Nhảy đến nội dung

Lễ các Thánh Tử Đạo

 

 

LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

 

Tin Mừng   Lc 9,23-26


Khi ấy, Đức Giê-su nói với mọi người rằng: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì ? Ai xấu hổ vì Tôi và những lời của Tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần.”

SUY NIỆM

   Trong lễ Các Thánh,sách Khải Huyền có ghi lại lời của một vị trưởng lão hỏi  “Những người mặc áo trắng nầy là ai vậy ? Và họ từ đâu mà đến ?” Tôi đáp lại rằng “ Thưa Ngài,hẳn Ngài đã rõ” Và Người bảo tôi rằng “ Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến,họ giặt áo và tẩy áo trắng trong Máu Con Chiên”.

   Mừng lễ Các Thánh Tử Đạo,chúng ta có dịp nhắc đến một giai đọan đầy khó khăn và bị bách hại của lịch sử Gíao hội Việt Nam.Các bậc cha ông đã kiên cường và can đảm liều mình chịu chết để bảo vệ đức tin một cách anh dũng.Các Ngài đã không quản ngại bất cứ một thử thách hay một hy sinh,thậm chí cả cái chết, để giữ vững niềm tin vào Chúa.

   Đọc lại tiểu sử anh hùng của các Thánh,những hành động và những lời nói bất khuất của các ngài, chúng ta càng phải hãnh diện và ra sức phấn đấu nhiều hơn nữa,để khỏi hổ ngươi với các bậc cha ông tiên đế.

1.Các Ngài là những người giáo dân gương mẫu:

Dẫu rằng đời sống thật cực khổ và khó khăn,cả vật chất lẫn tinh thần, nhưng các ngài vẫn luôn cố gắng sống đạo đức,chăm chỉ trong các bổn phận và khuyên răn con cái sống tốt lành.Những lời nói bất khuất ấy vẫn còn được lưu lại cho hậu thế chúng ta :

·        Lời bất hủ: Trong hồ sơ phong thánh các đấng viết về anh Mới như sau: "Anh Augustinô sống đạo rất tốt, đặc biệt là đọc kinh Mân Côi mỗi tối, dù có ngày lao động vất vả đến đêm khuya mới về, anh cũng không quên đọc kinh Mân Côi kính Ðức Mẹ". Trong làng có nhiều người nhát gan bước qua Thập Giá.Nhưng anh Mới, Vinh, Ðệ cương quyết không bước qua đạp lên Thánh Giá,nên bị bắt và áp giải chung với cha Tự,ông trùm Cảnh,và hai thầy Uý và Mậu lên giam tại Bắc Ninh.

·        Lời bất hủ: Quan tra hỏi: "Vậy ông dậy dân chúng những gì?". Cha Minh đáp: "Tôi chỉ người ta làm điều lành, tránh điều dữ thôi". Quan hỏi: "Tại sao không bước qua Thập tự?".Cha đáp: "Thưa quan, Thập tự đối với chúng tôi là hình Thánh Giá, tượng trưng cho ơn cứu chuộc, nên không ai được chà đạp, vì đó là một trọng tội". Cha cắt nghĩa các lẽ đạo cho quan rồi kết luận: "Kẻ trung thành với Chúa Giêsu, khi chết sẽ được lên Thiên Ðàng".

·        Lời bất hủ: Cha Thánh Hạnh cùng với cha Duyệt ( người bước qua Thánh Giá ), Khi cha Hạnh chứng kiến việc cha Duyệt bước qua Thánh Giá mấy lượt, cha Hạnh nổi nóng chỉ thẳng vào mặt nói: "Bớ ông kia, hãy xem đầu mình đã bạc, còn sống được bao năm nữa mà cả lòng bỏ Chúa mình vì năm ba ngày tháng chóng qua ru? Ông làm ố danh đấng bậc mình để được lòng vua dữ ? Ông thêm cực lòng cho Giáo Hội đã nuôi nấng dạy dỗ bấy lâu, đi làm bạn với ma quỷ, chực làm hại đời mình."

Một lần có lính nói: "Ông không thoát chết được đâu". Cha đáp: "Phải, sự chết thì đã hẳn rồi. Trước tôi cứ ngỡ là được chết với cha chính Hiền, mà tôi chẳng được sự ấy thì lấy làm buồn lắm". Quan có lời hứa rằng: "Nếu cha bỏ đạo sẽ cho làm quan!". Cha đáp: "Dù tôi được làm quan ngay hôm nay mặc lòng, tôi cũng không xuất giáo đâu. Tôi chỉ muốn được làm con Ðức Chúa Trời thôi". ( Lm.Ðaminh Nguyễn Văn Hạnh )

·        Lời bất hủ: Anh Toma Ðệ nói với người vợ trẻ lần cuối cùng rằng: "Ðừng khóc mình ạ, mình hãy về dạy dỗ các con nên người, dạy chúng thờ phượng Chúa. Anh đã dâng mình và các con cho Ngài. Nhớ cầu xin Chúa cho anh được thêm sức mạnh để nhẫn nại đến cùng nhé".

·        Lời bất hủ: Bà thánh Ðê khuyên các con: "Con hãy về (tức chị Lucia Nụ) chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên đàng". Khi chị Nụ thăm mẹ trong tù thấy y phục loang lổ máu, khóc thương, mẹ an ủi: "Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu sao con lại khóc?". Khi chồng bà vào thăm, bà giải thích vì sao bà được kiên tâm như vậy: "Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Ðức Mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn". Quân lính được lệnh vừa đánh vừa lôi qua Thánh giá. Nhưng bà sấp mình xuống đất kêu lớn tiếng: "Lạy Chúa xin thương giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ lòng tin Chúa, nhưng vì con là đàn bà yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để cưỡng bức con đạp lên Thánh giá". Cuối cùng bà đã dâng lời cầu sau hết: "Giêsu Maria Giuse! Con xin phó linh hồn và thân xác con trong tay Chúa, xin ban ơn cho con được tuân theo ý Chúa trong mọi sự".

2.Không vì ham sống mà chối đạo :

Dẫu rằng đời sống đức tin chỉ là những là những lời truyền miệng đơn sơ,các phương tiện để học biết Chúa thật đơn giản và cộng thêm các khó khăn trong việc giữ đạo.Nhưng các Thánh vẫn một lòng trung trinh sống niềm tin của mình một cách trung thành và bất khuất.Những lời nói bất hủ nói lên niềm tin thật sống động và vững chắc nơi các Ngài :

·        Lời bất hủ: Vua hỏi ông Phaolô Tống Viết Bường: "Lệ thường dẹp giặc xong rồi thì phải vô Chùa lễ bái, tại sao khanh không đi?".
Ông Bường thẳng thắn trả lời: "Vì hạ thần theo đạo Công giáo". Vua Minh Mạng thịnh nộ trách mắng thậm tệ, doạ đem chém đầu. Ông thường xuyên bị tra hỏi, mỗi lần ông đều trả lời: "Lâu nay tôi chỉ thờ một Thiên Chúa dựng nên vạn vât, lẽ nào bây giờ tôi lại bỏ Chúa tôi!". Có lần ông trả lời: "Quan lớn có lòng thương thì tôi cũng xin quan lớn một điều là cho tôi được vẹn chữ Trung với Chúa Trời"

·        Lời bất hủ: Ðây là vần thơ lục bát mà cha Ða-Minh Nguyễn Văn Xuyên sáng tác trong tù:

"Ai ơi, giữ lấy túi khôn
Ðầy tràn tin cậy, đầy lòng mến yêu
Gươm đao đe doạ dẫu nhiều
Quỷ ma cám dỗ sớm chiều đe loi
Ai mà thắng được trên đời
Mai sau hưởng phúc cõi trời cao sang"

Cha bị bắt khi đang dâng lễ ở họ Hạ Linh, quân lính nộp cho quan. Quan cười nói: "Ðưa đây một số bạc, ta tha cho về". Cha trả lời: "Tôi chẳng có đồng nào trong người, nếu quan tha tôi cám ơn, nếu quan bắt tôi xin chịu". Khi nghe thuật lại chuyện dân làng góp tiền chuộc cha về, cha an ủi: "Anh em hãy để tiền lo cho giáo xứ thì hơn, đừng tốn tiền chuộc tôi làm chi vô ích. Ý Chúa đã muốn, chẳng ai làm khác được. Anh em cứ bình an về nhà,nhớ cầu nguyện cho tôi chịu sự khó cho nên". Thế rồi cha mang gông nặng theo lính về Nam Ðịnh. Cha bị tra tấn kìm nung đỏ cặp đứt từng miếng thịt, Ngài can đảm gắng sức nói thẳng với quan: "Dù sống, dù chết, tôi cũng không bỏ đạo. Tôi chọn cái chết để sống đời đời, hơn là nghe quan sống thêm ít lâu mà muôn đời bị tiêu diệt"

·        Lời bất hủ: Quan khuyên cha Tôma Khuông  bỏ đạo, bước qua Thập giá, khuyên tín hữu bỏ đạo. Cha đáp: "Tôi nay đã 80 tuổi rồi, lại là linh mục Công giáo, tôi luôn luôn nhắc nhở các tín hữu trung thành giữ đạo thánh Chúa. Giờ đây nếu tôi khuyên họ chối đạo thì tôi thật bất xứng và chẳng đáng làm linh mục. Tôi và các bạn tôi không mong ước gì hơn là được hy sinh mạng sống vì đạo thánh Chúa".

·        Lời bất hủ: Khi chàng trai Stêphanô Nguyễn Văn Vinh ,25 tuổi bị buộc phải chà đạp lên Thánh Giá, anh nói can đảm thẳng thắn với quan rằng: "Tôi thà chết chứ không bao giờ chịu đạp lên Thánh Giá, vì tôi biết đạo Chúa Giêsu là đạo thật".

·        Lời bất hủ: Quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh, Nam Ðịnh nói với ông Ðạt: "Hai bạn của ngươi (tức thánh Thể và Huy) vì cuồng dại không chịu bỏ đạo tà, nên đã bị chém làm tư quăng xuống biển. Còn ngươi, nếu khôn thì chối bỏ thứ đạo đó đi để về với vợ con". Ông Ðạt thẳng thắn đáp: "Tôi đã chịu nhiều cực hình vì đức tin, nay tôi sẵn sàng chịu thêm nhiều hình khổ khác nữa. Hai bạn tôi đã được phúc trọng, quan cứ chém tôi làm tám cũng được".

3.Chúa chính là lẽ sống:

Chẳng lợi lộc trần thế nào lay chuyển nổi niềm tin nơi các thánh.Chẳng khó khăn,nhục hình nào làm cho các Ngài nản chí và chối đạo.Vì Chúa chính là gia nghiệp và là sự sống đời đời của các Ngài.

·        Lời bất hủ: Quan khuyên ông Anrê Nguyễn Kim Thông bước qua Thập giá, ông trả lời: "Không được, Thập giá tôi tôn kính mà dẫm lên sao được". Ông khẳng định với quan: "Thà tôi chịu lưu đầy và chết vì Chúa, chứ tôi không chối đạo". Các con ông dự định bỏ tiền xin giảm án, nhưng ông cản: "Các con cứ để Thánh Ý Chúa được thể hiện".

·        Lời bất hủ: Quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh dùng mọi phương thế để bắt ông Trùm Antôn Nguyễn Ðích bỏ đạo. Ông Ðích trả lời với giọng vững vàng: "Thưa quan, con cháu chi cũng mặc, tôi đã lo liệu cho chúng. Tôi có bổn phận tôn thờ Thiên Chúa, quan tha hoặc kết tội thì tuỳ, chứ đừng ép tôi bỏ đạo".

·        Lời bất hủ: Quan bắt anh Ninh chà đạp lên Thập giá, nhưng anh can đảm trả lời: "Nếu làm con cái không được phép làm sỉ nhục cha mẹ mình, thì làm sao người Kitô hữu lại được phép chà đạp hình ảnh của Ðấng tạo thành trời đất, xin quan cứ thi hành điều quan muốn, còn tôi không bao giờ xúc phạm đến Thánh giá Chúa đâu".

   Lịch sử của các thánh tử đạo là những chuỗi ngày sống lành thánh,hiền hòa, không làm điều gì phương hại đến tha nhân, gia đình và tổ quốc.Nhưng là con cái của Nước Trời,các Ngài đã can đảm và anh dũng biết bao để bảo vệ danh hiệu ấy,dẫu có phải thiệt thân.Gương anh dũng của các Ngài luôn là đèn soi,là gương sáng để tất cả con cháu chúng ta noi theo và bắt chước

   Còn ngày nay, chẳng ai bắt bớ hay dọa nạt chúng ta sống và giữ đạo.Nhưng chính lối sống và hành động của nhiều người trong chúng ta đã và đang chà đạp đức tin và xúc phạm đến Chúa một cách trắng trợn đến trơ trẽn !

·        Hấp lực của những đồng dollars làm cho biết bao gia đình đổ vỡ,ly dị và sống thác loạn không còn kỷ cương.Nhiều bậc cha mẹ đã vì đồng tiền,vì cuộc sống giầu sang hưởng thụ, “sang chảnh !”, đã chẳng biết khuyên dạy con cái làm điều lành,thậm chí còn “nối giáo cho giặc” khuyến khích con cái làm những điều mất lòng Chúa !

·        Chỉ một chút danh vọng hão ở đời,nhiều người đã và đang giơ tay lênthề chối Chúa, tự biến mình trở thành kẻ đối nghịch với Chúa.Nhiều người đã chỉ vì cái tôi ích kỷ và sự tự mãn của mình,mà chấp nhận sống trong lầm lạc,để trở thành gương xấu cho con cái.Thiên đàng của họ là cái bụng và những gì thuộc về nó.

·        Một chút đam mê,một chút hưởng thụ khoái lạc,nhiều người trong chúng ta đã đặt Chúa ở hàng thứ yếu,không cần thiết và nhiều lúc con là sự phiền toái.Chúng ta thích được yên ổn để sống với những đam mê thác loạn,hưởng dùng cuộc đời, mà chẳng màng chi sự sống đời sau.

Chúa đã dạy “Không ai làm tôi hai chủ” thật đúng với thế hệ con người ngày nay.Những chuyện chối đạo công khai,sống ngược lại với đức tin ấy thật đáng xấu hổ,đáng bị nguyền rủa hay đáng bị loại trừ trước mặt Chúa!

LỜI CẦU NGUYỆN 

  Lạy Chúa,đọc lại những trang sử hào hùng về các thánh tử đạo của đất nước Việt Nam,chúng con cảm thấy hãnh diện và tự hào vì mình là con cháu của các thánh.Giòng máu tử đạo của các Ngài đã nảy sinh biết bao mầm giống đức tin.Xin cho chúng con luôn biết sẵn sàng và mau mắn tiếp nối dòng máu hào hùng ấy,để chúng con biết vượt qua mọi thử thách và khó khăn trong cuộc sống,mà trở nên những người con xứng đáng của Nước Trời. Amen.

BÀI ĐỌC THÊM

Matthêu Lê Văn Gẫm (1813-1847)

Matthêu Lê Văn Gẫm, Sinh năm 1813 tai Gò Công, Biên Hòa, Giáo dân, Thương gia, bị xử trảm ngày 11 tháng 5 năm 1847 tại Chợ Ðũi dưới đời vua Thiệu Trị, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 11/05.

Liều thân vì đại nghĩa

Năm 1844, theo lời yêu cầu của Đức cha Cuénot Thể, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XVI chia giáo phận Đàng Trong thành hai giáo phận: Giáo phận Đông gồm các tỉnh miền Trung, và giáo phận Tây gồm các tỉnh Miền Nam và Campuchia. Giáo phận tây được giao cho Đức cha Lefèbvre Nghĩa, khi đó đã bị trục xuất và đang ở Singapour. Phải đưa Đức cha về giáo phận, đó là điều mong ước của toàn thể tín hữu và hàng giáo sĩ ở Nam Việt. Thánh Matthêu Gẫm đã đứng ra đảm nhiệm công tác này, dù đã lường trước được những nguy hiểm đến tính mạng. Và thực tế, ngài đã bị bắt và đã hy sinh vì sứ mạng này. Tấm gương sáng ngời của thánh nhân sẽ muôn đời sống mãi trong lòng các tín hữu Việt Nam yêu mến Giáo Hội mình.

Người gia trưởng gương mẫu

Matthêu Lê Văn Gẫm chào đời năm 1813 thời vua Gia Long, tại họ Tắt, thuộc làng Long Đại, xứ Gò Công, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc quận 9, TPHCM). Là con đầu lòng trong một gia đình năm anh em trai và một em gái út, Matthêu Gẫm đã thừa hưởng nơi thân phụ, ông Phaolô Lê Văn Lại và thân mẫu, bà Maria Nguyễn Thị Nhiệm, một truyền thống đạo đức thâm sâu.

Năm 15 tuổi, cậu Gẫm xin phép cha mẹ gia nhập chủng viện Lái Thiêu để tu học linh mục. Nhưng chỉ một tháng sau, song thân đã đến xin cậu về. Vì là anh cả một đàn em nhỏ dại, cậu đã vâng lời cha mẹ về phụ giúp gia đình lao động kiếm sống. Và Chúa đã hướng dẫn cậu theo lối khác. Khoảng 20 tuổi, chàng thanh niên vạm vỡ ấy kết hôn với một thiếu nữ thuộc họ Thành, làng Long Điền, Bà Rịa (Nay thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Nai). Hai vợ chồng sống với nhau rất êm ấm thuận hòa và sinh dạ được bốn người con.

Trong nghề thương mại thường phải xa nhà, một lần kia Matthêu Gẫm sa ngã, theo đuổi mọt thiếu nữ khác. Nhưng khi nghĩ lại, ông cương quyết từ bỏ mối tình ngang trái. Để bù lại, ông tỏ ra yêu vợ nhiều hơn, và chú tâm vào việc giáo dục con cái, nhất là về đời sống đạo đức. Trong bốn người con thì con trưởng và con út qua đời vì bệnh, người thứ hai ra cản việc đốt nhà thờ Cầu Ngang nên bị giết, còn người thứ ba bị bắt vì đạo và chết thiêu trong khám đường cùng với nhiều người khác tại Bà Rịa ngày 07.01.1862. Hai người con sẵn sàng chết vì đức tin, quả là bằng chứng rõ rệt về đường lối giáo dục đức tin của ông.

Người thương gia quảng đại

Vì có thuyền riêng và rành nghề sông biển, công việc buôn bán của ông Matthêu Gẫm càng ngày càng phát đạt. Ông quảng đại giúp đỡ các giáo sĩ, và được các thừa sai tín nhiệm. Trong chương trình của cha Lợi, quản lý nhà chung Bà Rịa thì thỉnh thoảng ông lại làm một chuyến qua Hạ Châu (Singgapour) hay Pénang (Mã Lai) để đón các thừa sai và các chửng sinh Việt Nam du học về nước, hoăc chuyển các đồ thờ tự và sách báo đạo. Một số chuyến đi về êm xuôi, nhưng rồi công việc bại lộ, và các quan địa phương để ý theo dõi ông rất gắt.

Năm 1846, vì nhu cầu của giáo phận, ông nhận lời với cha Lợi sang Singapour đón Đức cha Đaminh Lefèbvre Nghĩa, cha Duclos Lộ và ba chủng sinh về Sài Gòn. Như có linh cảm chuyến này khó thoát, nên ông đến từ giã cha mẹ nội ngoại, dặn dò vợ con kỹ càng ước vọng của mình rồi lên đường. Chuyến đi được êm xuôi. Ngày 23.05, thuyền nhổ neo quay về thì gặp bão tố, và mất thêm bốn ngày trốn chạy một tàu cướp biển, nên ông chễ hẹn. Ngày 06.06, ông Gẫm mới vào đến cửa Cần Giờ, ông trùm Huy họ Chợ Quán đã chờ ở đó sáu ngày để chuyển người mà không gặp, nên đã chở về nhà.

Vì biết mình là đối tượng bị theo dõi, ông Gẫm đã cẩn thận neo thuyền chờ thêm hai ngày, đến khi không thấy ai ra đón, mới quyết định đánh liều đi sâu vào Sài Gòn. Vừa thoát qua một đồn canh, ông gặp một chiếc thuyền tuần tiễu, ông nhanh trí hối lộ cho họ 10 nén bạc để thoát thân. Năm người lính trên thuyền này, sau một hồi tranh luận, sợ chuyện bị bại lộ, nên quay thuyền lại và rượt theo để trả tiền rồi bắt thuyền ông. Ông Gẫm kêu gọi các anh em trên thuyền hợp lực, định chống trả, nhưng Đức cha Nghĩa không đồng ý, vì cho rằng trái với tinh thân nhân hậu của Kitô giáo.

Khổ giá và vinh quang

Sáng ngày 08.06.1846, với sự yểm trợ của một số lính trên thuyền khác mới tới, quan lính nhà vua áp tải thuyền ông Gẫm về Bến Nghé. Đức cha Nghĩa và cha Lộ bị giam ở Công Quán. Cha Lộ qua đời trong tù ngày 17.07.1846, còn vị Giám mục thì được giải ra kinh đô Phú Xuân. Tại đây vua Thiệu Trị lên án xử trảm, sau đổi thành án trục xuất về Singapour, sau ngài lại tìm cách vào Việt Nam. Ông Matthêu Gẫm tự nhận là người chủ mưu nên bị biệt giam ở Sài Gòn.

Vài ngày sau, các quan đưa ông ra tòa lấy khẩu cung và kêu gọi quá khóa. Dù bị đòn đánh đau đớn, ông Gẫm vẫn hiên ngang chịu đựng, không khai một ai, cũng không chịu bước qua Thánh Giá. Trước tòa, ông khai tên là Lê Văn Bửu, còn bản án lại ghi tên Lê Văn Bối. Sau 20 ngày, các quan làm án gửi về kinh đô xin xử chém, nhưng nhà vua chần chừ đến năm sau mới quyết định.

Trong thời gian chờ vua phê án, ông Gẫm phải mang gông xiềng nặng nề, nhưng lúc nào cũng giữ được bình tĩnh vui vẻ. Ông nói : "Tôi có ăn trộm ăn cướp gì đâu mà sợ, mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm". Cha Thán ba lần cải trang vào thăm giải tội và trao Mình Thánh. Cha Phan Văn Minh (tử đạo ngày 03.07.1853) cũng vào thăm và khích lệ. Các tín hữu Chợ Quán, Thị Nghè, An Nhơn và họ Lăng (Chí Hòa) cũng rủ nhau đến thăm viếng người anh hùng của giáo phận. Thân phụ ông Gẫm và người em, ông đội Phaolô Bằng, vì liên hệ gia đình cũng bị bắt giam tại Biên Hòa. Thân mẫu ông và các em khác trốn tránh quanh vùng Thủ Đức cũng vào ngục thăm ông một vài lần.

Sau bảy tháng ông Gẫm bị giam, bản án được vua Thiệu Trị châu phê, nhưng vì trùng vào dịp cuối năm, vua ra lệnh dời qua tết mới thi hành. Sau tết, một vài viên quan ở trấn Gia Định có cảm tình với người thương gia hiền lành, viện cớ chính vị giám mục cũng không bị xử tử, làm đơn xin vua giảm án của ông Gẫm thành án lưu đày chung thân. Nhưng tháng 03.1847, khi quân đội triều đình giao tranh và thua quân Pháp ở Đà Nẵng, nhà vua quyết định không ân xá gì nữa.

Ngày 11.05.1847, ông Lê Văn Gẫm được đưa đến pháp trường "Da Còm", tên một cây đa tróc gốc cằn cỗi ở đó (nay là xứ Chợ Đũi, khi đó còn thuộc xứ Chợ Quán), các vị tín hữu và lương dân hiện diện rất đông. Ba người em của vị anh hùng đức tin, là Tôma Trọng, Phaolô Bằng và Anrê Nguyện, cũng có mặt trong cuộc xử anh mình. Ông đội Bằng và ông Trùm Phước phải xô đẩy đám đông để đưa cha Thán đến gần giải tội lần cuối cùng cho anh mình. Ông đội cũng tặng đao phủ ba quan tiền đề anh ta chém thật gọn, giúp anh mình đỡ đau đớn.

Thế nhưng nghe tiếng chiêng trống, và thấy thái độ thương tiếc của nhiều người tham dự, viên đao phủ không giữ được bình tĩnh phải chém đến ba nhát, đầu vị tử đạo đạo mới lìa khỏi cổ. Các người en vị tử đạo và các tín hữu ùa vào, ráp đầu vị chứng nhân với thân mình, khâu lại, thay áo trắng, lấy khăn xanh quấn quanh cổ ngài, rồi đặt lên võng khiêng về an táng tại họ Chợ Quán.

Năm 1870, bà nhiệm, thân mẫu vị tử đạo thuật lại ở tòa điều tra phong thánh rằng : "Hai vợ chồng chúng tôi nghe con chết thì chẳng còn thảm thiết gì, một vui lòng mà rằng : chết vậy đặng làm thánh".

Ngày 27.05.1900, Đức Lêo XIII suy tôn ông Matthêu Lê Văn Gẫm lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Nguồn từ thư viện Đa Minh

Lời bất hủ: Khi thánh Gẫm bị mang gông xiềng xích nặng nề ngài bình tĩnh vui vẻ nói: "Tôi có ăn trộm, ăn cướp gì đâu mà sợ, mà buồn. Ðược chết vì đạo là điều tốt lắm". Thân mẫu của thánh Gẫm là cụ Nhiệm thuật lại trước toà phong thánh rằng: "Hai vợ chồng chúng tôi nghe con chết thì chẳng có thảm thiết gì, một vui lòng mà rằng: chết vậy đặng làm thánh".

Tác giả: