Nhảy đến nội dung

Lời Chúa và suy niệm Chủ Nhật 30 TN

LỜI CHÚA (Mc 10, 46-52) VÀ SUY NIỆM CHÚA NHẬT 30 TNB2024

Lời Chúa, Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mac-cô (Mc 10, 46-52): “…Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ và một đám đông, thì con ông Timê tên là Bartimê, một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường, khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: “Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi”. Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: “Hỡi con vua Ðavít, xin thương xót tôi”. Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh”. Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: “Anh muốn Ta làm gì cho anh?” Người mù thưa: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”. Chúa Giêsu đáp: “Ðược, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người…”

Suy Niệm Lời Chúa:

+/ Thiền gia tên là Unađa kể về những anh khiếm thị đi sờ voi và đoán xem con voi nó như thế nào. Anh rờ trúng ngay cái đầu thì bảo con voi giống như cái nồi. Anh rờ trúng cái đuôi thì bảo nó giống như cái chổi. Anh trúng cái tai thì bảo voi như cái quạt.

- Qua câu chuyện này tác giả muốn nói rằng khiếm thị là không có khả năng nhìn thấy và không có khả năng nhận diện sự thật toàn diện về một đối tượng nào đó mà chỉ thấy được một khía cạnh của đối tượng.

+/ Từ thế kỷ 19, những người mù đã được học hành như người sáng mắt. Có những người mù đậu tiến sĩ, giáo sư, như bà Killer, ông Braille. Ông Braille đã bị mù từ lúc lên ba tuổi. Lúc đầu ông được học nhạc ở học viện và đánh đàn tại nhiều nhà thờ. Ông đã trở thành giáo sư và chính ông đã sáng chế ra hệ thống chữ nổi cho người mù học. Nhờ đó, ông đã cứu giúp được bao nhiêu thế hệ mù khỏi mù chữ. Ông đáng được tôn vinh là ông tổ ân nhân của thế giới mù. Tuy nhiên, ông đã không thể cứu họ khỏi mù mắt. Họ vẫn phải sống trong tối tăm.

+/ Trước khi gặp anh mù, Chúa đã loan báo cuộc thương khó lần thứ ba. Sau khi “Nhìn thấy được”, anh mù đã theo Chúa trên con đường của Người. Chúng ta cùng dừng lại một chút để khám phá hành trình bước đi niềm tin của anh mù hôm nay.

- Trong hoàn cảnh của kiếp mù lòa, anh Báctimê ngồi ở vệ đường. Tư thế Ngồi cho chúng ta thấy một trạng thái tĩnh và thụ động. Trong Kinh Thánh, ngồi là lúc người ta học hỏi, thụ huấn, suy tư và chiêm niệm. Anh mù ngồi ở vệ đường có thể là đánh động lòng trắc ẩn của bá tánh. Nhưng anh ngồi đó cũng là để suy nghĩ về những gì đang xảy đến chung quanh cuộc sống của những kẻ bất hạnh như anh, liên quan đến một nhân vật có tên gọi Giêsu.

- Một điều đặc biệt, Giêrikhô là vùng đất dân ngoại, vậy tại sao anh mù lại biết Đức Giêsu là Con Vua Đavít, một danh xưng mà chỉ những người dân Do thái thuộc Kinh Thánh mới biết? Bởi đó, việc anh ngồi bên vệ đường không chỉ đơn thuần là ăn mày lòng thương xót của người sáng mắt, mà đó còn là những ngày tháng anh tìm hiểu và đem niềm tin đặt vào Đức Giêsu, Đấng anh chưa nhìn thấy nhưng đã tin.

- Vì thế thánh sử Mác-cô tường thuật: Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nazarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: Lạy ông Giêsu, Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi. Niềm tin vào Đức Giêsu trong anh đã được thai nghén và cưu mang theo dòng thời gian. Niềm tin ấy sẽ được diễn tả bằng việc: Càng la to hơn, tung áo choàng, đứng phắt dậy. Những hành động dứt khoát và cương quyết phát xuất từ một niềm tin mãnh liệt.

1. Kêu to hơn. Mỗi loài có một thứ ngôn ngữ. Ngôn ngữ đó là tiếng kêu của chúng. Tiếng kêu giúp chúng nhận ra đồng loại. Con chim kêu gọi bầy. Con sói hú gọi nhau. Tiếng gà gáy để thị uy một góc sân vườn. Tiếng kêu cũng giúp chúng nhận ra hoàn cảnh hiện tại của nhau. Khi nghe được tiếng kêu, tùy theo âm thanh, những con vật cùng chủng loại sẽ kéo đến tiếp cứu hoặc biết mình có đồng loại đang ở gần.

- Hôm nay, tiếng kêu của anh mù không đánh động được lòng thương xót của người đồng loại. Tiếng kêu của anh khiến họ khó chịu và bực mình. “Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi.” Tiếng kêu của anh không gợi lên trong những người đồng loại một chút xót xa. Tai họ nghe thấy, nhưng đôi mắt tâm hồn họ khép chặt. Dường như họ không muốn nhìn và nghe thấy tiếng kêu của anh.

- Trong nhãn giới của họ, bất hạnh của anh là hệ quả do tội lỗi, không của anh thì cũng bởi những người đã sinh thành ra anh: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Khi quát nạt và ngăn anh

kêu, những người đồng loại gián tiếp nói với anh rằng: Lẽ ra mày không nên có mặt trên đời. Mày là đồ chúc dữ. Mày là gánh nặng của cuộc đời. Người ta muốn phủi tay trước nỗi thống khổ của người anh em. Tuy nhiên, anh mù không chấp nhận đầu hàng số phận, Nhưng anh càng kêu lớn tiếng hơn: Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Anh kêu to vì anh biết trong đoàn hành hương có Đấng mà anh chờ đợi. Anh kêu to vì anh hy vọng vào cơ may này trong đời mình. Anh kêu to cho thấy những dự cảm của anh về Đấng mà anh mong chờ hoàn toàn chính xác. Anh kêu to cũng là để diễn tả niềm tin mãnh liệt của anh vào Đức Giêsu, con vua Đavít. Anh cũng tin vào lòng thương xót của Chúa mà anh đã nghe truyền tụng.

- Điều này khẳng định với chúng ta về niềm tin của anh đã được nung nấu theo thời gian, không phải chỉ lúc ngồi bên vệ đường, nhưng từ khi anh có trí khôn. Vâng, niềm tin của anh không làm anh thất vọng, vì Chúa đã gọi anh.

2. Vứt áo choàng. Hành động đầu tiên thể hiện niềm tin của mình là thoát khỏi chiếc áo choàng. Chiếc áo choàng là cơ nghiệp duy nhất của anh. Chiếc áo ấy là tài sản gắn liền với đời sống tự nhiên của anh. Chiếc áo là căn nhà che nắng, che nóng ở vùng đất khô cháy da người. Áo choàng cũng là cái chăn cho anh hơi ấm duy nhất còn lại trong cuộc sống khi màn đêm buống xuống. Áo choàng cũng có thể là chiếc áo quan, bọc xác khâm liệm đời anh! Chiếc áo choàng là tài sản duy nhất của thân phận một người hành khất mù lòa. Tung chiếc áo choàng là chấp nhận đánh rơi tất cả tài sản đời anh. Tung chiếc áo choàng là chấp nhận giã từ tất cả dĩ vãng, dù chưa biết tương lai mình ra sao.

- Tung chiếc áo choàng, anh chấp nhận giũ bỏ mọi ràng buộc của cuộc đời. Tung chiếc áo choàng là chấp nhận phó mặc đời mình theo tiếng gọi. Hành động của anh đẹp cả hình thức bên

ngoài lẫn nội dung niềm tin bên trong. Anh chấp nhận thoát khỏi cái kén tối tăm để trở thành cánh bướm bay tới vùng ánh sáng mới. Điều này được thể hiện qua việc đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu.

3. Đứng phắt dậy. Đây là một hành động dứt khoát, không trì trệ, không chút do dự, tiếc xót. Đứng phắt dậy như một cú bật của lò xo. Điều này diễn tả một nội lực bên trong rất mạnh. Đứng phắt dậy là không nấn ná thêm chút nào nữa. Mấy chục năm làm người, những buồn tủi đè nặng trên thân phận! Miếng cơm, manh áo và tương lai cuộc sống như bóng ma vô hình cứ xiết lấy tâm hồn anh; phân mù lòa tù túng như cảnh chim lồng cá chậu vây hãm anh; tiếng xì xầm, lời ong tiếng ve tủi nhục ngày nào cũng phải nghe. Tất cả như những tảng đá vô hình muốn đè bẹp niềm tin bé nhỏ của anh.

- Đứng phắt dậy là cú đập cánh của niềm tin để bay vào bầu trời của tự do; là cái quẫy đuôi của kình ngư thoát ra khỏi vũng bùn nhơ nhớp, chật chội để xuôi về biển lớn. Và bước nhảy của anh là hành động đáp trả sau cùng. Anh không dò dẫm nữa mà anh nhảy. Đây là hành động rất đơn sơ, nhưng diễn tả một sự tự do nhẹ nhàng. Nhảy là lao mình về phía trước.

- Cặp mắt thể lý của anh mù lòa đi lại cũng đầy khó khăn huống hồ là băng mình về phía trước. Anh mù không nhảy tới mục tiêu phía trước bằng ánh sáng tự nhiên, nhưng bằng tất cả niềm xác tín của niềm tin. Anh để đời mình rơi cách tự do vào vòng tay quan phòng và lòng thương xót của Chúa. Anh tin là phía trước Đức Giêsu đã chờ và đón anh.

- Để kết thúc ta thấy đức Giê-su đến ứng nghiệm lời tiên báo của ngôn sứ Giêrêmia rằng là Chúa thương xót dẫn dắt và quy tụ những người bé mọn mù lòa: Ta sẽ dẫn dắt chúng từ đất bắc trở về, sẽ tụ họp chúng lại từ bờ cõi trái đất: trong bọn chúng sẽ có kẻ đui mù, què quặt, mang thai và sinh con đi chung với nhau, hợp thành một cộng đoàn thật đông quy tụ về đây. Amen

Linh Mục G.B Nguyễn Ngọc Nga