Mệnh Trời
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Nam Hoa
Nam Quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Lý Thường Kiệt (1019-1105)
Mệnh Trời
Cuộc binh biến tại Thổ Nhĩ Kỳ bùng nổ cuối tuần qua, cho tôi nhớ lại hình ảnh những xáo trộn liên miên xảy ra tại thủ đô Sài-Gòn, thủ phủ Miền Nam Việt Nam, từ 1963 đến 1967. Từ 1960, người ta đã thấy dấu hiệu có xáo trộn sau lần đảo chánh hụt 11 tháng 11, 1960; đến 1 tháng 11, 1963, cuộc đảo chánh gọi là cách mạng thành công, đã giết chết lãnh tụ đầu tiên, và cũng là hàng đầu của Miền Nam Việt Nam Tự Do Cộng Hòa, đưa Miền Nam vào hỗn loạn binh biến liên tiếp của cuộc nội chiến tương tàn cho đến ngày đất nước mất vào tay cộng sản tháng 4, 1975.
Những diễn tiến thời sự của những năm 1960’ đã chính thức đi vào lịch sử, ghi dấu một giai đoạn thê lương của trang Sử Việt, mà tới hôm nay người ta vẫn không dám quả quyết, hay phán quyết, một kết luận nào, chỉ có vài bậc thức giả chép miệng thở dài với tiếng ta thán: Mệnh Trời ! Khó hiểu và huyền bí (?!)
Cuối thế kỷ 11, sau cuộc bình Chiêm (1069) và chuẩn bị phạt Tống (1075-1076) để giữ toàn vẹn lãnh thổ, danh tướng lừng lẫy của Đại Việt, Việt Nam thời ấy, là Lý Thường Kiệt đã cho loan truyền bài hịch trong dân với câu thơ bất hủ:
Nam Quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Vô tình hay hữu ý, Khai Quốc Công Tướng Quân Lý Thường Kiệt đã nói cho dân biết một Thiên Mệnh, Mệnh Trời, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư của Dân Nam không do người định nhưng do Trời định, làm nức lòng tướng sĩ mang chiến thắng để ngăn chặn giặc Bắc phương lăm le hà hiếp dân ta. Từ đó, những chiến công lừng lẫy chống ngoại xâm của Việt Nam không phải một mà là ba lần đánh tan đoàn quân xâm lược Bắc phương của giặc Nguyên nỗi tiếng hung hãn, mạnh bạo và tàn ác nhất thế giới. Vào thế kỷ 13, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn điều binh chống lại những cuộc tiến quân ồ ạt của Nguyên Mông, đạo quân nỗi tiếng vô địch chinh phạt từ Âu sang Á, phải dừng gót và lui binh ra khỏi bờ cõi Việt Nam với ba lần tấn công vào những năm 1258, 1285, 1288, bị đại bại với trận thủy chiến nỗi danh trên Bạch Đằng Giang tháng 4 (âm lịch), năm Mậu Tý (1288), cho Nam Quốc sơn hà Nam đế cư.
Đọc lại Việt Sử trong thời gian dầu sôi lửa bỏng ấy, không ai phủ nhận người Việt đã quyết tâm đoàn kết một lòng chống giặc dưới sự lãnh đạo tài ba của danh tướng Trần Hưng Đạo đức độ, trung thành với vua và trung tín phụng sự tổ quốc với câu khí khái: “ Muốn hàng, xin bệ hạ cho chém đầu thần trước đã!”. Thẳng thẳn, trung tín và đức độ nêu gương cho dân, tín thác vào Mệnh Trời tận nhân lực tri Thiên Mệnh, dân ta đánh giặc với hết lòng tận sức, cùng lúc tin vào Trời, kêu xin Trời, Trời giúp. Trận Bạch Đằng gieo kinh hoàng cho giặc nhưng đối với tướng quân Trần Hưng Đạo là trận đánh “ nhàn” nhất, ngài nói thế. Hưng Đạo Vương đã nhìn thấy quan quân nhà Nguyên đang cạn kiệt vì sau ba năm cầm cự mà không thắng nỗi Việt Nam, lại nữa họ đang bị bệnh do không hạp phong thổ, bị thiên thời; họ đánh để rút chứ không đánh để tiến. Hưng Đạo Vương chận đường rút quân của họ nhờ vào thế sông sâu hiểm trở, giặc không thuộc đường lên xuống của thủy triều, Bạch Đằng Giang trở thành mồ chôn quân giặc. Thái Tử Thoát Hoan của quân Nguyên phải chui vào ống đồng để tàn quân kéo chạy về Tàu qua đường Vạn Kiếp, từ bỏ mộng xâm lược Việt Nam. Thì trận quyết định Bạch Đằng Giang không chỉ nhờ tài sức của Tướng hùng Dân mạnh, mà còn nhờ vào Ơn trợ giúp của Trời, nhờ vào Mệnh Trời mà người mình hằng tin tưởng, cầu xin.
Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, vị nguyên thủ tài ba và đức độ của Việt Nam Cộng Hòa, có lẽ đã hiểu rõ nguyên lý Mệnh Trời trong lòng dân Việt vì ông là người thật sự yêu nước và có niềm tin sắt son. Tổng Thống Diệm đã cực lực phản đối và bác bỏ đề nghị của Mỹ đem quân đội Mỹ và đồng minh nước ngoài vào chiến đấu tại Miền Nam với lý tưởng chiến đấu cho Tự Do. Có thể vì lý do đó mà chỉ một ngày sau cuộc đảo chánh 1 tháng 11, 1963 thành công, người ta đã giết ông Ngô Đình Diệm và Bào Huynh của ông. Đến 1965, Mỹ đem quân vào Việt Nam, lực lượng đồng minh có lúc lên đến 500,000 quân, nhưng chỉ gần một thập niên sau Miền Nam Việt Nam đã mất vào tay cộng sản. Miền Nam và đồng minh đã chiến đấu sáng ngời với lý tưởng Tự Do, nhưng vô tình người ta đã làm mất chính nghĩa của Mệnh Trời từ ngàn năm trước Lý Thường Kiệt đã nói, mà có người không tin nên nên nỗi(?!).
Trở lại vụ thảm sát ông Ngô Đình Diệm ngày 2 tháng 11, 1963; chỉ vài ngày sau, Tổng Thống Hoa Kỳ John F Kennedy cũng bị ám sát, tiếp theo là một loạt những cái chết thương tâm của những người thuộc giòng họ của ông, làm chấn động lòng người. Những cái chết có nguyên nhân nhưng không dấu được điều bí ẩn mà không ai dám lạm bàn, chỉ biết cúi đầu cầu nguyện, trầm tư.
Nhắc lại những biến cố lịch sử đã xảy ra qua những oai hùng hay bi thương, tôi chỉ nhằm nhắc đến một huyền nhiệm lạ lùng của vận nước thăng trầm, cho người ta không thể chối bỏ một điều gì khác nữa ẩn hiện trong đời sống mà từ ngàn xưa người Đông Phương đã gọi là Thiên Mệnh.
Có một Thiên Mệnh còn lớn hơn vận nước của một dân tộc, vì đó là Mệnh Trời của cả nhân loại : “ Tôi biết, Mệnh Lệnh của Cha là sự sống đời đời ” ( Ga 12, 50) cho con người mà 2000 năm trước Đấng Kitô của Thiên Chúa đã nói. Chúa Giêsu đã xuống thế làm người để Mệnh Trời được sáng tỏ, đem lại sức sống mới cho nhân loại, mà 2000 năm rồi Con Đường mặc khải của Người vẫn chưa được loài người hiểu thấu.
Một đôi khi tôi nghĩ tới những thảm cảnh đang thực sự xảy ra tại Trung Đông, vùng đất đã là nơi phát sinh 3 tôn giáo lớn: Do Thái Giáo, Kitô Giáo và Hồi Giáo, nhưng nhìn kìa, tại vùng đất lý ra phải thánh thiện đó lại là nơi kinh hoàng đang tàn sát con người, mà thảm cảnh kinh hoàng đó còn đang bắt đầu lan ra như tia lửa tiêu hủy con người khắp nơi. Nhìn kìa, Âu Châu là nơi được nhận là cái nôi Kitô Giáo, là nơi văn minh kỷ thuật nhân loại được phát sinh, nhưng cũng là nơi phát xuất hai cuộc thế chiến kinh hoàng trong thế kỷ 20. Các cuộc truy lùng, tập trung và tàn sát chẳng những những người Do Thái mà còn tàn sát con người dưới các chế độ độc tài sắt máu Phát Xít, Cộng Sản. Bây giờ đã là thế kỷ 21, những điều kinh hoàng kia đang manh nha trở lại vì những gốc rễ gieo tai họa cho con người chưa được diệt trừ, chế độ Cộng Sản, lý thuyết chủng tộc thượng đẳng, những hậu quả của nền văn minh kỷ thuật... Tại sao?
Văn minh hiện nay là cái văn minh "lắm mồm" của civilisation bavarde de bla, bla, bla… con người bị ngập lụt trong lời nói sách vở, báo chương, nhưng con người vẫn thấy đói lời.
Loài người đâu chỉ có sống vì cơm bánh, nhưng còn sống vì lời Thiên khải. Nơi triết lý phải hiểu Thiên khải là Tâm khải, khác hẳn với những lời phát xuất từ lý trí, cảm xúc, dục tình, cái đó tràn lan ngập lụt, còn lời Thiên khải từng trăm năm đã vị tất được nghe. Và đâu có nó thì người ta quý hóa duy trì, và nó sẽ sống mãi mãi với nhân loại để làm lương thực tinh thần, để làm đèn soi cho con thuyền bập bềnh trên những sóng cuồng (Kim Định, Tâm Tư)
Tâm khải, Lời đó phải được đem vào Tâm để sống, để hoán cải con người, nhưng xét ra ngày nay thế giới không còn chú ý tới Tâm, nhưng chỉ hoàn toàn hướng ngoại, chạy theo bề ngoài, bên ngoài, bla bla bla nhưng mà toàn chuyện của ai đâu, ở đâu đâu, chớ không trở về với nội tâm của chính mình, Chân Tâm, để nhìn thấy những hay hay dỡ của mình mà sửa đổi. Hình ảnh Con Thú được ban cho cái mồm ăn nói huênh hoang và xúc phạm (Kh 13, 5) trong Khải Huyền của Thánh Gioan như được nhìn thấy hôm nay. Nên con người bị trôi dạt trên những sóng cuồng va bên nầy, va bên kia, mất phương hướng, thiếu Vững Tâm.
Tây phương đã quen dùng kiểu lý luận xem con người như con vật biết suy lý, quen dùng những sản phẩm của lý trí để trùm lên sự vật. Sự vật chẳng bao giờ là đơn thuần, nhưng luôn luôn có lưỡng nghi tính: có lưỡng cực trong hết mọi đợt tiến trình của nó, và thực ra có lưỡng nghi nó mới diễn biến, mới là sự vật theo nghĩa căn cơ… (**) Đông phương nhìn con người theo nét căn cơ, được tác tạo trên hòa hợp Âm Dương. Âm Dương đây không chỉ là Nam và Nữ, nhưng trong mọi vật, mọi sự, như cách nói của họ từ ngàn xưa gọi là lưỡng nghi tính (dual unit) thấy rõ nhứt ở người Việt. Người Việt quen nói trời-đất, đất-nước, sông-núi, nói-năng, làm-ăn, buôn-bán, vuông tròn, sơn hà, xã tắc...Phải nói Nam Quốc Sơn Hà mới thành ra Đất Nước phương Nam, chỉ có Sơn không hay Hà không không thành một Quốc Gia. Người ta gọi đó là nét song trùng lưỡng nghi tính hay lưỡng hợp tính tức là âm dương, đã có rất lâu được khắc vào đá nơi nào có người của Việt tộc làm ăn, sinh sống như khảo cổ tìm thấy từ thời đá mới ( 5000 BC) ở Bắc Sơn.( Kim Định, Để tiến tới một nền thần học Việt).
Cái lý luận hàng ngang theo lý trí của Tây Phương đưa đến lựa chọn, chọn một bỏ một, nhị nguyên đối kháng. Đông phương không lý luận nhưng suy tư theo hàm lý vòng tròn Âm Dương lung linh và uyển chuyển vận hành theo tiết nhịp không còn phải là mạch lạc của danh lý, sự lý, luận lý, nhưng là thuận theo "tính mệnh chi lý". Nói khác đó là cái lý luận không luận lý mà vẫn có luận lý, không suy tư mà vẫn có suy tư, một nền suy tư phồng lên bằng cả tầm vóc vũ trụ và tạm gọi là TÂM TƯ. (**). Nên nơi Đông Phương người ta tìm thấy có khác biệt nhưng không đối kháng, mà lại hòa hợp, bổ túc cho nhau như dây nóng và dây lạnh của điện hợp lại thành luồng điện soi sáng cho đời. Điều đó người Đông Phương gọi là Thiên Mệnh, là một sắp đặt không do con người làm ra nhưng được Đấng Tạo Hóa, Đấng Hóa Công định sẳn, đặt để cho con người; con người chỉ là kẻ Thụ Mệnh, đón nhận Mệnh Trời theo tính mệnh chi lý của Á Đông nói chung và Việt Nam nói riêng.
Người mình nói đực cái, trống mái không phải chỉ để chỉ giới tính của người hay các loài động vật, nhưng tính lưỡng hợp ấy còn áp dụng vào ngay trong những vật dụng của sinh hoạt thường ngày: Cặp đèn cầy ( nến) long phụng ngày lễ cưới; cặp trống đồng mà Hai Bà Trưng dùng làm trống lệnh truyền hịch khởi nghĩa năm xưa; đôi đũa là vật dụng hằng ngày mà có chiếc nầy phải có chiếc kia, thiếu một trong hai thì chiếc còn lại thành vô dụng, vô nghĩa. Hoặc vã, người kia nói tiếng đực tiếng cái chỉ người nói không rõ ràng, không đồng nhất, mập mờ đánh lận con đen, nghe không hiểu được. Lưỡng tính hòa hợp hai sự khác biệt ngay trong đời sống, cho thấy người Việt chuộng sự an hòa, hợp tác, hòa hợp hơn là chống đối, đó cũng là nguyên lý Âm Dương của Việt Nho.
Có người cho rằng Nho Giáo là của Tàu, không phải Việt, nhưng họ không biết nguồn gốc của Nho là từ Việt Tộc, người Tàu chỉ lấy nguyên tắc mà hệ thống hóa có qui cũ rồi nhận làm của họ. Nên gốc rễ của Nho đặt trên căn để Con Người, người ta nhìn thấy rõ hơn qua tục thờ người, thờ ông bà, lễ Gia Tiên là thuần phong mỹ tục của Việt Nam, là Nước theo văn minh, văn hóa nông nghiệp hiền hòa từ ngàn xưa. Dân Tàu dùng sức mạnh võ biền để đàn áp, ức hiếp dân Ta từ rất lâu nay theo truyền thống văn hóa du mục của họ, hung hãn và bạo tàn, mà người mình đã phải khổ công chống chọi hàng mấy ngàn năm nay để không bị họ đồng hóa.
Ngày nay người ta nghĩ lý thuyết chủng tộc thượng đẳng chỉ có ở Tây Phương, kỳ thị chủng tộc, kỳ thị màu da mới xuất hiện từ đầu thế kỷ 20, gieo kinh hoàng cho hàng triệu người Do Thái, hay các giống dân bị đàn áp khác mà không nhìn ra gốc rễ của nó chỉ là lòng kiêu căng thái quá của những kẻ cho mình là thông minh vượt mực, mạnh khỏe hơn người đã có từ ngàn xưa. Nên những cái chết bất kỳ thời nào, bất kỳ ở đâu do bạo tàn và khủng bố, những cái chết do Sự Dữ mang lại, đều là những tang chung cho nhân loại. Tôi nhớ đến cái chết của Chúa Giêsu Kitô trên Thánh Giá.
Lòng kiêu căng không chấp nhận sự khác biệt, đem đến loại trừ, chọn một bỏ một mà không nhìn nhận nguyên lý nền tảng Âm Dương, thế giới được tạo thành và tiến hóa từ những khác biệt đó. Thiên Chúa tạo nên con người có Nam có Nữ ( Kinh Thánh ) là dấu chỉ của khác biệt căn bản để kết hợp mà tạo nên nhân loại, và muôn vàn khác biệt khác trong thiên nhiên, tự nhiên mà giúp con người tiến hóa về cả thể xác bên ngoài và tâm linh bên trong. Triết lý hữu vi giết người mà theo Heidegger (triết gia lớn nhất của Đức) nói Triết học Tây Phuơng đặt nền tảng trên hữu hoặc vô, đi tới đâu là gieo máu và nuớc mắt tới đó. Thứ triết học nhị nguyên đó đã tựu thành mọi tai ương cho nhân lọai là: Chủ nghĩa thực dân, chế độ kỳ thị chủng tộc và chế đô cộng sản. ( Vũ Khánh Thành, Hành Trình An Vi và Kim Định ). Sự suy tư một chiều, đặc sệt một khối của nhị nguyên đối kháng chọn một bỏ một chẳng những mang đến những kinh hoàng như vừa nói, mà còn dẫn dắt con người ngày nay đi trên đường lầm lạc của đồng tính luyến ái tựu thành hôn nhân đồng tính ngày nay, đang là một tai họa nữa cho con người.
Họ còn lẩn quẩn trong vùng la lập lý luận chưa ngờ đến cõi định lý uyên nguyên (urs-prache) mà Nho giáo kêu là Thiên Mệnh. (**) Lịch sử nểu là chính tông thì không tận cùng bằng ngừng lại, hay băng hoại kiểu duy vật như thế, nhưng nó phải tới đích theo lối quy căn của sử mệnh(**). Người Việt nói Mệnh Trời vì tin rằng ngoài con người còn có Đấng Linh Thiêng can dự vào đời sống của họ. Chính Đấng ấy làm phát sinh ra Đạo, nên mới nói: "Đạo chi bổn nguyên xuất ư thiên". Cái gốc Đạo là ở Thiên, ở Trời (**). Người Việt tin Trời có trong Tâm, nói khác, chỉ có nơi Tâm con người mới tìm thấy Đạo. Tác động đầu tiên rất tế vi gọi là phát: "Ý giả tâm chi sở phát". Sự phát hiện này rất quan trọng vì nó là bước khởi đầu đi vào thế giới siêu linh, nên cũng gọi là "thiên sinh"(**), Trời cho, người có đạo thì nói : Chúa cho, khác với người vô thần. Nên tìm Chúa, tìm Đạo thì phải trở về với Tâm. Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống ( Ga ), Con Đường hẹp và chật thì đưa đến Sự Sống nhưng ít người tìm được lối ấy ( Mt 7, 14). Con Đường hẹp, con đường hướng Tâm thì phải vào theo lối “Mặc” của trầm tư mặc tưởng, tĩnh lặng và tỉnh thức. Vậy anh em phải Tỉnh Thức và Cầu Nguyện không ngừng, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người ( Lc 21, 36), thiển nghĩ những Lời Thiên Khải của Đấng Cứu Thế đâu xa lạ gì với Tâm Đạo của Việt Nho, nhưng vì quá lâu rồi, lại thêm vùi dập bởi biết bao biến cố làm người Việt lãng quên. Đây là lúc chúng ta phải tìm lại, là một cách quy căn của Sử Mệnh mà các bậc tiền bối của Việt tộc đã ra sức vun trồng. Hoàn cảnh đất nước Việt Nam như thế cho nên dân ta phải chịu quá nhiều đau thương và tủi nhục. Đối với giới trí thức nói riêng, mà xã hội Việt Nam truyền thống rất tôn trọng, điều tủi nhục lớn nhất là họ không thể thay những người dân thấp cổ bé miệng nói lên một cách trung thực tất cả những uất ức, những khổ nhục mà họ phải chịu. Bởi vì, tại Việt Nam ngày nay những người có thể nói thì ngòi bút đã bị cong; những người muốn nói thì ngòi bút đã bị bẻ gẫy. Nhưng tôi biết rõ một điều, và điều đó đã được ghi chép trong lịch sử: Trí thức chân chính của Việt Nam không bao giờ khiếp nhược. ( Tuệ Sỹ, Trí Thức Phải Nói )
Bản chất của cộng sản là duy vật vô thần, đặt trên nền móng tam vô: vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo, đó là một sự trá ngụy vì bác bỏ gốc gác của con người, biến con người thành dụng cụ sản xuất trong độc khối duy vật, chỉ còn xác vô hồn, chẳng nối kết linh hoạt chi tới Thần, là nguồn Sống của con người nhân bản tâm linh, mà người Việt từ thái cổ đã nhận ra. Duy vật nên mục đích của họ là thành công máy móc bất kể chi tới Con Người, họ dễ dàng và sẳn sàng chấp nhận đường lối dối trá và độc ác cho thành công của chế độ, lịch sử đã và vẫn đang chứng minh điều đó. Người ta vẫn chưa quên thời kháng chiến chống Pháp thuộc, nhân dân Việt Nam đã đoàn kết một lòng với lực lượng kháng chiến Việt Minh, chữ tắt của Việt Nam Quốc Gia Kháng Chiến Đồng Minh Hội, gồm tất cả các đảng phái Việt Nam yêu nước hợp tác vì mưu tìm Độc Lập cho Tổ Quốc mà cộng sản cũng tham gia với hình thức đảng Cộng Sản Đông Dương. Lịch sử còn ghi chép rành rành: Cuộc kháng chiến từ Việt Bắc bắt đầu năm 1945, về sau lan vào tận Miền Nam, chiến thắng Điện Biên Phủ 1953 là do Việt Minh chủ trương. Nhưng với bản tính dối trá và độc ác, đảng CSĐD lợi dụng cảnh tranh tối tranh sáng của loạn lạc, đã âm thầm thủ tiêu những người của các đảng phái Quốc Gia bằng cách cho họ đi “mò tôm”, tiếng lóng hành động gian ác nầy của CS còn vang lên trong lòng Dân Việt. Cuộc cướp chính quyền của CS trên xương máu người Việt quốc gia 1953, đổi tên thành CSVN, chia đôi đất nước 1954, để rồi họ tiếp tục tiêu diệt những người khác phe với họ là chiêu bài đấu tố sát hại hàng trăm ngàn người Việt vô tội chỉ để củng cố chế độ còn non nớt của họ trên đất Bắc, gieo kinh hoàng thời kỳ áp đặt chế độ sắt máu CSVN trên quên hương chúng ta.
Đường lối dối trá và độc ác không bao giờ là đường lối của Thiên Chúa, tất cả đường lối Chúa đều là yêu thương và thành tín ( TV 24, 10) vì Ngài là Đấng công minh chính trực ( TV 118, 137), Lời Chúa phán là lời chân thật ( TV 11, 7), không như loài người chỉ nói lời gian dối, môi miệng phỉnh phờ, lòng một dạ hai. ( TV 11, 3). Mới hôm qua vỗ ngực xưng mình là sĩ quan QLVNCH, hôm nay lại vỗ ngực khoe mình về nước có xe hơi cắm cờ đỏ sao vàng đưa đón, mai mốt đất nước rơi vào tay Trung Cộng, cờ nào nữa để khoe ? Họ trở cờ mau hơn trời trở gió, vì lời nói chỉ có ngoài môi do lợi lộc, không có trong Tâm bởi tín thành! Không phải vô tình mà cuộc chiến cánh chung thứ nhất trong Khải Huyền, Thánh Gioan ghi lại là cuộc chiến quyết liệt và đẫm máu của Đấng Trung Thành và Chân Thật (Kh 19, 11), mở đường cho cuộc chiến cánh chung thứ hai giữa Con Chiên và những kẻ trung thành với Người ( Kh 17, 14) với Con Thú, kẻ dối trá gian ác và bè lũ của nó, để thắng Con Thú đưa nhân loại vào Trời Mới Đất Mới của cõi Sống. Cơ duyên nào mà tiểu ngã Việt Nam được đi chung lối tâm linh với Đại Ngã Nhân Loại trên cùng Con Đường hẹp hướng Tâm tìm kiếm Mặt Trời Công Chính trong tâm hồn, để đem lại hạnh phúc thật sự cho con người. Chúng ta thêm lòng tin mạnh mẽ vào Mệnh Trời mà Dân Việt vẫn hằng tin tưởng dù trải qua biết bao biến cố thăng trầm điêu linh của Đất Nước. Đó cũng là con đường quy căn của Sử Mệnh nơi Đất Nước văn hiến 4000 năm.
Quy căn, trước tiên, là con đường qui Tâm nơi con người vì Sự Thật thật sự không có ở ngoài miệng, ngoài môi nhưng là từ trong tận căn để, mà Tâm là căn của con người, theo triết lý Đông phương. Trong Tâm luôn luôn có Ác và Thiện Tâm, không ai miễn trừ được điều nầy; trở về với Tâm chân thật, thành thật nhìn nhận mình vẫn còn đầy dẫy thiếu sót, rồi thành tâm sửa đổi nhờ Ơn Ban nâng đỡ của Tình Thương Thiên Chúa, đó là người công chính theo cái nhìn của Chúa Giêsu như dụ ngôn người Pha-ri-sêu và kẻ thu thuế tội lỗi. Quan trọng là sự hoán cải với lòng chân thật, Đông phương gọi là Chân Như của sự vật tự thân, quyết tâm sửa đổi hoán cải, chuyển hóa Ác Tâm nên Thiện Tâm, để từ từ loại bỏ những điều Ác trong nhân loại bằng cách loại bỏ Ác Tâm nơi chính mình, đó là con đường Tu Tâm cần thiết trước tiên phải có.
Tâm là căn của Thân, nên Tu Tâm cũng là Tu Thân. Tu thân mới là bổn gốc, ngòai ra kinh tế, chính trị, ngoại giao… tuy không ai dám chối là cần, nhưng cần hơn cả là gốc. Chính gốc mới là phần "thành nhân". Nếu chỉ luyện nên những thứ chuyên môn mà không có luyện cho thấy cái toàn thể nơi con người, thì đừng nói thiếu tâm hồn, mà thiếu ngay cả đến lương tâm nghề nghiệp. Jung có lần nào đó viết rằng chính những chương trình lớn lao về kinh tế, chính trị… đã làm các dân tộc sa lầy (Les grands programmes politiques, économiques… précisément ce qui a toujours enlisé les peuples), là vì những chương trình đó chỉ là những sự xếp đặt do đầu óc trục lợi tính toán, và chỉ biết tìm thế quân bình giữa các nhóm thế lực lấy ích lợi làm trọng tâm, mà không được đặt vào tương quan với Toàn thể là Nhân tính con người. (**)Thành ra môi trường của triết lý Nho Việt là khắp hết tự tu thân đến tề gia rồi lan ra tới trị quốc bình thiên hạ, nhưng điểm phát huy ánh sáng phải là cái nội ngã tâm linh vậy. (**)
Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là Sự Sống ( Ga 6, 63), Hãy qua cửa hẹp mà vào vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa tới diệt vong ( Mt 7, 13). Đấy là Lời của Đấng biết rõ mọi sự ( Ga 21, 17): Biết cái gần của cái căn cơ xa thẳm. Biết chỗ ngọn nguồn do lai của luồng gió. Biết được chỗ tế vi của những cái đã hiển hiện ra trước mắt. Biết thế mới nói lên Lời sáng soi sống động gây nên một nếp sống mới. Đó là cái biết tế vi ngọn nguồn (**) cải hóa con người từ thẳm sâu tâm hồn, từ chính Tâm của con người. Ai có tai thì nghe, có mắt thì thấy, để từ những biến cố, biến động bên ngoài như những bài dụ ngôn hôm nay mà hiểu ý tại ngôn ngoại của Đấng Cứu Thế 2000 năm trước, đổi thay nếp sống.
Anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa, để được ơn thông hiểu. (Cl 3, 10), nhưng đến hôm nay loài người vẫn chưa hiểu vì những dối trá của biết bao tiếng động ồn ào bên ngoài như cơn hồng thủy thời đại cuốn trôi Lẽ Sống chân thực nhỏ nhẹ thì thầm trong Tâm vì con đường tâm linh đã không còn được yêu chuộng, tìm kiếm giữa thế giới hỗn độn chạy theo vật chất, thích thành công hơn thành nhơn. Tinh thần con người ngày nay bị khủng hoảng vì họ từ chối nguồn gốc siêu linh bên trong tâm hồn, trách chi bạo loạn đã và đang xảy ra hằng bữa, chưa biết lúc nào ngừng.
Dịp hành hương đến một tu viện cổ kính xây cất từ thế kỷ 19, trong giờ thong dong ngắn, tôi ra ngoài đến ngồi một mình trên chiếc ghế gỗ trước nhà nguyện nhỏ, nhìn xuống bờ thác đẹp nổi tiếng ở xa xa dưới chân núi cách nơi tôi đang ngồi chừng vài cây số đường chim bay. Khoảng cách không xa, nhưng sao hai nơi đây và đó như khác biệt ngàn trùng. Trên đây là đan viện cổ đã có từ hơn 100 năm, dưới kia là thành phố tập trung những sòng bài lớn mới xây cất chừng 10 năm, trong trầm mặc tôi như nhìn thấy khoảng không gian vô hình là hố sâu ngăn cách đây và đó không vượt qua được. Tôi nhớ đến khoảng cách của dụ ngôn Ladarô và ông phú hộ Chúa Giêsu đã kể, cho giàu nghèo không chỉ là khoảng cách vật chất mà còn là tinh thần, là cái gap quá lớn mà người ta chưa chia sẻ đủ cho nhau. Điểm độc đáo nổi bật của dụ ngôn nầy là sự ẩn mặt của Thiên Chúa, cho câu chuyện xoay quanh giữa người với người, câu chuyện của con người.
Muốn hay không chúng ta đang sống trong thế giới hỗn độn trộn lẫn đen trắng, trắng đen của tương đối. Người ta không thể xóa bỏ hoàn toàn những khoảng đen dưới bất cứ một áp lực nào, để biến nó thành trắng như ý muốn, nhưng chỉ biến đổi nó từ từ đen thành trắng, ác thành thiện, trong niềm tin tưởng vào thiện căn mà Thiên Chúa đã đặt để vào Tâm con người. 2000 năm trước, Đấng Cứu Thế đã không bỏ mặc con người trong trầm luân, nhưng Ngài đã bước xuống cõi hỗn độn đó để chỉ cho con người con Đường Sự Sống mới bằng chính nếp sống với Lời rao giảng và cả cái chết thương tâm trên Thập Giá của Người để chỉ cho loài người nhìn thấy được, phân biệt được, gương mặt của Ác và Thiện trong thế gian. Chẳng những Người rao truyền Lời Sự Sống, mà còn hóa thân thành thức ăn thần linh để nuôi dưỡng con người siêu linh bất tử bên trong thân xác loài người, thông truyền Sức Sống Thần Linh của Thần Khí Sự Sống cho nhân loại được Sống. Đó là sự cảm hóa để cải hóa của Tình Thương tuyệt đối mà chỉ được nhận ra và đón nhận bằng Tâm chân thật của con người. Thiếu thành Tâm, thiện chí không đạt được, hố sâu ngăn cách giữa người và người không được lấp đầy, nhịp cầu nối kết giữa con người và Thần Linh Thiên Chúa, bị gảy đổ.
Tâm như nhịp cầu bắt qua giòng cuồng nộ, để con người nối kết được tính mệnh của mình với nguồn gốc Sự Sống là Thiên Chúa. Tâm cũng là nhịp cầu nối liền giữa người và người trong Tình Thương tương thân tương ái của nhân loại, đưa đến nếp sống mới nơi đó bạo lực không còn chỗ đứng; không còn chỗ cho người hà hiếp, bắt nạt kẻ yếu thế, cô thân; không còn chỗ cho gian ác dối trá. Những phú túc giàu sang vật chất hay tinh thần, là những món quà quí giá mà Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng, ban cho dù không đồng đều, không là cớ để người thụ mệnh lãnh nhận kiêu căng, khinh chê, chà đạp người yếu kém; nhưng là cơ hội bộc lộ Tình Thương nhân loại dành cho nhau, nâng đỡ nhau. Để những khoảng cách còn đang có trong thế giới hôm nay mỗi ngày một ngắn hơn, thu nhỏ lại cho người ta có thể bước đến với nhau, bắt tay nhau, chung xây Trời Mới Đất Mới cho nhân loại, vì nhân loại trong Ơn Ban trợ giúp của Thiên Chúa. Đó là Mệnh Lệnh của Cha tôi, mà tôi nhận được (Ga 10, 18) Và Tôi biết: Mệnh Lệnh của Cha là Sự Sống đời đời ( Ga 12, 50) cho nhân loại, Chúa Giêsu Kitô đã loan truyền dù phải hy sinh mạng sống chính mình ( Ga 12, 50). Đó là Thiên Mệnh, là Mệnh Trời đã đặt để nơi con người, cho con người, trong trật tự hài hòa mà con người được tạo dựng, phát triển và tiến hóa trên Đường đời đời, trường tồn của nhân loại.
Lòng anh em đừng xao xuyến !
Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. ( Ga 14, 1)
Thiên Chúa là Đấng ẩn mặt nhưng không bao giờ vắng bóng trong thế giới hôm nay, bảo không có Chúa là sự dối trá to lớn và nguy hiểm nhất mà tên Thủ Lãnh thế gian ngày đêm gào thét bên tai chúng ta, mong phá vở Niềm Tin tạo Sức Mạnh Tinh Thần trong Tâm, hun đúc Sức Sống của con người, của Dân Tộc. Người ta không tìm thấy Chúa, không gặp gỡ Chúa là vì người ta chưa tìm đúng nơi, đúng chỗ. Thiên Chúa ở bên trong, Trời ở trong Tâm, tìm gặp và lắng nghe Tiếng Chúa nói với lòng chân thật, tỉnh lặng của mỗi người chúng ta qua suy tư, qua cầu nguyện với Niềm Tin mãnh liệt trong Tâm, để khi nhìn thấy dấu chỉ bên ngoài trong các đền thánh, trong các Bí Tích của Người, Niềm Tin ấy được củng cố, nuôi dưỡng ngày một mạnh mẽ hơn, để Vững Tâm mà tiến bước qua muôn vàn gian khó hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Hằng Hữu, con biết Chúa vẫn hằng sống giữa chúng con hôm nay, xin sáng soi chúng con luôn bằng Thần Khí Tình Thương và Sự Sống của Người để chúng con không lạc lối. Để giữa muôn vàn khó khăn thử thách, chúng con không quên nguồn cội của mình là con cái Chúa, được Chúa tạo dựng với con người siêu linh bên trong, không phải là con người vô thần duy vật, nhưng con người nhân bản biết yêu thương và tôn trọng người chung quanh. Chúng con có một tổ quốc, để biết sẳn sàng chia sẻ của cải vật chất, nâng đỡ tinh thần anh chị em đồng bào của con, coi nhẹ tư lợi nhưng Sống vì thiện ích chung. Để dân tộc chúng con được sống cùng với các dân tộc anh em khác, chung nhau xây dựng và củng cố tình huynh đệ, biết chăm sóc căn nhà chung tốt đẹp là hành tinh xanh tươi Địa Cầu nầy. Để mọi người chúng con hôm nay và con cháu chúng con ngày mai được sống hạnh phúc, thịnh vượng trong Ơn Ban dồi dào như Ý Muốn của Chúa Cha vẫn dành cho chúng con.
Lạy Mẹ Maria, Từ Mẫu của chúng con, xin che chở, hướng dẫn và cứu giúp chúng con luôn để trong hành trình gian khổ nầy, chúng con có Mẹ ở đây với chúng con, bước đi cùng chúng con. Để kẻ thù đầy ác tâm và hung tợn là Sự Dữ không trấn áp được, không thống trị được chúng con nhưng sẽ phải rời xa chúng con. Con cầu xin cậy vào lòng Từ Mẫu vẫn luôn dõi theo và cứu giúp chúng con. Amen.
Nam Hoa
Chú thích: (**) Tâm Tư, Kim Định.