Nhảy đến nội dung

Linh hồn hiến tế

LINH HỒN HIẾN TẾ

Lm. JBT Phạm Quốc Hưng, CSsR.

Bí quyết sự thánh thiện

Món quà quý nhất Chúa Giêsu tặng tôi dịp kỷ niệm 10 năm linh mục là Lời Chúa trong Phúc Âm của Thánh Lễ chính hôm ấy, ngày 28/05/2004, Thứ Sáu sau Chúa Nhật VII Phục sinh. Đó là trình thuật về việc Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ ở ven biển Tibêria. Sau khi cho các ông ăn sáng, Chúa đã hỏi Thánh Phêrô ba lần “Con có yêu mến Thày không?” để ông có dịp nói ba lần lời yêu với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa” (Jn 21:15-19). Đây cũng chính là đoạn Phúc Âm tôi đã chọn làm căn bản cho đời linh mục của mình trong dịp cấm phòng chuẩn bị chịu chức.

Tôi vui mừng khi cảm nhận sâu xa hơn ý nghĩa của đoạn Phúc Âm trên khi đọc được bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh Lễ Chúa Nhật Thứ Ba Phục Sinh ngày 25/4/2004, khi ngài tôn phong Chân Phước cho 6 vị: linh mục Augusto Czartoryski; bốn nữ tu: Laura Montoya, Guadalupe García Zavala, Nemesia Valle, Eusebia Palomino Yenes; và nữ giáo dân Alexandrina Maria da Costa.

Trong dịp này, Đức Thánh Cha đã tuyên bố: “Tình yêu dành cho Chúa Kitô là bí quyết sự thánh thiện”. Thật vậy, như Thánh Phêrô và tất cả các thánh qua mọi thời đại, cả 6 Tân Chân Phước đều đạt đến sự thánh thiện bằng tình yêu nồng nàn đích thực dành cho Chúa Giêsu. Nhưng tấm gương đánh động tôi hơn cả là gương của Chân Phước Alexandrina Maria da Costa (1904- 1955).

Chân Phước Alexandrina Maria da Costa sinh ngày 30/03/1904 tại Balasar, Bồ Đào Nha. Ngài đã được lãnh nhận một nền giáo dục Kitô lành mạnh từ mẹ ngài và người chị là Deolinda. Bản tính lịch duyệt và linh hoạt của ngài khiến mọi người yêu thích. Sức khỏe thể lý và khả năng chịu đựng khác thường của ngài giúp ngài có thể làm những việc đồng áng nặng nhọc lâu giờ để gia tăng lợi tức cho gia đình.

Khi lên 12 tuổi, Alexandrina bị đau gần chết vì bệnh nhiễm trùng. Những hậu quả của cơn bệnh này sẽ tiếp tục khi ngài lớn lên và trở thành “dấu chỉ đầu tiên” của điều Chúa xin nơi ngài: chịu đau khổ như một “linh hồn hiến tế” (victim soul).

Những hậu quả của tội

Khi Alexandrina được 14 tuổi, một biến cố đã xảy ra và để lại một vết hằn mãi mãi trên ngài cả về thể lý lẫn tâm linh. Nó cho ngài một cái nhìn mặt đối mặt về sự kinh khiếp và những hậu quả của tội.

Vào Thứ Bảy Tuần Thánh năm 1918, trong khi Alexandrina, Deolinda và một cô thợ tập việc trẻ đang bận may, ba người đàn ông đã hùng hổ xông vào nhà và định hãm hiếp họ. Để gìn giữ sự trinh trong của ngài, Alexandrina đã nhảy qua cửa sổ cao bốn mét và ngã xuống đất. Ngài bị nhiều thương tích. Các bác sĩ định bệnh cho rằng điều kiện của ngài là “không thể phục hồi”. Họ báo trước sự bại liệt của ngài sẽ ngày càng tệ hơn.

Mãi cho đến năm 19 tuổi, Alexandrina vẫn có thể kéo lê mình đến nhà thờ nơi mà ngài vừa mang nạng vừa chìm đắm trong kinh nguyện trước sự ngỡ ngàng lớn lao của những giáo dân. Tuy nhiên, vì sự bại liệt và đau đớn của ngài ngày càng tệ hại, ngài đã phải nằm bất động trên giường, hoàn toàn bại liệt từ ngày 14/04/1925 cho đến khi qua đời—khoảng 30 năm.

Alexandria đã tiếp tục nài xin Đức Mẹ ban ơn lạ chữa lành cho mình và hứa là sẽ trở thành nhà truyền giáo nếu được chữa lành. Nhưng dần dần, Chúa đã giúp ngài thấy rằng đau khổ chính là ơn gọi của ngài và ơn gọi đặc biệt của ngài là trở thành “hiến tế” (victim) của Chúa. Alexandrina càng hiểu ra đây là sứ mạng của ngài, ngày càng sẵn lòng ôm ẵm nó.

Ngài nói: “Đức Mẹ đã cho tôi một ơn còn trọng hơn: trước hết là phó thác; rồi thuận phục hoàn toàn thánh ý Chúa; cuối cùng là khao khát chịu đau khổ”.

Sứ mạng chịu đau khổ với Chúa Kitô

Ước muốn chịu đau khổ đã tiếp tục gia tăng nơi ngài khiến ngài càng nhận rõ ơn gọi của ngài: ngài đã hiểu rằng ngài được kêu gọi để mở mắt cho tha nhân nhận ra những hệ quả của tội, mời gọi họ hoán cải, và dâng hiến một chứng tá sống động cho cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, góp phần vào việc cứu độ nhân loại.

Và rồi từ ngày 03/10/1938 đến ngày 24/03/1942, Alexandrina đã sống “cuộc khổ nạn” ba giờ của Chúa Kitô mỗi Thứ Sáu, nhận được ơn thần bí để sống trong thân xác và linh hồn sự đau khổ trong những giờ cuối cùng của Chúa Kitô. Trong ba giờ này, sự bại liệt của ngài được “thắng lướt”, và ngài đã được sống lại “Các Chặng Đường Thánh Giá”, những cử động và điệu bộ của ngài được kèm theo những cơn đau thể lý và tâm linh kinh hồn. Ngài cũng đã bị ma quỷ tấn công, bị xâu xé bởi những cám dỗ chống lại đức tin và phải mang nhiều thương tích trên thân thể.

Sự hiểu lầm và không tin của người ta cũng đã là một thánh giá nặng nề cho ngài, nhất là khi những người mà ngài trông mong sẽ phải trợ giúp ngài hơn cả—những thành viên và những người lãnh đạo trong Giáo Hội—lại góp phần vào cuộc đóng đinh thập tự của ngài.

Một cuộc điều tra của Hội Đồng Braga đưa đến một lá thư luân lưu được viết bởi Tổng Giám Mục bao gồm một loạt “những cấm đoán” về nố Alexandrina. Nó là kết quả của phán quyết tiêu cực được thực hiện bởi một ủy ban linh mục.

Thêm vào đó và về phương diện an ủi tâm linh, sau khi linh hướng của ngài, một linh mục Dòng Tên đã giúp ngài từ năm 1934 đến năm 1941, đã ngưng trợ giúp ngài, một linh mục Dòng Salesian, Cha Umberto Pasquale đã đến giúp ngài năm 1944.

Được nuôi dưỡng chỉ bằng Thánh Thể

Vào ngày 27/03/1942, một giai đoạn mới bắt đầu cho Alexandria và sẽ tiếp tục 13 năm 7 tháng cho đến khi ngài qua đời. Từ đây, ngài không nhận bất cứ một dưỡng chất nào khác ngoài Thánh Thể, có lúc ngài chỉ cân nặng 33 kilogram (chừng 73 pounds).

Các bác sĩ y khoa đã bị bối rối bởi hiện tượng này và bắt đầu tiến hành nhiều cuộc thử nghiệm khác nhau cho Alexandrina. Họ hành động trong một cách thức rất lạnh lùng và thù nghịch đối với ngài. Điều này đã gia tăng sự đau khổ và nhục nhã cho ngài, nhưng ngài đã nhớ những lời chính Chúa Giêsu một ngày nọ đã nói với ngài: “Con sẽ rất ít khi nhận được an ủi...Ta muốn rằng khi tâm hồn con bị chất đầy đau khổ trên đôi môi con sẽ nở nụ cười”.

Kết quả là những ai đã thăm viếng hay liên lạc với Alexandrina luôn gặp thấy một phụ nữ, dù trong sự khó chịu thể lý hiển nhiên, luôn tỏ ra vui vẻ và tươi cười, chuyển thông cho tất cả một sự bình an sâu thẳm. Ít ai đã hiểu được ngài phải đau khổ sâu xa chừng nào và buồn phiền nội tâm biết bao!

Cha Pasquale, người ở gần Alexandrina trong suốt những năm này, truyền cho người chị của Alexandrina viết nhật ký ghi lại những lời của ngài và những kinh nghiệm thần bí của ngài.

Năm 1944, Alexandrina đã trở thành một hội viên của “Hiệp Hội Trợ Tá Salesian” và hiến dâng đau khổ của ngài cho phần rỗi các linh hồn và cho sự thánh hóa giới trẻ. Ngài đã giữ sự quan tâm linh hoạt đối với người nghèo và sức khỏe tâm linh của những ai tìm sự khuyên bảo của ngài.

“Đừng xúc phạm đến Chúa Giêsu nữa!”

Như một “chứng từ” cho sứ mạng mà Thiên Chúa đã kêu gọi ngài, Alexandrina ước muốn ghi khắc trên bia mộ của ngài những lời sau: “Hỡi các tội nhân, nếu tro bụi của thân xác tôi có thể giúp cho linh hồn các bạn, hãy đến gần, bước lên nó, đá văng nó cho đến khi nó biến mất. Nhưng đừng phạm tội nữa: đừng xúc phạm đến Chúa Giêsu nữa! Hỡi các tội nhân, tôi muốn nói với các bạn thật nhiều...Đừng liều mất Chúa Giêsu đời đời, vì Ngài quá tốt lành. Tội đủ rồi! Hãy yêu mến Chúa Giêsu, hãy yêu mến Ngài.”

Alexandria qua đời ngày 13/10/1955. Những lời cuối của ngài là: “Tôi hạnh phúc vì tôi đang lên Thiên Đàng.”

Trong bài giảng của Thánh Lễ phong Chân Phước cho Alexandrina, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã tóm gọn tinh thần tu đức của Vị Tân Chân Phước trong những lời sau:

Một linh hồn hiến tế, tình yêu dành cho các tội nhân

“ ‘Con có yêu mến Ta không?’ Chúa Giêsu hỏi Simon Phêrô, người trả lời: ‘Vâng, lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa.’ Đời sống của Chân Phước Alexandrian Maria da Costa có thể được tóm lại trong cuộc đối thoại tình yêu này. Được thấm nhuần và bùng cháy với nỗi thao thức của tình yêu này, ngài đã ước ao không từ chối điều gì với Chúa Cứu Thế của ngài. Là một “hiền thê đẫm máu”, ngài đã sống lại một cách thần bí cuộc khổ nạn của Chúa Kitô và dâng mình làm một hiến tế cho các tội nhân, đón nhận sức mạnh từ Thánh Thể là nguồn dinh dưỡng duy nhất của ngài trong 13 năm cuối đời ngài.

“Với tấm gương của Chân Phước Alexandrina, được diễn tả trong bộ ba ‘đau khổ, yêu mến, đền tạ’, các Kitô hữu có thể khám phá ra sự kích thích và động cơ để ‘cao thượng hóa’ tất cả những gì đau thương và buồn thảm trong cuộc đời qua chứng từ yêu thương cao cả nhất: hy sinh mạng sống vì người yêu.

Bí quyết sự thánh thiện: tình yêu dành cho Chúa Giêsu

‘Vâng, lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa’ (Jn 21:15). Như Phêrô, như các Tông Đồ ở ven biển Tibêria, các Tân Chân Phước này cũng đã làm một bản tuyên xưng đức tin và lòng mến đơn giản của họ, sống nó đến cực độ. Tình yêu dành cho Chúa Giêsu là bí quyết sự thánh thiện!

“Anh chị em thân mến, chúng ta hãy bước theo gương của những Chân Phước này, dâng hiến như các ngài một chứng tá nhất quán của đức tin và lòng mến trong sự hiện diện linh hoạt và hoạt động của Đấng Phục Sinh” (Tuần Báo L’Osservatore Romano April 28, 2004).

Hạnh tích Chân Phước Alexandrina đã trở thành một minh họa thiết thực cho lời sách Gương Chúa Giêsu tôi đang suy niệm trong tuần này: “Được chịu đau khổ và nhục nhã ở đời vì lòng mến Chúa, chịu bao nhiêu lần và bởi bất cứ ai mặc ý Chúa muốn: đó là một hồng ân Chúa dành riêng cho những bạn thiết yêu của Chúa. Không gì xảy đến trên đời mà không do thánh ý và chương trình Chúa xe định và không có một lý do đích đáng” (Q. III, Ch. #49).

Sứ mạng trở nên linh hồn hiến tế chịu đau khổ kinh hồn để chỉ có mọi người thấy hậu quả ghê tởm kinh hồn của tội lỗi, để họ đừng xúc phạm đến Chúa nữa và ăn năn hối cải trở về cùng Chúa của Chân Phước Alexandrina, khiến tôi chợt nhớ rằng đó cũng chính là sứ mạng của chúng tôi, những sĩ tử của Cha Thánh Anphong và Dòng Chúa Cứu Thế, những người được mời gọi trở nên những “tông đồ của sự hối cải”. Chính chúng tôi phải là những người phải thực sự hối cải trước hết, và hoa trái đích thực trong sứ mạng tông đồ của chúng tôi phải là ơn hối cải đích thực nơi Dân Chúa.

Điều này được nhận thấy trong Kinh Thánh Anphong mà tôi thường đọc mỗi ngày trước Thánh Thể. Trong đó, ơn đầu tiên tôi xin Cha Thánh cầu cùng Chúa và Đức Mẹ ban cho mình chính là ơn “thực lòng thống hối”:

“Lạy Thánh Anphong là quan thày rất vinh hiển và yêu dấu của con. Cha đã lao nhọc và đau khổ biết bao, để bảo đảm hoa trái ơn cứu độ cho nhân loại. Xin Cha đoái nhìn đến sự khốn khổ của linh hồn con và thương xót con cùng. Nhờ sự chuyển cầu mạnh thế của Cha với Chúa Giêsu và Mẹ Maria, xin cho con được thực lòng thống hối vì tội lỗi con, cùng với ơn tha thứ và xá giải, một lòng ghét tội thẳm sâu và sức mạnh ngày càng gia tăng để chống trả mọi cám dỗ.

“Con nguyện xin Cha chia cho con ít là một tàn lửa của tình yêu đã hằng thiêu đốt tim Cha. Xin cho con biết noi gương Cha đặt Thánh Ý Chúa làm luật sống duy nhất của đời con. Xin Cha cũng cho con một tình yêu nồng nhiệt và bền bỉ dành cho Chúa Giêsu, một lòng sùng kính dịu dàng thơ bé dành cho Mẹ Maria, cùng với ơn biết cầu nguyện không ngừng và bền đỗ trong việc phụng sự Chúa cho đến cuối đời con, để cuối cùng con được sum họp với Cha ngợi khen Chúa và Đức Mẹ đời đời. Amen.”

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy con học biết yêu mến Chúa Giêsu một cách đích thực noi gương Chân Phước Alexandrina Maria da Costa. Xin cho con được ơn biết phó thác trọn vẹn cho Lòng Thương Xót Chúa, hoàn toàn thuận phục thánh ý Chúa và khao khát chịu đau khổ vì lòng yêu mến Chúa. Xin cho con biết trở nên một sĩ tử đích thực của Cha Thánh Anphong và Dòng Chúa Cứu Thế, là “tông đồ của sự trở lại”, và biết sống như một linh mục đúng như lòng Chúa mong muốn, nghĩa là vừa là tư tế vừa là hiến tế!

(Lễ Thánh Maria Mađalêna 22/07/2004)

PS: “Tình huynh đệ đích thực, tình máu mủ thắm thiết, tình yêu thương chân thành cốt ở điều này là thông truyền cho nhau những kho báu thiêng liêng” (Thánh Gioan Kim Khẩu). Bài viết này đã được đăng trên Nguyệt San Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở mục “Trong Dòng Đời” trong số tháng 8 năm 2004. Nay xin gửi đến chia sẻ với quý độc giả Thanhlinh.net. HP (April 23rd , 2021).