Lễ Thánh Tâm Chúa - Hai Thánh Phêrô – Phaolô Tông Đồ
- T7, 28/06/2025 - 07:15
- Jorathe Nắng Tím
LỄ THÁNH TÂM CHÚA
Suy Niệm Tin Mừng, Năm C
TMĐP- Lễ Thánh Tâm Chúa, chúng ta tìm về Thiên Chúa là Tình Yêu để xác tín: chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể yêu ta vô cùng và đến cùng.
Trái tim là biểu tượng của những gì cao đẹp, dễ thương và gần gũi nhất của con người. Người ta dễ dàng vẽ trái tim để thay lời yêu thương, nhanh chóng tạo hình trái tim để bày tỏ tình nghĩa thân thương, dạt dào. Từ em bé chập chững tập đi đến cụ già ở cây số cuối cùng của đường đời, tất cả đều hiểu trái tim có khả năng thay lời yêu muốn nói, có sức mạnh thay đổi cuộc đời và ai nấy đều trân quý trái tim của người khác, và cẩn thận gìn giữ trái tim của mình.
Sở dĩ ta trân quý trái tim của người khác, vì biết ai vẽ quả tim của họ trên cuộc đời ta, ai tạo hình trái tim của họ trong tâm hồn ta, ai đặt trái tim của họ trên hay dưới trái tim ta, người ấy đích thực là người đang thương ta rất nhiều, đang yêu ta nồng nàn, đắm đuối. Đồng thời, ta cũng cố giữ tim mình thật xinh đẹp, thật tươi thắm, ngọt ngào để khi ta trồng cây tình yêu trong tim ai, gieo hạt hạnh phúc trên phần đất của cuộc đời nào, thì cây ấy, hạt ấy chắc chắn sẽ cho vô số hoa thơm trái ngọt, vô vàn hy vọng và niềm vui.
Quả thực, không có tim, thân xác con người không thể sống, cũng như thiếu “yêu và được yêu”, đời sống con người sẽ nhạt nhẽo, vô vị, bởi lẽ sống của con người là tình yêu, cơ năng làm cho thân xác con người sinh động là nhịp đập của trái tim.
Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa đã đến trong thế gian từ trái tim của Chúa Cha, do tình yêu của Chúa Cha như thánh Gioan đã viết: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Là Con Thiên Chúa vào đời làm người, Đức Giêsu đã mang trái tim tràn đầy tình yêu và hay chạnh lòng thương xót của Chúa Cha, và vì là Dung Mạo đích thực của Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4,8), nên Ngài chỉ biết yêu thương vô cùng và đến cùng (Ga 13,1).
Yêu vô cùng nên tình yêu của Ngài dành cho người tội lỗi là tình yêu vô điều kiện như trên Thánh Giá, Ngài đã bày tỏ tình thương cho hết mọi người và tha thứ cho hết mọi người đã nhục mạ, nguyền rủa, lên án, hành hình, đóng đinh mình. Yêu đến cùng nên không niềm hy vọng của bất cứ tội nhân nào, dù tội lỗi nặng nề, nghiêm trọng đến đâu đã phải thất vọng, vì chỉ cần một ánh mắt liếc vội nhìn Ngài thôi, chỉ một đụng chạm rất nhẹ và kín đáo vào gấu áo Ngài thôi cũng đã đủ để được Ngài tha thứ, chữa lành, ban bình an.
Ở thời đại thực dụng và tiêu thụ hôm nay, người ta giảm sút nhanh và nhiều khả năng nhận ra mình được yêu, và dễ quên nhu cầu yêu đối tượng ở ngoài mình , nhưng lại rất bén nhạy với tham vọng sở hữu,thống trị người khác, thu gom, chiếm đoạt, bốc hốt của cải, lợi nhuận cho bản thân mình. Khái niệm tình yêu đã bị đánh tráo, ý nghĩa tình yêu đã giả mạo, bóp méo, và giá trị tình yêu đã bị hoàn toàn thay da đổi thịt.
Mừng lễ Thánh Tâm Chúa, chúng ta tìm về Thiên Chúa là Tình Yêu để xác tín: chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể yêu ta vô cùng và đến cùng, vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng trong lòng thương xót; chỉ một mình Đức Giêsu mới có thể chết vì chúng ta, chịu đóng đinh để cứu độ chúng ta, và đổ máu để làm cho chúng ta nên tinh tuyền, trong sạch; chỉ có Chúa Thánh Thần là Tình Yêu của Chúa Cha và Chúa Con mới ban lại cho chúng ta một trái tim mới bằng thịt để yêu thương và tha thứ, thay cho quả tim bằng đá vô cảm, gian ác, hận thù, bạo lực.
Lạy Thánh Tâm Chúa hằng thương xót người có tội, xin thương xót con là tội nhân đang chạy đến bên lòng thương xót Chúa.
Jorathe Nắng Tím
++++++++++++
TRỞ NÊN GIỐNG HAI THÁNH TÔNG ĐỒ PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ
Lễ Kính Hai Thánh Phêrô – Phaolô Tông Đồ, năm C
TMĐP- Vì cùng là những người lữ hành trên hành trình đức tin, nên chúng ta giống hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô ở nhiều điểm:
Chúng ta giống Tông Đồ Phêrô ở tính tự tin và cậy vào sức riêng mình thái quá, như khi ông “liều mạng” quả quyết trước mặt Đức Giêsu và anh em Tông Đồ: “Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã”, “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy”, nhưng cũng trong đêm ấy, khi gà chưa kịp gáy, thì Phêrô đã chối Thầy ba lần (x. Mt 26,30-35), hoặc giống Phaolô, Tông Đồ Dân Ngoại, một người tài giỏi nhưng luôn tự mãn với khả năng phân định của mình đã trở nên cuồng tín khi quyết tâm tiêu diệt những người theo Đạo, “bất luận đàn ông hay đàn bà”, ông đều “bắt trói giải về Giêrusalem” (Cv 9,2) cho đến một ngày “đang trên đường đến gần Đamát, thì bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với ông: Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta?”(Cv 9,3-4).
Như hai thánh Tông Đồ, sau những lần yếu đuối, gục ngã trên đường đức tin, Đức Giêsu luôn có mặt để âu yếm nhìn và ban cho chúng ta niềm hy vọng vào Ngài là Thiên Chúa của lòng thương xót, như Chúa đã quay lại nhìn Phêrô khi ông vừa dứt lời chối “không biết Đức Giêsu là ai” để ông đừng ngã lòng trông cậy, nhưng can đảm đứng dậy và bắt đầu lại; hay như Chúa đã nói với Phaolô: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ.” (Cv 9,5), và chỉ cho ông con đường Chúa muốn ông đi làm Tông Đồ cho Dân Ngoại.
Chúng ta không ngừng đổi thay trong tương quan với Đức Giêsu, như Phêrô nóng nảy, bồng bột, vừa mới tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” và được Đức Giêsu khen “là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16,16-17) đã kịch liệt ngăn cản Thầy đừng lên Giêrusalem chịu khổ hình đến nỗi Đức Giêsu phải nặng lời với ông: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,23).
Chúng ta cũng cuồng tín và dùng bạo lực để bảo bệ đức tin “pháo đài, ốc đảo” của mình như Phaolô đã “tán thành việc giết ông Têphanô”, phá hoại Hội Thánh còn non trẻ của Đức Giêsu, và dữ dội truy lùng người Kitô hữu: “Ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục” (Cv 8,3).
Tóm lại, chúng ta có nhiều điểm giống hai Tông Đồ Phêrô và Phaolô, vì cùng chung thân phận tội luỵ, cùng chung tình cảnh yếu đuối, cùng chung nhu cầu được Chúa xót thương, vì đã cùng chung phản bội, cùng chung chối Chúa, cùng chung bôi bác, phá hoại Giáo Hội.
Nhưng có một điểm chung nền tảng, và cốt yếu giữa hai thánh Tông Đồ và mỗi người chúng ta, đó là tất cả đều được Đức Giêsu kêu gọi và yêu thương đến cùng.
Được kêu gọi theo Thầy cho đến chết như Phêrô chịu đóng đinh ngược, và như Phaolô bị chém đầu; được kêu gọi đi theo Đức Giêsu đến bất cứ nơi nào, đến với bất cứ ai, bất kể chủng tộc, ngôn ngữ, thành phần, trình độ nào để làm chứng Đức Kitô đã chết và sống lại là Đấng Cứu Độ của toàn thể nhân loại.
Được yêu thương đến cùng như Phêrô, dù chối bỏ Thầy, nhưng Thầy không hề trách mắng, ruồng bỏ. Trái lại, Thầy vẫn một lòng yêu thương, tín nhiệm khi trao phó đoàn chiên của Thầy cho ông chăn dắt. Được yêu thương như Phaolô, dù là kẻ săn lùng, phá hoại, tiêu diệt Dân Chúa, nhưng vẫn được chọn làm Tông Đồ giữa các dân ngoại.
Ước gì mỗi người chúng ta cũng trở nên giống hai thánh Tông Đồ Phêrô, Phaolô là rường cột của Giáo Hội trong tình yêu hiệp nhất với Đức Giêsu: Yêu như Phêrô đã yêu Thầy mình bằng một tình yêu đơn sơ, nồng nàn và bắt chước Phêrô thân thưa với Chúa: “Lậy Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,17); nên một với Đức Kitô chịu đóng đinh như Phaolô bằng khao khát và thâm tín như ngài: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, nhưng là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Jorathe Nắng Tím