống phải nhấn mạnh đến cái sống tâm linh, phải lấy đó làm kim chỉ nam, mới đủ cao sâu để bao quát được hết các điểm dị biệt, nên mới thực là toàn diện, nên cũng rất quân bình, về cả hai phương diện dọc ngang (*). Hãy nhìn lên Thánh Giá Chúa Giêsu, nơi Nhân Hoàng của loài người là Đấng Bị Đóng Đinh, khai mở cho nhân loại con Đường mới rất Tâm Linh và vô cùng Nhân Bản của Đấng Cứu Chuộc và Giải Thoát con người. Bước theo Người là bước theo tiết nhịp Xuất Thế và Nhập Thế của Người. Xuất Thế là những ngày thinh lặng cầu nguyện, tĩnh tâm gẫm suy Lời Hằng Sống bên Chúa Giêsu Thánh Thể để Ngài bổ sức cho; là những ngày tỉnh thức và cầu nguyện, nhìn lại và nhận ra lầm lỗi đang còn để chuyển hóa ác tâm thành thiện tâm nhờ Ơn ban biến đổi tâm hồn của Thánh Thần Thiên Chúa. Để mang những Ơn Ích của những ngày xuất thế trở vào thường nhật bằng đời sống mới với Chúa cùng đi, âm thầm thay đổi chính mình, thay đổi con người, xây lại căn nhà nhân loại vững vàng hơn trên Tảng Đá Kitô, đem sức sống mới của Ngài vào thế giới, cho cõi nhân sinh thành nhân đạo như Lòng Chúa ước mong.
Lạy Chúa Giêsu, từng chút từng chút một, mỗi ngày qua con cố gắng thay đổi chính con trên con đường theo Chúa. Xin giúp sức con vì con biết với con người yếu đuối của mình, con sẽ không làm gì được nếu không có Thầy trợ giúp. Xin ở lại với con và xin cho con được ở lại trong Chúa để tâm hồn nhỏ bé của con vươn lên cùng Chúa, lớn lên và trưởng thành trong Thần Khí của Ngài, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.
Lạy Mẹ Maria, Đấng Đồng Công Cứu Chuộc vì Mẹ là Mẹ Đấng Cứu Thế. Xin kề cận bên con luôn vì tấm lòng Từ Mẫu của Mẹ là nơi con nương náu trong những lúc gian truân. Xin khuyên nhủ con, an ủi, chỉ bảo và cứu giúp con. Xin đáp lời con mỗi khi con kêu cầu Mẹ, để trên Đường của Thánh Tử Mẹ dù gian khó con cũng không sờn lòng vì biết có Mẹ bên con.
Nam Hoa
Chú thích: (*) Kim Định, Nhân Chủ
(**) Kim Định, Tâm Tư
(***) Kim Định, Gốc Rễ Triết Việt