Nhảy đến nội dung

Giải Thoát, con đường Xuất Thế hay Nhập Thế ? (Bài 2)

Bài 2

Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra,

Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên,

Vì anh em sắp được cứu chuộc.

( Lc 21, 28)

Giải Thoát, con đường Xuất Thế hay Nhập Thế ? ( 2 )

 

Nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do ( Ga 8, 36). Tự Do mà Chúa Giêsu nói ở đây hoàn toàn khác với tự do phiến diện mà con người nghĩ tới. Giáo lý của Người là con đường dẫn con người vào Nước Thiên Chúa với con người thật tức là con người Tự Do, được giải thoát khỏi tội lỗi, khỏi sai lầm, giả dối và độc ác của thế gian ( x. Ga 16, 8-11). Đó là con người toàn diện, giống hình ảnh Thiên Chúa như căn nguyên, được Thiên Chúa dựng nên, thiên địa chi đức. Người không cưỡng bách ai nghe theo, đi theo Người, ai có tai thì nghe ( Lc 8, 8), vì Nước Thiên Chúa mà Người nói về là Nước của Đấng Tuyệt Đối, rất thật nhưng ẩn tàng như Thiên Chúa là Đấng vô biên, vô cùng, vô thanh, vô xú. Thiên Chúa là Thần Khí (Ga 4, 24) là Đấng ẩn mặt nhưng không bao giờ vắng mặt trong thế giới con người.

 Tuyệt đối không thể gọi tên (**), nên Chúa Giêsu giảng giải Con Đường, Đạo của Người, cho người thời đó bằng những dụ ngôn vì Đạo là cái chi rất vi tế kín nhiệm không thể dùng lời nói thẳng ra được (**), ai có tai thì nghe và đón nhận Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả ( Lc 8, 15 ), tức là nghe với Tai của Tâm, người Viễn Đông gọi là Tâm tai, nhĩ nhập tâm (**), để thính ư vô thanh (**) nghe được Lời vô thanh của Thần Khí Thiên Chúa. Vậy hãy để ý tới cách thức anh em nghe. Vì ai đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái họ tưởng là có, cũng sẽ bị lấy mất ( Lc 8, 18).

Lòng cao thượng và quảng đại là gì nếu không phải là Thiện Tâm, ai có tai của Thiện Tâm và biết lắng nghe với con người Tâm Linh bên trong vì tai mắt và lý trí là những cơ năng có cùng không sao đạt được cái vô cùng(**); thì nghe được Lời Chúa, Lời đem lại Sự Sống đời đời ( Ga 6, 68), Lời giải thoát con người. Nhưng có những người thời đó, và ngay cả thời nay, nghe mà không hiểu, nhìn mà không thấy ( Lc 8, 10; Is 6, 9)  vì họ dùng lý trí có cùng không sao cấp phát vô cùng tính cho cái chi được, "phải có mới cho được"(**). Đó là những kẻ nghe, nhưng dọc đường bị những nỗi lo lắng và vinh hoa phú quí cùng những khoái lạc cuộc đời làm cho chết ngộp và không sao đạt tới mức trưởng thành ( Lc 8, 14), họ chỉ “ tai nghe mắt thấy” là việc của lưu tục, nên nhận lầm chân lý thế gian(**) . Hay chỉ có Ác Tâm mà chưa có Thiện Tâm, là những kẻ đã nghe nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. ( Lc 8, 12)

Định nghĩa thứ ba về con người theo nhân sinh quan Viễn Đông là : Quỉ thần chi hội

Nhân giả kỳ thiên địa chi đức,

Âm dương chi giao

Quỉ thần chi hội

Quỷ thẩn ở đây phải hiểu là tác động linh ứng, cái thần diệu của âm dương tụ hội nơi người, quỷ thần không phải cái chi ở ngoài mà là cái khí của lương năng con người. Nếu không nhận ra thì quỷ thần trở thành những thực thể đứng độc lập bên ngoài con người, và hơn kém là mặc lốt người, vì do từ tâm người phóng ra, nên quỷ là quỷ ma, thần là thần tiên mà không còn là sự linh diệu của chính con người nữa, nghĩa là con người đánh mất phần tinh hoa cao cả nhất của mình rồi.(**). Nhân sinh quan hay vũ trụ quan của Á Đông đều đặt nền tảng trên Âm Dương tương tác, tuy rất khác nhau đến thành như hai cực dị biệt nhưng không đối kháng nhau, trái lại lại hòa hợp để tạo sinh. Đó là thiên lý, là trật tự tự nhiên tạo hài hòa trong vận hành của vũ trụ. Người có Đức Tin vào Thiên Chúa thì nói đó là việc Chúa làm, vì chỉ duy nhứt Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa mới tạo thành những việc lạ lùng ngoài sức hiểu biết của con người.

Vũ trụ quan hay nhân sinh quan của Đông và Tây phương khác nhau ở điểm nầy: Đông phương nhìn theo thuyết Tương Đối trong Thái Cực Âm Dương, Tây Phương nhìn theo thuyết Tuyệt Đối của Nhị Nguyên đối kháng. Xét cho cùng, trên bình diện tôn giáo của cả hai cách nhìn Đông hay Tây phương tưởng là khác biệt, nhưng thực sự là không vì Đông phương cho rằng Tuyệt đối không thể gọi tên (**) vì "thần vô phương" không cần nơi chốn, nhưng đâu đâu cũng "ở" được, cần chi phải hủy diệt để độc chiếm. Và Thần thì vô cùng chân thực không đâu là không ở, đến nỗi không còn gì khác phải bỏ, và không còn nơi nào để chứa cái bỏ ra. (**).Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được.  Người ta sẽ không nói: “ Ở đây nầy!” hay “Ở kia kìa!”( Lc17,21). Người ta sẽ bảo anh em: “ Người ở kia kìa! ” hay “ Người ở đây nầy!” Anh em đừng đi, đừng chạy theo. Vì ánh chớp chói lòa chiếu sáng từ phương trời nầy đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như vậy trong ngày của Người. ( Lc 17, 23 ). Nên Đông Phương đã dừng lại nơi giới hạn Tương Đối mà con người có thể hiểu tới và không dám vượt lên mức Tuyệt Đối vô cùng, chỉ suy bằng hàm lý; cũng không dám vẽ xuống thành hình tượng vì Tuyệt Đối là Thần, là Thiên vô biên vô hạn, vô hình vô tượng, vô xú vô thanh, chỉ nghĩ về bằng hàm ý. Tây Phương thì gọi Thiên Chúa theo danh lý, và dựa vào Mặc Khải để hiểu Ngài. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy. ( Is 55, 9)

Qủy thần nơi Đông Phương không “ở ngoài” mà “ở trong” con người được hiểu là Ác Tâm và Thiện Tâm, ai cũng có, sự linh diệu của chính con người không phải ở chính cái Ác hay Thiện Tâm mà ở sự chuyển hóa Ác thành Thiện Tâm, tức là kinh nghiệm trực thị được cái bản thể chân thực sâu thẳm nằm trong thâm tâm và tiếp sinh lực bao la đầy sức giải thoát cho con người. (**). Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỉ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời. ( Lc 10,20). Tức là con người được Nên Thánh trong quá trình hoán cải để chuyễn đổi thâm tâm mà cả Đông và Đạo Chúa đều gọi là sự thay đổi để Chuyển Hóa. Con đường để có quá trình chuyển hóa ấy gọi là TU.

Quan niệm triết lý về con người của Đông phương bao giờ cũng là quan niệm trọn vẹn về con người, và dùng ngay con người tiểu ngã ( cá nhân ) để đạt đại ngã ( toàn thể ). Khác với quan niệm tôn giáo thường nhằm tiêu diệt tiểu ngã nên đường lối tu trì nhằm riêng vào linh hồn khác với lối tu theo triết lý là nhằm vào toàn thể gọi là tu thân. Chữ tu ở đây có nghĩa là làm phát triển cho hết mức có thể cả thân lẫn tâm, không có nghĩa là khổ tu diệt sinh như bên tôn giáo mà là tu luyện tài bồi vun tưới, tập trung nguồn sinh lực để nó lan tỏa ra mọi tác động, khiến cho mọi tác động đạt độ linh thiêng trọn vẹn. Quan niệm như thế chấp nhận tất cả mọi động tác thuộc tiểu ngã cũng như đại ngã, và tất cả đặt trên quan niệm tiến hoá. Tóm lại đó là quan niệm Nhân Bản toàn diện(**). Tôi đến để cho chiên được Sống và Sống dồi dào.( Ga 10, 10)

Từ bao lâu nay người ta thường tưởng Tâm Linh là một, nhưng thực ra Tâm và Linh là hai thực thể khác nhau. Lời Thiên Chúa là Lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách Tâm với Linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. ( Dt 4, 12 ), nên đường Tu chỉ nhắm vào linh hồn để cứu rỗi linh hồn là điều thiếu sót. Nhìn vào thực tế, đã bao lâu rồi có biết bao nhiêu lời rao giảng để cứu rỗi linh hồn nhưng loài người còn vẫn trôi vạt, ngụp lặn trong biển thế gian, mãi đến hôm nay giữa cảnh biển gào sống thét làm hồn xiêu phách lạc, mà vẫn chưa thấy Trời Mới Đất Mới như lòng người mơ ước, để giải thoát con người. Aristote dẫn con người mới đi tới lý trí mà, khổ nỗi, lại là lý trí của con vật, nghĩa là chỉ vòng ngoài mà chưa vào được chính Con Người. Nên đó tuy là một cuộc trở về với con người nhưng chưa đi đến cùng tột, chưa bàn đến cùng lý: mới đi tới lý trí đã vội dừng lại, mà lý trí thì đâu đã phải là phần sâu thẳm của con người: bên trong lý trí còn có tiềm thức và rồi còn có cõi tâm linh.(*). Có tư tưởng mà cũng cần có Tâm Tình của lòng người. Aristote thất bại vì đã không khởi đầu từ con người cho nên không đi tới nơi (*)

 Thánh Augustin có câu nói thời danh: “Chúa ở trong con mà con mãi đi tìm Chúa ở ngoài!” Như Thánh Augustin, muốn gặp Chúa, muốn tìm được Chân Lý: hãy trở lại với thâm tâm để Thành (**). "Nhĩ mục chi quan bất tư, nhi tế ư vật: vật giao vật, tắc dẫn chi nhi dĩ hĩ. Tâm chi quan tắc tư. Tư tắc đắc chi. Bất tư tắc bất đắc dã.” ( Mạnh VI.15). Dùng dữ kiện của tai mắt mà suy luận thì không phải là tư, nhưng chính là vướng mắc vào sự vật, nên vật ở trong (ý niệm) sẽ giao với vật ở ngoài để dắt người suy tư kiều đó xa khỏi Đại thể hay là nhân tính. Vậy phải dùng Tâm mới là Tư chân thực mà có tư chân thực mới đắc chân lý nền tảng (Đại thể) còn không tư (hay tư theo dữ kiện tai mắt) thì không thể Đại thể, lý do là vì tai mắt là những cơ năng dựa vào nhục thể có hạn, còn lý trí chỉ là nơi quy tụ nhào nặn những sản phẩm giác quan đó để tạo thành những ý niệm này nọ kia khác, rồi gọi là vật, mà thực sự không là vật tự thân mà chỉ là nội dung trừu tượng của lý trí, của giác quan: nhĩ, mục, cảm, vị, khứu… Khi người ta không nhận ra bản chất của những dữ kiện đó, còn trợ lực cho chúng bằng cách tổ hợp chúng thành hệ thống nọ kia, thì chúng trở thành ảo ảnh, biến ra giá mắt (oeillère) để dẫn người đó chạy vòng ngoài, mà Mạnh Tử kêu là "vật giao vật nhi dẫn chi nhi dĩ hĩ”. Vật trong là ý niệm hay đối tượng (objet) giao kết với vật ngoài là hình, danh sắc, tướng, nghĩa là cũng trống rỗng như đối tượng bên trong. Hai đàng có họ hàng "rỗng" như thế vào hùa với nhau để dẫn nạn nhân chạy theo vòng ngoài với những danh từ, biểu tượng trống rộng, nghĩa là không liên hệ với nguyên lý sống động căn bản, không mảy may sinh động hứng khởi, không thể gây nên một nếp sống, gợi ra một hướng đi(**).

Con người bị dẫn đi vòng ngoài như thế quên mất đường trở lại "nhà" tức là Nhân tính, nên quen dùng tiếng "vong thân" mà chỉ thị. Để tránh vong thân phải "phải thân nhi thành". Để tránh "vật giao vật" phải đạt "thiên địa nhân giao hỗ kỳ căn". Tam tài giao nhau ở căn để chứ không ở vòng ngoài. Vòng ngoài là vật giao vật. Vòng trong mới là giao hỗ kỳ căn. Căn là tâm con người. Vì thế mới nói "tâm chi quan tắc tư". Và chỉ có cái Tư trên căn để đó mới đắc đạo, đắc lý, đắc nguồn suối tuôn trào sáng láng và mạnh mẽ.(**). “Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở Thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” ( Ga 4, 14). Tu thân cũng có nghĩa là Tu Tâm, hay ngược lại Tu Tâm là Tu Thân vì Đạo bất viễn nhân, Đạo không thể xa người. Đức Giêsu phán: “Nầy chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi nầy hay tại Giêrusalem” ( Ga 4, 21), nghĩa là thờ phượng Chúa ngay trong Tâm hồn con người, trong Tâm Tư, Tâm Thức của mình trong Thần Khí và Sự Thật, vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng chân thật.

Tu Trì khác với Tu Thân vì, như đã nói, Tu Trì chỉ nhắm vào cứu rỗi linh hồn mà quên toàn thể con người. Tu Trì chỉ dành cho một giai cấp trong xã hội, và một nơi chốn riêng gọi là Tu Viện với những cương lĩnh, luật lệ riêng tùy mỗi tu viện. Nhưng Tu Thân thì dành cho tất cả mọi người, ai Tu cũng được, nơi nào cũng được miễn là có thiện chí muốn tu tĩnh, muốn hoán cải. Tu Thân bao giờ cũng gồm Tu Đức và Tu Tâm, nói chung Tu Thân dành cho con người toàn thể. Mặc dù gốc của Đạo từ Trời"Đạo chi bổn nguyên xuất ư thiên" (T.D). Gốc của Đạo phát xuất tự trời (**), nhưng người Tu Thân không được xa lìa mình để tìm Đạo, vì "Đạo không xa người". Đạo không ở xa mình, Đạo không vật này hay vật kia mà gốc ở ngay nội tâm mình (kỷ) như trọng tâm bất kiến(**).  Đạo học cũng chính là đi vào nội tâm sâu thẳm, vì chỉ nơi đó mới có sự tiếp xúc trực tiếp với nguồn sống bao la càng lặn sâu vào nội tâm thì càng tiếp cận với dòng sống, phải đạt đến sự nhận thức, sự cảm nghiệm được mối liên hệ sâu xa của mọi tư tưởng làm sao cho chúng ăn vào mình, bắt rễ tự tâm thức của mình. Bao nhiêu tư tưởng dù cao xa như Thượng Đế, Hồn thiêng, Thần linh… không nối liền được với tâm thức mình thì sẽ trở thành ứ đọng, khô cứng.(**).

Các người có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu

Có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy.

Vì lòng dân nầy đã ra đần độn,

Chúng đã nặng tai,

Còn mắt thì nhắm lại,

Kẻo mắt chúng thấy,

Tai chúng nghe,

Và lòng hiểu được mà hoán cải,

và rồi Ta sẽ chữa cho chúng lành ( Is 6, 10).

Thật ra ai cũng tai nghe, mắt thấy nhưng vì "Nhĩ mục chi quan bất tư, nhi tế ư vật” nên thành chẳng nhìn chẳng hiểu. Lòng không hiểu thì  không gọi là Biết được.

 "Tri viễn chi cận. Tri phong chi tự Tri vi chi hiển" (T.D 33)

 "Biết cái gần của cái căn cơ xa thẳm. Biết chỗ ngọn nguồn do lai của luồng gió. Biết được chỗ tế vi của những cái đã hiển hiện ra trước mắt".

 Biết thế mới nói lên lời sáng soi sống động gây nên một nếp sống mới. Đó là cái biết tế vi ngọn nguồn ở mãi tận đợt căn cơ, chỉ cần một Lời, nhưng là Lời quán thông bao gồm được mọi khía cạnh. Làm sao nhìn nhận ra được Lời đó giữa cảnh ồn ào muôn lời tào lao huyên náo (**) Loài người đâu chỉ có sống vì cơm bánh, nhưng còn sống vì Lời Thiên khải.( Mt 3, 4). Muốn nghe được Lời Thiên Khải, Lời từ miệng Thiên Chúa phán ra, phải nghe bằng Tai của Tâm, nhĩ nhập tâm; Nhìn với lòng tỉnh thức và cầu nguyện luôn, vượt quá những chuyện ăn làm, thị phi theo lưu tục, hiện rõ ra trước tai mắt thế gian(**); để Biết được bằng Tâm Thức, Lòng Hiểu.

Biết không cũng chưa đủ, cần phải Sống với những Hiểu Biết đó. Đó chính là cái nhìn soi thấu có tính cách giải gỡ cứu thoát. Không còn phải biết mình trong một thứ suy luận lý trí, mà là sống trong một thế giới của hiện sinh cụ thể, của kinh nghiệm, theo nghĩa đó thì chính đời sống sẽ khải thị cho chúng ta biết ta là gì, chứ không được dành đặc ân đó cho sự suy tư hay phân tích”. (Soi tr.508) Nói khác sự hiện thực, sự sống cái sống con người là chính nẻo đường đưa đến cái biết về con người.(**) Người ơi!Hãy thức dậy mà Sống. Eveille toi et vis! ( Gusdorf, La découverte du Soi). “ Vậy anh em hãy Tỉnh Thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” ( Lc 21, 36). Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống (Ga 11, 25). Tu Tâm để Biết và Tu Thân để Sống.

Tâm Thức, Lòng Hiểu, mới đem đến Hoán Cải, thay đổi bên trong tâm hồn để chuyển hóa Ác Tâm thành Thiện Tâm, thay đổi cả con người trong suy tư và nếp sống. Phải đi từ đa tạp (information), là những điều tai nghe mắt thấy bên ngoài, tới thống nhất (formation) trong cái biết hệ tại tự nội tâm, quý hơn nữa là transformation: biến hóa.(**) biến đổi để chuyển hóa trong quá trình tiến hóa để thăng hoa con người và đời sống. Đúng hơn không phải sự vật biến đổi, nhưng tâm thức biến đổi làm cho con người nhìn vạn vật dưới ánh sáng linh diệu khác lúc còn bị lôi cuốn theo dòng lưu tục (tứ địa), tức nhìn trong mối liên hệ với Toàn thể nên sống động.(**)

Bên Đông phương con đường tiến hóa được vun tưới tài bồi cho sự nảy nở của tâm linh đặt trọng tâm vào điểm này: cả về ý niệm tiến hoá cũng chú trọng vào đây, nghĩa là chú trọng vào việc biến chuyển ý thức tâm linh hơn là nghĩ tới biến cái thân xác theo kiểu Darwin (*). Thần Khí mới làm cho sống, xác thịt chẳng có ích gì (Ga 6, 63). Nên người Đông Phương coi Tu Thân là trọng. Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại. ( 1Cr 9, 27) Trước hết tự tu thân đến tề gia rồi lan ra tới trị quốc bình thiên hạ, nhưng điểm phát huy ánh sáng phải là cái nội ngã tâm linh vậy. (**)

Con người hiện nay đã "thành công" rất lớn, nhưng "thành nhân" rất nhỏ. Con người chưa được sửa soạn đủ để hưởng cái thành công của mình. Thay vì lấy thành công tô thắm cuộc đời thì lại dùng để tiêu diệt lẫn nhau. Vì chưa tìm ra cái toàn thể làm gốc để quy tụ các động tác tư riêng nên mọi chương trình trở thành vá víu. Cái gốc là chính con người, phải lấy thành nhân làm nền móng trong việc an bang tế thế lâu dài.Tu thân mới là bổn gốc, ngòai ra kinh tế, chính trị, ngoại giao… tuy không ai dám chối là cần, nhưng cần hơn cả là gốc, nghĩa là suy tư tìm trở lại nguồn gốc căn cơ con người, cũng chính là cái thực tại toàn triệt mà chúng ta khát mong tìm trở lại, gọi là cái khát vọng siêu hình, mà không có thành công nào bóp chết được.(**). Tu Thân rồi mới tới Tề Gia, đấy là trật tự tận tính ở trung tâm chứ không ở ngoài ngành ngọn chu vi biến đổi. Chính gốc mới là phần "thành nhân", nếu không ông trời xuất thân (avatars) cũng chẳng làm nổi; sau cùng vẫn cái nạn bất công, áp bức hung tàn như trước, có biến đổi gì đâu?(**)

Tu Thân để trở về Nhân Tính, tìm lại Nhân Tâm để Lòng Nhân được triển nở, phát sinh từ đó. Quy tư tức trở về với Tính thể, nghĩa là đặt trọng tâm vào sự hiện thực cái "nhân tính", coi đó là sứ mệnh của đời mình. Từ đó thái độ người thay đổi nhiều: từ cử chỉ, hành vi cho đến thị kiến, tác phong, nếp sống… Vì người đã thực sự cảm thấy một thế giới khác, "một trời mới đất mới". Quân tử dùng Nhân dùng Lễ mà duy trì Tâm. Người Nhân mới yêu người khác. Người có Lễ mới biết kính lân nhân". "Quân tử dĩ Nhân tồn tâm, dĩ Lễ tồn tâm Nhân giả ái nhơn, hữu lễ giả kính nhơn (Mạnh IVb 28) Nếu Đức bởi trời sinh đã đủ mạnh thì tự nhiên trung điểm chú tâm (centre d'intérêt) của con người liền tự di chuyển từ đợt lợi danh đi lên đợt nhân, đợt Đạo: tự lợi hành đi lên an hành.(**). Lúc đó việc thương yêu người khác không phải là điều bắt buộc nữa, nhưng là luật tự nhiên; việc bố thí cho người nghèo khó không phải là bổn phận từ thiện, nhưng là việc chia sẻ phải làm; kính trọng người khác không còn là lịch sự bề ngoài, nhưng là điều chân thật từ bản thân, từ tâm hồn. Để xây dựng căn nhà Nhân Loại, trước tiên con người cần tìm lại căn nhà Nhân Tính của mỗi một người, để dựng lại Nhân Tâm chân thật của con người.

Bàn bạc trong giáo lý Đức Kitô là Con Người chân thật tràn đầy Nhân Tính, và Nhân Tính đó bộc lộ rõ ràng trên Đường Thập Giá: Không chống cự, không đối kháng, không dùng Ác báo Ác, nhưng một mực dùng Thiện để thắng thế gian. Câu nói lưu danh muôn thưở : “Ecce Homo, đây là Người! ”, vô tình Philatô đã nói lời vô cùng hàm súc để giới thiệu Con Người Giêsu cho tất cả, Con Người bị đánh bầm dập tả tơi không còn hình dạng người ta nữa, nhưng đó là Con Người đích thực. Để rồi trên Thập Giá, Con Người đó thật sự trở thành Nhân Hoàng của nhân loại trong cõi nhân sinh trường tồn vạn kỷ. Người nói: “Mạng sống của tôi, không ai lấy được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. ( Ga 10: 18, 17) Người xưa đã nói: “Tâm là vua hình thể, là chủ của thần minh, ra lệnh mà không chịu lệnh ở đâu cả. Tự cầm lấy, tự chiếm lấy, tự cướp lấy, tự lấy lấy, tự làm, tự thôi”. Thật là một triết lý nhân sinh tự cường thâm hậu hết chỗ có thể nên đã biến vũ trụ quan thành thế giới của nhân hoàng.(* ) Đấy thật sự là vị Vua uy dũng, đầy quyền năng và lòng nhân ái, đúng là một Nhân Chủ tiêu biểu trong cõi nhân sinh, không ai ràng buộc Người, không gì ràng buộc được Người. Chính Người giải thoát nhân loại khỏi vòng nô lệ hóa mà từ trước tới nay người ta lầm tưởng trong kiếp nhân sinh. Trên Thánh Giá, chính Người phục hồi địa vị nhân hoàng của con người trong vũ trụ giữa Trời và Đất. Qua Người, người ta cũng được nhìn thấy sự Tự Do và Tình Thương vô biên của Thiên Chúa, tất cả xảy ra nơi Thánh Giá Chúa Kitô, một nét đẹp vô song, vô tiền khoáng hậu mà loài người không thể không bàng hoàng khi nhìn Thánh Giá mà gẫm suy địa vị Nhân Hoàng. Đấy mới chính là sự Giải Thoát con người khỏi vòng nô lệ, mà nhân loại vẫn mãi chờ mong.

Người ta nghĩ sao khi nhìn thấy thế giới đảo điên hôm nay, hay vẫn cho rằng tôi vẫn tốt, vẫn lành thì cớ chi mà phải thay đổi nếp sống đã thành tựu, thay đổi chính tôi đã thành danh. Khi Đấng Bảo Trợ đến, Người chứng minh thế gian sai lầm về sự công chính: Vì Thầy đến cùng Chúa Cha, anh em không thấy Thầy nữa. ( Ga 16, 10). Vì sự công chính không phải do bề ngoài tốt lành, thánh thiện của người ta để rồi phán xét người khác, nhưng do chính con người biết trở về với chính mình để nhận ra lầm lỗi của mình, biết để thay đổi nhờ Ơn ban trợ giúp của Thiên Chúa mà trở nên công chính ( x. Lc. 18: 9-14). Chúa Giêsu đã nói dụ ngôn nầy cho họ, ai có tai thì nghe, có Tâm thì biết. Muốn được nên công chính, phải trở về với chính mình bằng con đường Quy Tâm. Trước hết là trở về nội tâm: thiên kỳ phản nhi. Đây là điểm căn cơ hơn hết trên con đường ngược chiều: tự ngoài vào trong, nghĩa là từ những cái tư riêng được coi như mục đích, thì nay mục đích được hướng vào chỗ "Kỳ Trung" ở đợt sâu thẳm nhất, nên chỉ còn là tiết điệu uyên nguyên mà mỗi người học đạo phải cố đạt tới.(**). Đó là Tu Tâm, bài học đầu tiên của Tu Thân.

 Để Trở Về với chính mình, Đông phương hướng vào chỗ "Kỳ Trung" ở đợt sâu thẳm nhất, tức là Tâm vì Đạo nằm ở chỗ cùng cực của mỗi việc làm đến trọn hảo, ở lời phát xuất tự sâu thẳm của tâm hồn.(**) phải "thối tàng ư mật", trở lui đến chỗ ẩn tàng mắt không thấy, tai không nghe, để tìm ra chốn "hội thông" của vạn vật là điểm phát huy ánh sáng là cái nội ngã tâm linh(**) biết cách trực tiếp nhờ tâm ta, còn qua vạn vật chỉ biết cách gián tiếp bên ngoài.(**) Phù hợp với Đạo Chúa tức là: Lui vào nơi thanh vắng ( Mc 6, 31), Cầu nguyện nơi kín đáo: Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo; khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo (Mt : 6, 17) Trong khi trời chưa "sinh đức" thì nhẫn nại mà chờ "cung mặc tư Đạo" (Kinh Thư VII.2). Cung kính ở lặng (pensée tranquille) mà suy tư Đạo: nghĩa là hướng tâm về Đạo, thao thức tiếp tục thanh lọc bằng "tuyệt tứ" bằng con đường nhơn chi đạo là "thành chi giả" cho đến một sáng kia thoát nhiên lóe lên như một tia chớp liền quán thông liễu hội: "nhất đán hoát nhiên quán thông yên," ĐH.5. Đấy là phút "thần hùng" có thể gây âm vang vào cả một đời, vì ánh sáng Đạo Thể siêu việt thời gian nên không bị hạn cục.(**). Cung Kính ở lặng để lắng nghe bằng Tâm Tai, cung tư mặc tưởng mà trầm tư, để chờ Ơn Mặc Khải đem ánh sáng cho nội tâm thay đổi cả một đời. Quy tư tức trở về với Tính thể. Có qua những phút uy linh ấy mới hiểu sự trống rỗng tâm trí quan trọng, sự bất lực của lý trí con người trên cõi linh thiêng: lúc đó thiêng liêng tràn qua con người(**) Vì ánh chớp chói lòa chiếu sáng từ phương trời nầy đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như vậy trong ngày của Người. ( Lc 17, 23 ).

Phương thế mà Đông phương đề nghị theo diễn trình: định, tĩnh, an, lự để con người thực hiện con đường từ Tu Tâm đến Tu Thân: Trở về với chính mình để nhận ra lầm lỗi của chính mình để sửa đổi, sám hối và hoán cải mà nhìn ra con Đường Sự Sống ( x. Lc 13, 1-5; Lc 18, 9-14), để Lấy cái xà xa khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ ( Mt 7, 5), để tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người ( Mt 6, 33), để tích trử cho mình kho tàng không hư nát, không bị trộm cướp lấy mất đi, vì kho tàng của anh ở đâu thì lòng anh ở đó. ( Mt 6, 21). Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy. ( Mt 7, 13-14). Người lấy  "tu thân vi bổn" làm gốc là người dũng cảm, có gan lên đường thực sự, có mắt tinh đời biết coi nhẹ cái người đời coi trọng đặng coi trọng cái người đời coi khinh, đã thoát ra ngoài lưu tục là chỗ "bỏ gốc theo ngọn" (xả bổn trục mạt). Chính sự chinh phục những cái dư thừa, vô ích ( theo người đời) mới làm cho con người trở nên linh thiêng tế nhị, làm cho con người trở nên người hơn, đầy đủ hơn(**),"hợp với linh lực của trời đất": thánh nhân dữ thiên địa hợp kỳ đức. Đó cũng gọi là nền Thái Hòa. Sống theo Thái Hòa: Hòa đất trời người là cái sẽ đem lại cho mọi hành vi cử chỉ của người tu học một cái đẹp siêu thời.

Nếu ta phân biệt giữa sự thật (le vrai) và sự thực (le réel) thì phải nói triết học cổ điển chỉ biết có sự thật do lý trí kiến tạo bằng dữ kiện giác quan, mà không biết sự thực tự thân: sự thực này khác hẳn với sự thật do trí óc mình bày bịa ra rồi bắt nó phải tương hợp với sự thật như thế được định nghĩa là "sự tương hợp giữa lý trí và sự vật": adoequatio rei et intellectus. Ngày nay người ta gọi là chân lý đối vật (vérité-object) nghĩa là do lý trí tạo ra mà không là Thực thể Chân như, nó có sao thì mở phơi ra như vậy, không bị bóp méo do những ý niệm, những phạm trù của lý trí.(**), nhưng để chuyển hóa với Thành Tâm. Tu Tâm và Tu Thân để Biết và Sống cái sống chân thật tự thân, chân như, cái sống của chính mình để sửa đổi chính mình nên không phê phán ai, không chà đạp ai, không chỉ trích ai. Các ông xét đoán theo kiểu người phàm. Phần Tôi, tôi không xét đoán ai cả ( Ga 8, 15) Nó còn được nhấn mạnh trong chữ Lự. Chữ này ở đây cùng nghĩa với chữ "hư", nên vừa có nghĩa là mưu toan (lự) vừa có nghĩa là hư không, lo mà không lo(**). Định, Tĩnh để đạt An, Lự. Vậy anh em hãy Tỉnh Thức và Cầu Nguyện luôn, hầu thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người ( Lc 21, ) Thầy ban cho anh em Bình An của Thầy, Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. ( Ga 14, 27 ). Trong Thầy, anh em được Bình An ( Ga 16, 33). Tu Tâm để đạt Tâm chân thực, đã làm tâm chân thực bao giờ cũng to bằng vũ trụ, tức thiên địa chi Tâm (**), có nghĩa là Tâm vô biên, Tâm có Chúa, có Thiên nên có được Bình An của Đấng vô biên. Tu Thân để đạt Tính, mà Tính là gốc của Thiện, nhân chi sơ Tính bổn Thiện; nên Tu Thân để trở về Nhân Tính là Thiện căn của con người. Bình An dưới thế cho người Thiện Tâm. Tu để đạt Bình An Thái Hòa cho Thân Tâm con người có Nhân Tính, đầy Nhân Tâm. Đó chính là từ bỏ vong thân để đi vào đạt thân vậy. (*). Tu là con đường Giải Thoát của Xuất Thế

Nghĩa thứ hai của Quy là trở lại với đời sống thế tục để xử thế, cho đời sống xã hội thấm nhuần đạo lý, cho cõi nhân sinh trở thành nhân đạo.(**). Con đường Giải Thoát không dừng lại ở Xuất Thế nhưng được tiếp nối bằng Nhập Thế. Tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian ( Ga 12, 47). Đức Giêsu đã Nhập Thể để chọn con đường Nhập Thế Cứu thế gian, Giải Thoát con người. Chính Người, Đức Giêsu trước khi bắt đầu Đường rao giảng, Người đã Xuất Thế, xa lánh cảnh ồn ào huyên náo, hỗn độn xô bồ của thế gian bằng 40 ngày ăn chay và cầu nguyện trong sa mạc, kết hợp mật thiết với Chúa Cha. Sau đó, Người đã thật sự bước vào đường Nhập Thế, rao giảng Con Đường mới cho nhân loại. Người đã đi con đường Quy Tâm trước và Quy Nhân sau để Cứu con người. Đó là trật tự tự nhiên ai cũng cần phải theo để tạo nền móng Giải Thoát đặt trên chính Thân Tâm của con người. Sau khi trở lại thâm tâm để Thành bằng con đường nhơn chi đạo là "thành chi giả", Thành giả không phải chỉ thành có mình mà đã xong, còn phải thành đạt cho người khác nữa(**). Là người có Nhân Tâm, Nhân Tính, Thành giả không trở lại với con người cũ, nhưng với con người mới Có Chúa trong Tâm. Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.( Gl 2, 20). Là người đã được uống nước Hằng Sống, múc tận nguồn Ơn Cứu Độ. Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn Ơn Cứu Độ ( Is 12,3). Nên, Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống ( Ga 7,39), vì ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa ( Ga 4, 14), như Lời Chúa Giêsu đã hứa. Giờ đây người môn đệ vẫn Sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, vì được bước đi trong con Đường mới, Nhận Thấy được Trời Mới Đất Mới vì Trời và Đất đã được chuyển hóa từ Thân Tâm của con người bước theo Đấng là Đàng, là Sự Thực và là Sự Sống. Xuất Thế, Nhập Thế là tiết điệu nhịp nhàng của đóng mở, mở đóng, nhất tịch, nhất hạp mà Đông phương đã theo từ bấy lâu nay, để chuyển hóa Thân Tâm con vật của Aristote, chà đạp và chối bỏ con người, Thành con người đã đạt mức trưởng thành trong nhịp Sống với Trời Đất uyên nguyên, trọn vẹn của Toàn Thể Viên Dung trong Thái Hòa giữa Trời và Đất, với Trời Đất Người, Thiên Nhân Địa thái hòa. Con người đã đạt Thành trong Con Người và với Con Người Giêsu, Đấng Kitô của Thiên Chúa, Đấng đem Bình An đến cho muôn loài, Đấng là Nhân Hoàng của vũ trụ trên Thánh Giá của Người, Giải Thoát nhân loại bằng con đường Xuất Thế và Nhập Thế của Người. Rượu mới phải đổ vào bình mới. Chỉ có Con Người Mới mới vào được Trời Mới Đất Mới thôi. 

( Còn tiếp )

Nam Hoa

Chú thích : (*) Trích từ Kim Định, Nhân Chủ

                   (**) Trích từ Kim Định, Tâm Tư

>>>  Xem thêm Bài 1Bài 2

Tác giả: