Nhảy đến nội dung

Minh Họa Lời Chúa: Lễ Hiển Linh

MINH  HỌA LỜI CHÚA - LỄ HIỂN LINH

(Chung cho các năm A.B.C)

Download Powerpoint Slide Show 

(Is.60,1-6; Ep.3,2-3.5-6; Mt.2,1-12)

Chúa Cứu Thế là Ánh Sáng muôn dân

1.    Ba bức tượng tuyệt đẹp

Tháng 7 năm 1969, tổng thống Mỹ Nixon đã reo hò vang dậy khi chiếc phi thuyền Apollo 11 đáp xuống đất. Và trong khi vui mừng phấn khởi do thành công của phi thuyền gia mang đến, ông đã hứa thưởng họ đi du lịch nhiều nước. Và đúng như lời ông hứa, họ đã đi thăm 25 quốc gia trong vòng 45 ngày, trong số đó có quốc gia Vatican. Tại đây họ đặc biệt xúc động khi nhận được quà tặng của Đức Giáo Hoàng Phaolô 6. Một trong các phi hành gia là Ed Aldrin viết trong quyển sách “Trở lại trái đất” của anh như sau:

 

“Đức Thánh Cha mở lớp vải đậy ba bức tượng các nhà chiêm tinh bằng sứ tuyệt đẹp. Ngài nói các vị này đã đến được với Chúa Giêsu Hài Đồng nhờ nhìn lên các vì sao, và chúng tôi cũng đạt đến đích, nhờ nhìn các vì sao như thế”.

 

Lời nói trên của Đức Giáo Hoàng khiến họ nghĩ đến việc Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại mà các nhà chiêm tinh là đại diện, chứ không phải Chúa chỉ đến cứu riêng dân Do Thái mà thôi, nhât là ý nghĩa tượng trưng của các tặng phẩm dâng lên Chúa: vàng tượng trưng vương quyền, nhủ hương ám chỉ thiên tính, mộc dược (dùng để ướp xác người chết trước khi an táng) tượng trưng nhân tính Chúa Giêsu. Như thế là họ đã dâng lên Chúa tất cả tấm lòng tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa làm người, chịu chết, cứu độ mọi người.

-------------

Tôi có tin Chúa như các nhà chiêm tinh không? Quà tặng tôi dâng lên Chúa là gì?… (Theo Cha M.Link)

2.    Nhà chiêm tinh thứ tư

Henry Van Dyke viết câu chuyện về nhà chiêm tinh thứ tư tên là Artaban. Artaban định đi cùng ba người kia để tìm vị vua mới sinh. Ông mang theo túi ngọc quý để làm quà tặng cho vị vua bé thơ đó. Trên đường, ông phải dừng lại giúp đỡ những người nghèo đói, nên ông không theo kịp ba người kia. Và ông tiếp tục giúp đỡ hết người này đến người khác, do đó túi ngọc quý của ông cạn dần… Rốt cuộc ông trở thành kẻ ăn mày trong một thành phố xa lạ tên là Giêrusalem. Ngày nọ, ông gặp một phạm nhân bị dẫn đi hành hình. Tự nhiên ông thấy gần gũi người đó, và buồn vì không thể giúp được anh ta. Nhưng khi đến gần, phạm nhân quay về phía ông và nói: “Đừng buồn, ông đã giúp tôi cả đời rồi !...”

------------

Tôi nghĩ xem Artaban cảm thấy thế nào khi nghe Chúa Giêsu nói với ông câu đó?... Phải chăng ông ta cũng được ngôi sao lạ dẫn đến Chúa Hài Đồng qua người nghèo khổ? !...

 

“Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta” (Mt.25,40) (Theo “Vision 2000”).

 

3.    Ngôi sao sáng

Trong một cuộc tĩnh tâm, buổi tối nọ nhà thờ có cả mấy trăm giáo dân. Linh  mục giảng thuyết bảo tắt hết đèn trong nhà thờ. Thế là bóng tối bao trùm !... Đoạn linh mục nói:

 

Tôi sẽ đốt lên một que diêm. Tất cả những ai thấy ánh sáng của que diêm, xin hô to: “Thấy”.

 

Nhà thờ to lớn, chỉ có ánh sáng một que diêm, nhưng ai cũng thấy và đồng thanh hô to:

-Tôi thấy! Chúng tôi thấy.

Linh mục giải thích:

-Như thế, anh chị em thấy một hành động tốt của anh chị em dù nhỏ cách mấy cũng chiếu sáng trước mặt mọi người, làm ngọn đèn soi cho họ bước lên ngôi sao sáng, dẫn đường họ đến Chúa như ba nhà chiêm tinh.

Kế đến, linh mục phát cho mỗi người một que diêm và bảo:

-Bây giờ mỗi người hãy đốt que diêm của mình lên.

Thế là trong phút chốc, bóng tối trong nhà thờ đã nhường chỗ cho ánh sáng tỏa lan từ những que diêm bé bỏng, khiến bầu khí trong nhà thờ trở nên mông lung kỳ diệu. Và linh  mục kết luận:

-Anh chị em hãy xem đấy, nếu mỗi người chúng ta gộp lại một việc tốt lành nhỏ, chúng ta cũng có thể xua đuổi bóng tối lầm lạc tội lỗi, và trở nên Ánh Sao Lạ dẫn đưa mọi người đến với Chúa Cứu Thế như ba nhà chiêm tinh thời xưa.

5.    Giữa sa mạc nắng cháy

Có một người lữ hành bị lạc mất trong sa mạc, kiệt sức vì đói khát, chỉ còn biết lê bước trên cát nóng bỏng. Bỗng dưng anh ta thoáng thấy từ xa những cây chà là cao vút và như có tiếng róc ráng của nước chảy đâu đó. Trong lúc kiệt sức và tuyệt vọng, and tự nhủ:

 

-Đấy chỉ là ảo tưởng, chẳng qua sự đói khát đã vẽ lên những hình ảnh nầy trước  mắt ta, chứ làm gì có óc đảo giữa sa mạc mênh mông này.

 

Thế rồi thay vì quan sát sự việc coi đúng sai thế nào, anh ta nằm xuôi tay nhắm mắt chờ chết!...

 

Hai hôm sau, có mấy người Ai Cập đi ngang qua đó, thấy xác một người chết cứng đờ và bị cát vùi lấp gần hết thân thể. Họ dừng lại và bỡ ngỡ hỏi nhau:

 

-Làm sao người này có thể chết vì đói khát, đang khi cách đây không xa có cả một ốc đảo dư thừa nước mát, và những cây chà là nặng trịu trái chín ngon ngọt?!...

 

Một người trong bọn lắc đầu nói:

-Anh này chính là người của thời nguyên tử ngày nay.

------------

Phải chăng đó là hình ảnh con người của thời đại chúng ta. Chúa Cứu Thế đã đến hơn 2000 năm, soi đường dẫn lối cho họ về cõi sống trường sinh. Hội thánh và các nhà truyền giáo cũng như nhiều tín hữu là những sao sáng cho họ nhận biết Chúa. Thế mà họ đành nằm chết trong truyệt vọng, lầm than tội lỗi!... Có thể trong số đó có chúng ta, gia đình chúng ta, thân nhân bạn hữu chúng ta... (Theo “Chờ đợi Chúa”).

6.    Mỗi người lã lễ Hiển Linh

Truyện cổ Á-rập có câu chuyện:

Một vị vua mới lên ngôi kế vị cha. Vua này thấy dân nghèo thì thương, tìm cách giúp họ sống sung túc hạnh phúc. Nhưng xem ra người dân không màng gì đến tình thương của nhà vua.

 

Thấy vậy vua mới hỏi ý kiến quần thần phải làm gì. Họ trả lời:

-Sở dĩ dân lãnh đạm như thế là vì vua sống khác và xa họ. Xin vua đến sống giữa họ như họ thử xem.

 

Nghe lời khuyên, nhà vua đổi y phục làm người nghèo, đến sống với xóm nghèo, ngày ngày làm việc cực nhọc như mọi người khác, ngoài ra còn đi thăm viếng giúp dỡ người nghèo khổ bệnh tật. Tiếng đồn về người nghèo nhân hậu này được lan rộng khắp nơi. Từ đó ai cũng muốn chung sống và cùng làm việc với người nghèo nổi tiếng đó. Bất cứ việc gì người đó đưa ra cũng được mọi người hưởng ứng, vì họ biết vì lợi ích cho họ mà người đó làm.

 

Một hôm người nghèo nhân hậu đó biến mất. Dân chúng khắp nơi đều mong gặp lại người đó. Và họ gặp lại người đó, không phải với y phục người nghèo mà dưới lộng che áo mão của một vị vua. Từ đó thần dân mến phục vua, làm tất cả những gì vua đề nghị. Và cuộc sống họ ngày càng sung túc hạnh phúc…

“Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người. Lễ Hiển Linh bổ túc lễ Giáng Sinh, nhắc con người chiều kích Hiển Linh của mầu nhiệm nhập thể, nhắc họ nhớ: con Trẻ Giêsu là Con Thiên Chúa, là Vua vũ trụ, sinh ra làm người nghèo khó để cứu độ mọi người, dẫn đưa các dân các nước đến cõi sống hạnh phúc muôn đời mà ba nhà chiêm tinh phương Đông là đại diện.

 

Nhưng nhiều kẻ không tiếp nhận Người, khinh thường ơn cứu độ của Người!... Tệ hại hơn nữa, có kẻ giết Người, tìm giết Người như bạo chúa Hêrôđê xưa.

 

Mỗi Ki tô hữu được mời gọi trở nên sự hiển linh của Chúa trong môi trường mình sống. Mỗi người chúng ta phải ngày càng trở nên đồng hình đồng dạnh với Chúa Giê su, để mọi người xung quanh thấy việc tốt chúng ta làm mà ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời (Theo “Phút Cầu nguyện cuối ngày”, tập 1).

 

7.    Chúng con là Ánh Sáng

Truyện cổ Tây Phương kể về một vùng trái đất bất ngờ bị thiếu ánh sáng.

 

Mặt trời không mọc lên, khắp nơi tối tăm mù mịt. Dân chúng đổ xô đến nhà ông Trai-nô mua diêm quẹt và đèn cầy, vì họ biết ông có một kho chứa những thứ đó. Nhưng dân càng yêu cầu ông càng từ chối không bán ra.

 

Ngày qua ngày, dân quen lần với bóng tối, không cần đến diêm quẹt và đền cầy nữa. Lúc đó Trai-nô mới ý thức sự ích kỉ của mình. Ông mở kho, mời gọi mọi người tự do đến lấy diêm quẹt và đền cầy về xài. Nhưng họ trả lời: “Chúng tôi quen sống trong bóng tối rồi. Chúng tôi không cần ánh sáng nữa!...”

--------------

Lời mời gọi của Chúa Giêsu mãi còn vang dội:

“Chúng con là ánh sáng thế gian”.

Mỗi Kitô hữa là ánh sáng của Chúa, là hiển linh của Chúa. Đây không phải là một vinh dự, mà là một trách nhiệm. Chần chờ hay bỏ qua một việc tốt, một gương sáng mà mình có thể làm được sẽ làm thiệt hại anh chị em trên đường tìm đến Chúa trong ngày lễ Hiển Linh của Người… (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập 1)

 

8.    Tia sáng mặt trời

Bà ngoại của Như Mai đã ngoài 90 tuổi. Bà sống trong một phòng hướng về phía bắc, còn mặt trời mọc bên đông, nên phòng bà không được mặt trời soi sáng mỗi buổi sáng. Thấy như thế, Như Mai hỏi ba:

 

-Ba ơi, sao mặt trời không soi sáng phòng của bà ngoài? Con thấy bà ngoại rất thích ánh sáng mặt trời

 

-Vì mặt trời mọc phía đông. Còn phòng bà ngoại có cửa quay phía bắc.

 

-Vậy có quay cửa phòng bà ngoại về phía đông được không ba?

 

-Việc đó khó quá, ba không làm được.

 

Từ đó, bé Như mai tìm các đem ánh sáng mặt trời vào phòng bà ngoại. Mỗi lần bé chạy chơi ngoài sân, bé lấy hai tà áo gói tia nắng rồi chạy vào phòng bà ngoại nói:

 

-Ngoại ơi, con đem tia sáng mặc trời cho ngoại đây.

 

Và Như Mai mở hai tà áo ra, không còn tia sáng nào, nhưng điều đó làm cho bà ngoại Như Mai vui sống hằng ngày.

----------

Với tâm hồn đơn sơ, bé Như Mai nghĩ rằng có thể đem ánh sáng mặt trời sưởi ấm cuộc sống cô đơn âm thầm của bà ngoài. Ước gì mỗi Ki tô hữu chúng ta cũng biết đem ánh sáng hiển linh của Chúa đến cho anh chị em đồng bào đồng loại đang sống trông bóng tối tội lỗi, bạo lực, hận thù, kỳ thị và bao nhiêu tệ nan xã hội khác xung quanh chúng ta… (Theo “Ánh Sáng thế gian”)

 

9.    Sức mạnh của ánh sáng

 

Một cái hố sâu đầy bóng tối chưa biết ánh sáng là gì.

 

Một hôm, mặt trời mời hang tối tăm đó đến thăm mặt trời. Nó liền nhận lời và hết sức vui mừng được thấy ánh sáng. Để đáp lại, nó mời mặt trời xuống hang tối tăm của nó để biết bóng tối là gì.

 

Nhận lời mời, mặt trời đã xuống vực sâu tăm tối đó. Nhưng nó nhìn bốn phía chẳng thấy bóng tối đâu cả. Nó liền hỏi hang tối tăm:

-Hang tối tăm ơi! Bóng tối của bạn đâu?

Thực ra, khi mặt trời đến, bóng tối đã tan biến hết, nhường chỗ cho ánh sáng mặt trời. Ánh sáng đã chiến thắng và đẩy bui bóng tối…

-----------

Câu chuyện ngụ ngôn trên cho chúng ta thấy sức mạnh và tầm quan trọng của ánh sáng trong vũ trụ và trong đời sống con người.

 

Chúa Kitô chính là mặt trời, là Ánh Sáng đến trong thế gian, để phá tan bóng tối của tội lỗi và sự chết, để đem lại con đường sống và sống hạnh phúc cho loài nguồi, như trường hộp ba nhà chiêm tinh trong Tin mừng hôm nay: “Trông thấy ngôi sao sáng họ mừng rỡ vô cùng”, vì đây là nguồn ánh sáng cho những kẻ đang sống trong tối tăm.

 

Trong Cực Ước, ngôn sứ Isai đã tiên báo về ngày của Chúa Kitô: “Ngày đó người mù được thấy, kẻ què được đi, người nghèo được nghe Tin Mừng”. Và trong Tân Ước, khi Gioan Tẩy Giả sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: “Ngài có phải là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi chăng?” Đức Giêsu đáp:

“Hãy về thuật lại cho Gioan những điều tai nghe mắt thấy: người mù được thấy, kẻ què được đi, kẻ chết sống lại…”.

  

Trong ba năm công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đi khắp nơi tìm kiếm những người còn sống trong bóng tối sự chết, đem họ về ánh sáng sự sống. Đó là lễ Hiển Linh cho họ.

Còn lễ Hiển Linh cho chúng ta là gì?...

Và Chúa Giêsu đã bảo chúng ta:

 

“Chính các con là ánh sáng cho thế gian. Một thành xây trên núi không tài nào che khuất được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lại đặt dưới đáy thùng, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của con phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc tốt đẹp các con làm, mà tôn vinh Cha của các con, đấng ngự trên trời” (Mt. 5,14-16). (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập IV)

 

10. Ngôi sao chiếu mạng.

Nhiều người tin rằng mình sinh ra dưới ngôi sao tốt hay xấu. Và cuộc đời họ gắn liền vào ngôi sao định mệnh đó.

“Người tín hữu Kitô chỉ có một ngôi sao chiếu mệnh, đó là Đức Giêsu. Người là ánh sáng, niềm vui, hy vọng. Người là ánh sáng chiếu soi cho thế gian đang chìm trong đêm tối tội lỗi và sự chết. Người là niềm vui cho những kẻ khó nhọc gồng gánh nặng nề. Ngườii là chốn tựa nương cho những ai cô đơn thất vọng…”.

Giữa đêm tối của thất vọng, đau khổ, thử thách, ánh sao sáng Kitô dẫn lối cho lữ khách về Quê Trời, như đã hướng dẫn ba nhà chiêm tinh từ phương đông đến Giêrusalem, vì chính Chúa Kitô là ánh sáng thật: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi sẽ không đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga. 8,12). (Theo “Chờ đợi Chúa”).

11. Kinh nghiệm gặp Chúa

Dưới đây là chứng từ của một thanh niên Canada, tên là Anrê 18t tuổi, về kinh nghiệm về gặp gỡ Chúa Giêsu sau những năm chìm đắm trong trụy lạc ma túy:

 

“Tôi sinh ra trong một gia đình mà cha mẹ sống bất hòa, nên tôi cảm thấy thiếu vắng tình thương, phải tìm tình thương ở vỉa hè đường phố trong ma túy dâm ô. Do đó năm 14 tuổi tôi bị mổ tim, càng thêm bệnh hoạn sầu khổ, thì càng sa vào thú vui, ma túy.

 

Nhưng suốt trong thời gian đen tối của cuộc sống trụy lạc của tôi, mẹ tôi vẫn cầu nguyện cho tôi, và Chúa Giêsu đã soi sáng cho tôi trở về gặp lại Người, như Người đã thương dẫn đường cho ba nhà chiêm tinh đến thờ lạy Người. Ba nhà chiêm tinh đã dâng lên Người: “Vàng, nhũ hương và mộc dược. Còn tôi, tôi dâng cho Người tội lỗi của tôi, lòng sám hối của tôi, nước mắt hối hận của tôi. Tôi trao cho Người tất cả khốn cùng của cuộc đời tôi: ma túy, dâm ô…

 

Và từ đó, tôi cảm thấy say mê tình yêu Chúa. Tôi muốn dâng cho Người tấm lòng của tôi. Tôi muốn dâng lên Người lời loan báo của tôi cho mọi người nhìn biết Người là Ánh Sáng ban sự sống, là Ánh Sáng thực soi dẫn mọi người về Quê Hương Thật… (Theo “Phép lạ trên biển cả”)

12. Tôi đã gặp Người

Trong số ra tháng 6 năm 1995, nguyệt san của các linh mục Hội Thừa Sai Ba Lê có đăng chứng từ việc trở lại Công giáo của một thiếu nữ Khơme tên là Iari. Chứng từ có tựa đề là: “Từ Á Châu đến Pháp Quốc, từ Phật Giáo đến Công Giáo”.

 

Chính cô Iari viết:

“Con đường dẫn tôi đến Bí tích Rửa Tội thật dài.

 

Tôi sinh ra trong một gia đình Phật giáo sùng đạo. Phật giáo chiếm một chỗ quan trọng trong đời tôi. Khi đến Pháp, tôi ngạc nhiên thấy người dân ở đây không nghĩ gì đến Phật giáo. Sự kiện đó khiến tôi tự hỏi: Tại sao mình không thử tìm hiểu Kitô giáo?”

 

Thêm vào đó, tôi thấy những người Công giáo ở đây đối xử rất tư tế với tôi, khiến tôi thắc mắc: “Tại sao những người này sẵn sàng quảng đại giúp đỡ mình. Mặc dầu họ không quen biết mình?” Chính họ đã giúp tôi khỏi trại tỵ nạn và đưa về sống tại Pháp.

 

Năm 1984, tôi phải trải qua một thời kỳ khó khăn trầm trọng, bà chủ chỗ tôi làm tìm mọi cách đuổi tôi. Bỗng nhiên trưa hôm đó, có một động lực thúc giục tôi đến nhà thờ gần đó. Tôi vào nhà thờ cầu nguyện. Tôi chẳng biết cầu nguyện cách nào. Tôi chỉ biết nói những gì lòng tôi mơ ước. Và lạ thay, tôi đã thoát khỏi tai nạn. Tôi đã đến giáo xứ đó và xin học giáo lý. Vài tuần sau, những người xunh quanh ngạc nhiên hỏi tôi: “Chắc cô đã tìm được người giúp đỡ, vì thái độ của cô hoàn toàn đổi khác”. Tôi đơn sơ trả lời: “Phải, tôi đã gặp được một người, người đó không ai khác hơn là chính Chúa Giêsu. Người đã ban cho tôi niềm vui, an bình, hạnh phúc…”

--------------

Phải chăng thiếu nữ này đã được ánh sao sáng của Chúa Hiển Linh soi dẫn nhận biết Chúa, qua các Kitô hữu đã giúp đỡ cô? Mỗi việc bác ái, mỗi cử chỉ yêu thương là một cử hành hiển linh cho những người còn ngồi trong bóng tối. Một khi những người ở trong bóng tối nhận được ánh sáng hiển linh, họ cũng trở nên ánh sáng hiển linh cho người khác như lời cô Iari này: “Đời tôi giờ đây thay đổi hẳn… Tôi biết rõ đời mình đi về đâu. Nhất là tôi biết mình được Chúa yêu thương, tôi muốn yêu thương người khác. Tôi cầu xin Chúa cũng thương soi sáng cho mọi người gặp được Chúa như tôi…” (Theo “Phép lạ trên biển cả”).

 

13. Sức mạnh của sự dữ

Đến giờ phút này, người ta vẫn chưa biết rõ ai là thủ phạm, là người chủ mưu trong vụ khủng bố kinh khủng diễn ra tại Hoa Kỳ vào sáng thứ ba ngày 11.09.2001. Nhưng điều chắc chắn là tai họa trút xuống New York và Washington của Hoa Kỳ mãi mãi là cuộc khủng bố tàn bạo dã man nhất trong lịch sử nhân loại. Một cuộc khủng bố xảy ra trong một quốc gia có hệ thống phòng thủ xem ra an toàn nhất thế giới, Một cuộc khủng bố cũng diễn ra như các cuộc đánh bom khác. Nhưng thay vì chất nổ được cột vào thân thể vài người cuồng tín, thì giờ đây là nguyên những chiếc máy bay bị không tặc cướp lấy làm thành những trái bom khổng lồ dội xuống hai tòa nhà của trung tâm thương mại thế giới, gây thiện hại nặng nề kinh khung về của về người. Phải công nhận đó là sức mạnh của sự dữ…

------------

Sức mạnh của sự dữ đó nhắc chúng ta nhớ đến hành vi tàn bạo của vua Hêrôđê, lúc ông ta “biết mình bị các nhà chiêm tinh đánh lừa thì đùng đùng nổi giận, sai nguồi đi giết tất cả con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẻ các nhà chiêm tinh (Mt.2,16). Ông tin chắc sẽ giết được Hài Nhi Giêsu là Người có thể sau này sẽ chiếm đoạt ngai vàng của ông ta.

 

Nhưng Thiên Chúa làm sao phải khuất phục ác ý của con người bạo tàn: ”Khi các nhà chiêm tinh đã ra về. Kìa sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse: ”Này ông, dậy đem Hài Nhi, và Mẹ Người trốn sang Ai Cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi đấy.” (Mt. 2,13).

 

Khi sự dữ và tăm tối đã chế ngự tâm hòn con người, thì nó biến thành một sức mạnh mà không ai có thể chống trả được, như trường hợp cuộc khủng bố ngày 11.9.2001 ở Hoa Kỳ. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác hẳn, dù sức mạnh của sự dữ, của kẻ ác mạnh mẽ bao nhiêu, tàn bào thế nào cũng không thể thắng nổi quyền năng và sự sáng suốt của Thiên Chúa.

 

Điều đó mời gọi các Kitô hữu chúng ta tin tưởng phó thác vào Chúa suốt đời, nhất là trong những lúc gặp gian lao thử thách. (Theo “Ánh sáng thế gian”).

 

 

Tác giả: