Mẹ
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Nam Hoa
Còn chính bà,
thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà
ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra
( Lc 2, 35)
Mẹ
‘Trời Thu xanh ngắt mấy từng cao’, bài Đường thi từ bao thế kỷ trước của thi hào Việt vẫn lay động lòng người nghe hôm nay khi ngước nhìn bầu trời như xanh hơn, cao hơn đầy gió lộng của buỗi chiều đầu Thu. Thưở nhỏ, vào Thu đối với tôi là những ngày đầu năm học mới, khép nép đến trường trong tay mẹ mà lòng chẳng vui, hết rồi những ngày hè tha hồ đùa giỡn. Mùa Thu miền Nam nướcViệt không có lá vàng vì ngày nào nắng cũng chói chang, trời vẫn trong, vẫn xanh màu gió. Nên mùa Thu chỉ còn phân biệt bằng ngày tựu trường mà Thanh Tịnh đã viết những đoạn văn thật nhẹ nhàng về cậu học trò bé e ấp theo mẹ vào trường mới.
Hình ảnh Mẹ, mùa Thu và bầu trời như gắn liền trong ký ức tôi nên khi mất Mẹ, tôi thấm thía lắm với câu “ như mất cả bầu trời ”. Chiều nay, nghĩa trang đìu hiu trải lá vàng dưới gót, đón những bước chân chầm chậm về thăm Mẹ, không phải nhà mà nấm bia mộ là nơi ghi dấu. Mẹ tôi, mẫu người phụ nữ Việt Nam quán xuyến trong ngoài, giỏi nghề buôn mà cũng giỏi tài bếp núc. Chị em tôi vô tư, hồn nhiên sống trong sự chăm lo của mẹ, ngay khi đã vào tuỗi lớn. Tại gia tòng mẫu hình như là mẫu số chung của hầu hết các gia đình Việt Nam trong thời chinh chiến, cha đi đánh giặc, mẹ ở nhà tần tảo nuôi con. Người phụ nữ Việt từ ngàn xưa được gọi là nội tướng, đây không nối quyền lợi mà chỉ phân công "nam ngoại nữ nội", hàm nghĩa bà là chủ nhà gọi là "nội tướng", chính bà giữ của ( Kim Định, Địa vị người phụ nữ trong Việt Nho). Của chồng, công vợ, đề huề khác với Hán Nho xem vợ là nội trợ, chồng chúa vợ tôi.(sđd)
Quan niệm xem phụ nữ ngang hàng với nam giới trong xã hội Việt Nam thái cổ bắt đầu từ triết lý Âm Dương, với nguyên Nho vốn coi âm dương quan trọng như nhau.(sđd) Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà ( St 2, 22). Hai quan niệm xem có khác nhau chút, nhưng tựu chung vẫn là hình ảnh người đàn bà được đặt ngang bằng với đàn ông. Bên ta tuy có thói trọng nam khinh nữ nhưng đó không phải do Việt Nho mà do Hán Nho, và dầu sao cũng không có những tục lệ quá khinh nữ kiểu Do Thái sinh con gái không thắp nến, mẹ phải tẩy rửa hai lần; hay đàn bà không được trang điểm son phấn, không được đeo ngọc ngà và phải đội mủ để tỏ dấu suy phục. Lại còn những tục lệ và cả luật pháp coi đàn bà như nô lệ, kể cả luật Manu bên Ấn độ đã có lúc ca ngợi người mẹ hết cỡ, nhưng nói chung vẫn khinh dể đàn bà, coi là vật hèn bị kìm kẹp trong bậc nô lệ, không cho đọc sách thánh, không được vào nhà thờ vv...Luật Leviticus ví đàn bà với những con vật của đàn ông nuôi để mang vác đồ nặng (Leviticus likens her to the beasts of burden owned by the patriarch). Luật Solon (Hi lạp) không dành cho phu nữ quyền hành nào hết. Luật Roma đặt đàn bà dưới quyền người quản thúc, vì cho là ngu đần. Luật Coran coi đàn bà đẫy khinh rẻ (second sex. p.90). Có những tảc gỉa tây phương cổ thời gọi đàn bà là cống rãnh đô thành" hoặc" trong những con thú vật thì không giống nào đáng hổ ngươi bằng đàn bà (second sex p. 110 ). Còn vô số câu nói và luật lệ khinh rẻ và hạ nhục đàn bà khiến ngày nay khi đọc đến ta thấy không ngờ trong những xứ văn minh đàn bà đã bị đàn áp khinh khi đến thế và lúc ấy mới nhận ra địa vị phụ nữ trong xã hội Việt Nho thực là cao cả.(sđd)
Trong một xã hội khinh miệt đàn bà, Chúa Giêsu đã làm điều ngược lại, chẳng những Người nâng đỡ tôn trọng người phụ nữ mà còn đề cao họ vượt quá giới hạn của xã hội thời đó. Người đã cho mọi người nhìn thấy một giáo lý mới mẻ, quá mới mẻ và một đường lối tuy ngược chiều nhưng đầy bao dung của tình người đôn hậu, từ việc không kết án người đàn bà ngoại tình, đến buỗi chuyện trò với người phụ nữ bị xã hội loại trừ bên bờ giếng. Người không quan sát con người từ bên ngoài để xét nét lên án họ, nhưng Người quan tâm đến những nỗi thống khổ ẩn sâu trong tâm tư của những phụ nữ kia, và của bao nhiêu người khác nữa, để an ủi, nâng đỡ và chữa lành con người. Người không để ý bằng để tâm hiểu thấu đáo tường tận con người bên trong của người khác mà mến yêu con người, thay vì xa lánh khinh khi. Người ta chưa quên câu chuyện của bà góa nghèo mà Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người, khi Người nhìn mấy đồng xu ten bà góa nghèo dâng cúng với lòng thành không ai nhìn thấy. Người chữa lành người đàn bà còng lưng trong ngày cấm kỵ sabat của nhóm biệt phái, dù Người biết rõ hành động nầy chỉ đem Người tới gần Thập Giá của bọn họ hơn. Người cho người bị dìm xuống được đứng thẳng lên, đem người bị loại trừ trở về hội nhập với làng xóm, tha thứ và bao dung với biết bao nhiêu người đáng thương hơn đáng trách dưới cái nhìn của Người, cái nhìn của bậc đại ngã tâm linh với Tâm bao la như vũ trụ bao bọc, chở che và Cứu Sống con người, theo quan niệm Đông phương.
Bên Phật Giáo, người đi tu gọi là quy y luôn luôn kèm theo thí phát, xuống tóc. Tu phục của họ là chiếc áo cà-sa, thường mặc để trần vai phải. Tu sĩ Phật Giáo rất quí chuộng tu phục, đã đi tu thì phải mặc áo thầy tu, quy y. Cà-sa đối với họ chẳng những là chiếc áo nhìn nhận giai cấp tu sĩ xa lánh hồng trần, mà còn là một biểu tượng tinh thần rất lớn nơi chiếc áo nhà tu ấy. Che vai trái nói lên người tu sĩ đã chọn chiều phù yểu Tả Nhậm, ngược chiều với thế gian bênh vực người yếu thế, đứng về phía những người kém cỏi, cùng khổ, những phụ nữ, những người bị người đời khinh khi. Xuống tóc là dấu chỉ từ bỏ những dục vọng thất tình ( thất tình lục dục) của con người, người tu sĩ đã nói cho đời những lời thầm lặng, cương quyết, ngày qua ngày trong từng bước chuyển hóa nội tâm. Tu sĩ Phật Giáo chọn con đường Xuất Thế quy y.
Bao nhiêu thế kỷ qua, nhân loại đã có, đã nghe những giáo lý đầy Nhân Ái, lý ra con người mỗi ngày phải nên tốt hơn, thiện hơn; cớ sao hình ảnh nhìn thấy được hôm nay trên thế giới là những kinh hoàng của bạo lực, của chiến tranh, xảy ra hằng ngày nơi nầy nơi khác. Người ta miệng nói hòa bình, nhưng trong thực tế đang ráo riết chuẩn bị chiến tranh, mà là thứ chiến tranh văn minh nguyên tử, hóa chất, vi trùng khốc liệt sẽ giết hại hàng triệu triệu người chỉ trong vài giờ bùng nổ. Trong thế kỷ 20, ngay tại Châu Âu nơi đã từng được mệnh danh là chiếc nôi Kitô Giáo, hai trận thế chiến đã bùng nổ, giết hại cả trăm triệu người, thiệt hại về tài sản, tinh thần vẫn còn như vết thương âm ỉ chưa lành, nhưng lại có dấu hiệu bùng phát trở lại khốc liệt hơn.
Văn minh kỷ thuật Châu Âu từ thế kỷ 19 đã chinh phục toàn thế giới, văn hóa Âu Châu trở thành nền văn hóa chủ đạo toàn cầu, tạo thành nề nếp cho tất cả các nước khác từ Âu sang Á, từ Mỹ sang Phi. Nói chung, nền văn minh Âu Mỹ trở thành mẫu mực tối cao cho sinh hoạt loài người, trở thành thứ thiên đàng hạ giới mà mọi người khát mong được sống. Làn sóng di dân ồ ạt, thảm khốc đã và đang xảy ra hôm nay hướng về Âu Mỹ vì nhiều lý do, trong đó lý do khát sống là chính yếu. Nhưng nếu nhìn kỷ vào xã hội Âu Mỹ ngày nay người ta thấy được điều gì bên trong lớp sơn vật chất dư dã, tiện lợi phủ phê nếu không phải là những hủy hoại ngấm ngầm của những đợt sóng cồn chựt dâng lên tràn ngập, làm sụp đổ căn nhà nhân loại. Lý do là vì những chương trình đó chỉ là những sự xếp đặt do đầu óc trục lợi tính toán, và chỉ biết tìm thế quân bình giữa các nhóm thế lực lấy ích lợi làm trọng tâm, mà không được đặt vào tương quan với Toàn thể là Nhân tính con người.( Kim Định, Tâm Tư )
Cách đây gần 100 năm, cuộc hiện ra sau cùng lớn lao nhứt trong lịch sử tại Fatima, Mẹ Maria đã gỡi cho nhân loại sứ điệp báo nguy về những thảm họa sẽ xảy tới nếu loài người không nhận ra những lỗi lầm để hoán cải mà sửa đổi cách sống. Những lời sứ điệp đơn sơ, ngắn gọn được lưu truyền đến tận ngày nay và lời quả quyết: Thế giới sẽ có hòa bình nếu loài người vâng nghe lời Mẹ chỉ dạy và dâng nhân loại cho Mẫu Tâm. Tại sao là Mẹ Maria mà không là Thiên Chúa, Đấng tối cao ? Có điều gì xem chừng ngược lại với tín lý vì vẫn có người không nhìn nhận vai trò của Mẹ trong chương trình Cứu Chuộc loài người.
Địa vị của Mẹ Maria được Giáo Hội Công Giáo nâng lên phẩm chức cao trọng nhất: Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa và nhiều nơi người ta tuyên xưng Mẹ là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc. Điều nầy gây ra những tranh cãi gay gắt, coi như là dị biệt chính giữa các giáo hội Kitô khả dĩ tạo nên chia rẽ khó hàn gắn, là một trong những nguyên nhân sâu xa làm cản trở hiệp nhất trong Đạo Thánh Chúa Kitô, mà người ta nói nhiều về trong thời điểm nầy. Thật ra dù danh xưng thế nào vẫn không làm thay đổi nhân cách khiêm nhường vốn có nơi Mẹ Maria: Này tôi là tôi tá Đức Chúa Trời và lời Xin Vâng muôn thưở của Mẹ. Có lẽ người ta kẹt vào danh lý, như đã từng có trong lối suy tư nhị nguyên tranh chấp bỏ một, chọn một bấy lâu nay trong thế giới Tây Phương. Nhưng nếu nhìn lại theo hàm lý Đông Phương, Mẹ Maria vẫn là Người Mẹ cao trọng nhứt mà chính Chúa Cha tuyển chọn và đặt để nơi chức vị làm Mẹ. Nguyên Lý Mẹ không phải chỉ là nguyên tắc suông, nhưng thật sự là một căn bản cần thiết ắt có trong tạo sinh mà chính Chúa Cha, Đấng Tạo Hóa, đã đặt để cho muôn loài thụ tạo trong Thiên Lý tạo dựng cao thẩm muôn trùng từ thưở đời đời. Ngài, Thiên Chúa, không muốn thay đổi Nguyên Lý đó, cho dù Ngài là Đấng Toàn Năng để mọi loài biết rằng Thiên Chúa là Đấng Chân Thật và Trung Tín. Chúa lớn lắm, quyền năng vô biên mà những hạn hẹp của con người vô tình làm mất tính vô biên nơi Thiên Chúa, đặt ngôi vị cho Thiên Chúa. Trình bày một Thiên Chúa, Thượng Đế, bị giới hạn tư bề: có bao nhiêu tha thể là có bấy nhiêu giới hạn, dưới mắt Á Đông không còn là “ Thần” nữa. “Thần vô phương”, Thần không ở nơi nào riêng biệt vì thông được với mọi vật nên không nơi nào không ở. Chính vì thể tính “ Thần” nầy mới làm nên Tự Tính của Thượng Đế, Thiên Chúa, thế nên dừng lại ở chỗ Chúa có ngôi vị là bỏ mất tính chất siêu linh đó. ( Kim Định, Để Tiến Tới Một Thần Học Việt ). Người Việt vốn rất quí trọng siêu việt tính có nơi Đấng Tạo Thành và nơi muôn loài Ngài đã tạo dựng trong sự tốt lành vô biên của Ngài, nên tín lý Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa không gì gây khó hiểu hay phải tranh cãi.
Dù với danh xưng người đời ca tụng Mẹ cao trọng đến chín tầng Trời hay, cũng người đời, chà đạp Mẹ tận cùng mặt Đất ngày Mẹ Maria đứng dưới chân Thánh Giá, ngước nhìn Con yêu dấu bị xem như tội nhân hình sự, bị đóng đinh như hàng trộm cướp giữa hai kẻ trộm, đau đớn, nhuốc nha; Mẹ vẫn là Người Phụ Nữ đẹp lòng Thiên Chúa. Để hiểu rõ ràng Đức Mẹ Ma-ri-a chịu tất cả đau khổ khi Đức Chúa Giê-su chịu chết trên thánh giá, thì cần phải suy xét tình yêu của người mẹ này đối với người Con của Mẹ.(Thánh Bernardinus). Phúc Âm không ghi rõ lại dưới chân hai thập giá kia có các bà mẹ của hai người tử tội trộm cướp cùng bị đóng đinh hai bên Chúa Giêsu không, nếu có thì người đồng cảm với Mẹ Maria phải nói không ai hơn hai bà mẹ đó lúc bấy giờ. Nhân cách Mẹ Maria chắc chắn khác hai bà mẹ kia, nhưng trước cảnh nhìn xem con mình bị giết thể ấy, tim của những người Mẹ đau đớn, tan nát như nhau. Chính nỗi đau quá lớn nầy, dưới chân Thánh Giá Chúa Giêsu, Mẹ Maria đã được gọi là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc mà chỉ có những ai đồng cảnh ngộ, cảm thông được nỗi đau khôn cùng ấy mới hiểu rõ hơn. Người ta không nhìn nhận Mẹ Maria là Đấng Đồng Công trong nỗi đau Thập Giá, có thể vì người ấy không phải là Người Mẹ, bà mẹ góa nhìn đứa con trai duy nhứt của mình rên xiết trong từng hơi thở liệm tàn, giữa muôn vàn tủi hổ của những lời nhạo báng, nguyền rủa độc ác chung quanh. Nỗi đau Thánh Giá như một lưỡi gươm đâm thâu tâm hồn bà ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra ( Lc 2, 35).
Như Chúa Giêsu, Mẹ Maria là người đã kinh qua niềm đau Thập Giá, nên giờ đây Mẹ cảm thông được với tất cả nỗi khổ đau nhục nhằn của Thập Giá nơi con cái Mẹ mà cứu giúp. Người Việt Nam gọi Người Mẹ là Người vĩ đại, bao bọc, che chở,(Mẫu, Mẹ); thương yêu, nuôi dưỡng (bu gần với bú mớm, u chỉ thân mật), cho sự sống(đẻ), và nhất là họ mang tính chất phỗ quát, to lớn, bao bọc (cái). Chính vì họ mới là hiện thân của bốn nguyên lý sinh, dưỡng, dục và lạc.( Trần Văn Đoàn, Mẫu Tính Trong Văn Hóa Việt). Nguyên Lý Mẹ đối với Việt tộc bao la hơn ý nghĩa của chữ Mẹ thông thường, Mẹ có nghĩa là Người sinh thành nên ta, nuôi nấng, dạy dỗ và đem lại niềm vui, an lạc cho đoàn con. Ngoài ra Nguyên Lý Mẹ còn mang ý nghĩa sâu xa hơn của nguyên lý Âm Dương, Theo Kim Ðịnh, chính cái nguyên lý mẹ này mới xứng đáng mang tên minh triết bởi lẽ nó có đủ khả năng "nối kết hai thái cực lại với nhau."( Trần Văn Đoàn, sđd) trong thuyết Nhất Nguyên Lưỡng Cực tương tác, biến hóa mà sinh nên muôn loài của Đông Phương. Với ý nghĩa nầy, với tâm tình nầy thì, quả thật, Mẹ Maria là Người đem lại Hòa Bình, An Lạc cho con người.
Mẹ Maria không có quyền năng, vì quyền năng thuộc về Đấng Tối Cao Toàn Năng, nhưng nơi Mẹ có quyền hạn của Thiên Chúa Toàn Năng ban cho. Ai dám giám định quyền hạn ấy giới hạn như thế nào vì đấy là điều duy nhứt chỉ có Thiên Chúa và Mẹ Maria biết rõ. Mẹ không xưng mình là Nữ Vương hay Nữ Hoàng gì cả, các tước Vương hay Hoàng là do loài người xưng tụng Mẹ. Khác với Chúa Giêsu, Ngài xưng Ngài là Vua; Mẹ chỉ xưng Mẹ là “ Đức Bà Mân Côi” và “ Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”, từng đó cũng quá đủ để với Tình Thương của Người Mẹ, Mẹ Maria tận dụng quyền hạn Chúa ban cho Mẹ mà cứu giúp con cái Mẹ, cứu giúp loài người, giải thoát loài người thoát vòng vây khốn của Kẻ đối nghịch cùng Thiên Chúa. Nếu từ 100 năm trước, loài người hiểu rõ Nguyên Lý Mẹ mà thực hành Lời Mẹ khuyên thì hôm nay có thể cục diện thế giới đã thay đổi rất nhiều. Nhưng dù quá muộn màng, người ơi đừng thất vọng vì: Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được (Lc 1, 37), hơn ai hết Mẹ Maria là Người biết rõ điều nầy.
Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy. Thân Lạy Mẹ! Chúng con con cháu Evà, ở chốn khách đày, kêu đến cùng Bà. Chúng con ở nơi khóc lóc than thở kêu khẩn Bà thương. Hỡi ôi! Bà là chủ bàu chúng con, xin ghé mắt thương xem chúng con. Đến sau khỏi đày, xin cho chúng con đặng thấy Đức Chúa Giêsu, Con lòng Bà gồm phước lạ. Ôi khoan thay! Nhân thay! Diệu thay! Thánh Maria trọn đời đồng trinh. Amen.