Nhảy đến nội dung

Ném Lửa vào mặt Đất

Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất

và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên

( Lc 12, 49)

 

Ném Lửa vào mặt Đất

Không phải hai ngày qua trời nóng quá, nhưng còn một ngọn lửa âm ỉ cháy mà ít người để ý đang bùng phát chung quanh: Lửa nhiệt thành trong hàng chục ngàn người tôi gặp, sống với hôm qua và bữa nay, thành đề tài chia sẻ của tôi.

Từ nhà trọ, chúng tôi trở vào tu viện thì đã quá 11 giờ trưa, tôi nói với chị tôi: “ Giờ nầy mình mới tới chắc không còn chỗ trống trong các hội trường hội thảo đâu !”. Các chuyến bus tiếp tục đổ người xuống khuôn viên đại hội, người mỗi lúc một đông hơn, có người bảo: Chưa phải là cao điểm đâu, ngày mai mới là ngày đông nhất ! Vậy mà hai chị em tôi đi vòng quanh các hội trường nơi nào cũng đầy ắp người, đóng cửa không cho bên ngoài tràn vào các buỗi hội thảo bên trong. Có người thấy hai chị em cứ lóng ngóng ngoài cửa thì chỉ cho: Muốn vào nghe giảng giờ kế tiếp, mấy chị đi ra cửa chánh của hội trường xếp hàng đi thì mới có chỗ cho giờ sau. Chúng tôi mừng quá hỏi cửa chính đâu thì được chỉ cho. Thì ra theo sắp xếp mới, tới giờ hội thảo hội trường mới mở cửa cho người vào, không ai được ở lại giữ chỗ, chiếm chỗ từ giờ hội thảo trước, tạo cơ hội đồng đều cho mọi người, dù đến trể như chúng tôi. Hai chị em mừng quá, chạy vội ra cửa chính xếp hàng đợi giờ hội thảo sau, hàng xếp chưa đông, tôi không còn lo hết chỗ nữa. Cám ơn Chúa, hay ơn Mẹ (?), dành cho mấy đứa lớ ngớ như tụi con còn được một chỗ cho giờ sau, muộn màng giờ thứ 11 vẫn được phần mà, chúng tôi mỉm cười nói với nhau. Cảm nhận về tình thương bàn bạc của Trời Cao tuôn đổ âm thầm trên chúng tôi, làm lòng tôi thêm xao xuyến, thắm thía ơn nghĩa của Trời che, Đất chở và tình Người dào dạt, cho ân tình thêm chan hòa đằm thắm.

Ngày trước lúc còn ở Dalat thì dòng Đồng Công và Viện Đại Học Dalat đã có những liên lạc thắm thiết. Trên cùng một con đường, ba ngọn đồi kế tiếp nhau, đồi Giáo Hoàng Học Viện đại chủng viện đào tạo linh mục, kế đến là đồi Đại Học của VĐH Dalat, xa thêm chút nữa miệt Đa Thiện là chi dòng Đồng Công, nơi có cư xá cho sinh viên. Các sinh viên, tu sĩ từ các tu viện, học viện kia cũng thường qua học bên đại học Dalat, cách nào đó, hơn 40 năm trước có những người trong chúng tôi đã là những bạn đồng môn năm cũ, nên khi bước vào đây tôi nhớ lắm câu : Quân tử dĩ văn Hội Hữu, dĩ Hữu phụ Nhân. Các ân sư của chúng tôi có người đang an nghỉ trong nghĩa trang nhà dòng bên cạnh, tôi có hỏi nhưng chưa tìm được các mộ phần để kính viếng, đành hẹn lần sau. Lòng rưng rưng khi đặt bút viết tên các vị vào phiếu xin lễ cho các ngài trong những ngày nầy; lòng bồi hồi như thổn thức khi nghe một linh mục, mà tôi không biết tên, trong Thánh Lễ nhắc nhở câu “ Nhất tự vi sư, bán tự vi sư ”. Ôi những bậc thầy đã dạy con thế nào là Nhân Bản, thế nào là tình Dân Tộc, nghĩa Đồng Bào để con vào đời với hành trang mang nặng ân tình, những món nợ ân tình biết ngày nào mới trả cho xong.

Có người khuyên hãy quên đi quá khứ, hướng tới tương lai, nhưng chính nhờ quá khứ chúng ta mới học được kinh nghiệm. Quá khứ là nơi duy nhất trong cuộc đời cho chúng ta những kinh nghiệm quí báu của đời sống, dù rất nhiều khi kinh nghiệm quá đắng cay. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã từng nhắc nhở những nhân vật của quá khứ, Abraham, Gia-Cóp, I-xa-ác; và câu chuyện biến hình trên núi Tabor, Chúa Giêsu đã trò chuyện với các ông Mô-sê, Isaia, cho chúng ta thấy Vị Thầy của các bậc thầy không quên quá khứ, nhưng Người nhìn quá khứ với một nhãn quan mới vì đối với Thiên Chúa tất cả đều đang Sống (Lc 20, 38 ). Giòng sông Sự Sống luân lưu là một Ơn Ban lớn lao nhất của Thiên Chúa dành cho con người, chuyên chở những điều vô cùng quí giá của biết bao kinh nghiệm khôn ngoan vượt qua thù hận, để tiến hóa vượt trên hủy diệt dập vùi. Không biết học những kinh nghiệm của quá khứ để mà sửa đổi, cải tiến, con người cũng sẽ đánh mất tương lai.

Giờ hội thảo đầu tiên của chúng tôi cho lần về lại đại hội nầy, hai chị em vui vẻ đón chờ trong hội trường rộng lớn, sức chứa hàng ngàn người mà không phải ai cũng có được ghế ngồi. Chiếc ghế tự nhiên thành như ơn Chúa cho, chỉ là vật dụng chẳng chi lớn lao, nhưng cũng đem lại chút niềm vui khôn tả dù bé nhỏ, muộn màng. Giảng thuyết là một linh mục nổi tiếng vững vàng về thần học, cha thường trích dẫn Thánh Kinh khi diễn giải. Bài giảng khúc chiết, căn bản trên những điều tôi đã biết, đã học. Cha nói một chút về Thiên Đàng và Hỏa Ngục: Có Thiên Đàng có Hỏa Ngục là có Thưởng và có Phạt của Thiên Chúa công minh. Bấy lâu rồi giáo lý Thưởng-Phạt nầy tôi đã thuộc nằm lòng: Sống tốt lành, chết được lên Thiên Đàng hưởng phước đời đời với Chúa; sống độc ác hung dữ, chết xuống Hỏa Ngục đời đời kiếp kiếp với qủy. Hồi nhỏ tôi sợ hỏa ngục lắm, nơi có mấy con quỉ đen xì lì, có sừng, có đuôi ai mà không sợ; nhất là mấy con quỉ hón cha Hoàng Yến dạy cho tụi con nít thì ghê ơi là ghê, hồi đó tôi thích nghe Cha Yến giảng phòng chuẩn bị Thêm Sức, Bao Đồng cho thiên đàng tuỗi thơ thêm trong sáng. Tới bây giờ tôi vẫn tin có Thiên Chúa và có ma quỉ, niềm tin ấy trở thành xác tín chớ không phải giỡn chơi. Như thế, tôi cũng tin chắc chắn có Thiên Đàng và Hỏa Ngục, nhưng hình ảnh Thiên Đàng và Hỏa Ngục ấy khác với thiên đàng và hỏa ngục hồi xưa tôi tin, điều nầy làm một vài người bạn cho là tôi lạc đạo!

Thiên Đàng đó với tôi là nơi có Chúa, và ngược lại, hỏa ngục là nơi ma quỉ, hay gọi rõ hơn là nơi thống trị của Kẻ Đối Nghịch cùng Thiên Chúa. Thiên Đàng hồi xưa là nơi chết mới được về để hưởng phước đời đời, mà xem chừng cái Hưởng Phước Đời Đời nầy mới hấp dẫn người ta hơn là chính Thiên Chúa. Sau nầy, khi tập làm Linh Thao, tôi được làm quen với nếp suy tư:

Lạy Chúa Kitô,

Điều làm con khắc khoải, khát mong

Chẳng phải là nước Thiên Đàng, Ngài hứa ban cho con!

Cũng chẳng phải là hỏa ngục khủng khiếp, làm con bàng hoàng kinh hãi

khi giáp mặt với cơn giận của Ngài.

Điều làm con khắc khoải là chính Chúa

cho dù không có thiên đàng, con vẫn yêu mến Chúa

cho dù không có hỏa ngục, con vẫn kính sợ Ngài

Để con yêu mến Ngài, chẳng cần Ngài ban sự gì cho con!

Bởi vì giờ đây, con không có khát vọng nào khác

là được yêu mến Ngài không bao giờ thay đổi.

( Thánh Francis Xavier)

Và ngọn lửa đó đã được thắp lên trong Tâm Tư tôi, dẫn tôi đi qua mọi nẻo đời gian nan hay khốn khó, đau khổ hay cô đơn. Thiên Đàng đối với tôi là được thuộc về Chúa; Hỏa Ngục đối với tôi là khi thuộc về Kẻ Đối Nghịch với Ngài, ngay trong đời sống hôm nay. Và tôi cũng nhận ra bản chất của ma quỉ là dối trá và độc ác, ngược lại với Thiên Chúa là Đấng thành tín và yêu thương. Điều làm tôi an tâm hơn cả là tôi biết Chúa yêu thương con người, nên Ngài cũng vô cùng yêu thương tôi bất luận những sai trái, lầm lỡ tôi vấp phạm. Thiên Chúa quả thật là hình ảnh Người Cha nhân từ, luôn luôn tìm kiếm, chờ đợi để đưa tôi về gặp gỡ Ngài, ngay trong những ngày tôi sống, chứ không đợi đến chết mới được gặp Ngài.

Đông Phương thì khác, họ không đặt Thưởng-Phạt nhưng là An, đó là đích điểm mà chỉ khi nào đạt tới thì lòng mới được an nghỉ: "tựu hữu Đạo, nhi chính yên", tương tự với câu của Thánh Augustin: "lòng tôi chỉ được an nghỉ khi tìm được Chúa tôi"(*). Điều làm con khắc khoải là chính Chúa, để con yêu mến Ngài, chẳng cần Ngài ban sự gì cho con! ( Thánh Francis Xavier). Tựu hữu Đạo cũng là tìm thấy hay nói đúng hơn là đạt đến sự thức tỉnh của tâm linh, từ bình diện "thành công" chuyển sang bình diện "thành tính". Tâm thức di chuyển từ hữu vi lợi hành lên "an vi" siêu thoát(*). Nên người đạt Đạo là người tìm được An Bình nội tâm ngay trong đời sống hôm nay.

Thiên Chúa ở bên trong con, mà con cứ tìm Chúa bên ngoài nên không gặp (Thánh Augustin), muốn gặp Chúa thì phải trở vào bên trong tâm hồn, đây là điểm tương đồng giữa Đông và Tây Phương. Phương pháp tâm linh tuy có khác nhau, nhưng tựu chung vẫn là con đường bên trong tâm hồn. Tây Phương dùng cầu nguyện để đi vào nội tâm “Gặp Chúa”; Đông Phương, đúng ra là Á Đông thì dùng 4 bậc: định, tĩnh, an, lự của tâm linh để đạt Đạo, đạt Chí phối Thiên, kết hợp với Trời, nguồn sáng trong Tâm như bên Viễn Đông. Đừng nghĩ Tâm Linh theo hình thức một người tay bắt ấn, chân xếp bằng, mắt lim dim, miệng lâm râm, ngồi bất động niệm thần niệm chú. Nhưng hãy nhìn Tâm Linh như một phương cách kết hợp Tâm Tư con người và Nguồn Thiêng Liêng trong sáng bên trong để đạt Đạo, tức là con đường giải thoát con người. Còn cửa hẹp và Đường chật thì đưa đến Sự Sống mà ít người đi.(Mt 17, 24), con đường của Cầu Nguyện và Tỉnh Thức để lắng nghe và gẫm suy Lời Thiên Khải, Lời Ban Sự Sống, cho tâm hồn đạt Bình An, khi kết hợp được với Thiên Chúa là nguồn Sự Sống và Bình An.

Lúc chồng tôi còn trên giường bệnh chống chọi với cơn bệnh ngặt nghèo cuối đời, mỗi sáng trước khi vào bệnh viện thăm chồng tôi thường dự Thánh Lễ, rước lễ để cùng lúc xin rước Mình Thánh Chúa cho chồng theo lòng khát khao mong ước của anh. Ngày đó, bài Phúc Âm nói về lời chúc Bình An cho nhà nào xứng đáng, dĩ nhiên tôi xao xuyến rất nhiều với đoạn Phúc Âm được nghe, tôi thưa chuyện nầy với Chúa ngay trong Thánh Lễ để xin được lắng nghe Tiếng Chúa giải thích cho tôi có phải tôi bất xứng không? Tâm hồn chìm đắm trong nỗi sầu khổ thiêng liêng khó tả. Trên đoạn đường ngắn từ cung thánh sau khi rước lễ trở về chỗ ngồi, tự dưng tôi nghe được tiếng nói từ thâm tâm: “ Thầy nói với con bao lần rồi, Bình An của Thầy ban cho con không phải như bình an thế gian ban tặng. Con đang có Thầy trong lòng, có Thầy bên cạnh, từng đó không đủ Bình An cho con sao?”. Tôi chợt hiểu tức khắc Bình An Có Chúa trong nội tâm mới là Bình An thật, tôi đang Có Chúa trong tôi, niềm Bình An Có Chúa chiếm hữu tôi, biến nỗi buồn thành niềm vui khôn tả, không ai hay không gì có thể cướp mất Bình An đó ra khỏi tôi.

Từ đó, tôi bắt đầu ghi nhận những biến chuyển nội tâm, đôi khi trùng hợp với những dấu chỉ bên ngoài dù nhỏ nhặt hay thoáng qua, nhưng cũng đủ cho tôi nhận ra những điều kỳ diệu trong đời sống, mà tôi gọi là mầu nhiệm, khó giải thích nhưng không phải là không có. Lúc đó những hiểu biết về tâm linh còn rất lờ mờ, cho đến khi cơ duyên nào cho tôi đọc được những tài liệu giải thích về Tâm Linh theo Đông Phương, cho tôi biết được những gì từng trải tôi đã sống, gọi là thể nghiệm, là điều thực sự hiện hữu. Khi nhận thức được hiện hữu của Tâm Linh, tôi nhận rõ hơn sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng thiêng liêng siêu việt tưởng là ngàn trùng xa, thật ra vô cùng gần gũi với con người, với tôi, mà nếu không có Tâm Linh theo cách hiểu của Đông Phương, tôi khó nhận ra.

Tôi nhớ đến Mẹ Têrêsa Calcutta, vĩ nhân của thời đại, một người mà đối với tôi đã là Thánh dù chưa được phong vì những ngưỡng mộ của tôi dành cho Mẹ bấy lâu. Công việc bác ái của Mẹ rất to lớn, coi như một thành công mà ai cũng phải công nhận. Nhưng song song với chương trình Bác Ái lớn lao đó, một điều gây ngỡ ngàng không ít cho nhiều người, và cho tôi, vì những hụt hẫng tinh thần bên trong nội tâm của Mẹ Teresa Calcutta, mà người có đạo gọi là “ Đêm Tối Đức Tin”, tạo sầu khổ thiêng liêng   nơi tâm hồn Mẹ một thời gian rất dài mà không linh hướng nào giúp Mẹ vượt qua. Tôi cảm thông với Mẹ thật nhiều vì tôi cũng là người sầu khổ dù hèn mọn, thua kém Mẹ rất xa nhưng, hạnh phúc cho tôi, vì sớm nhận ra Tình Thương và Sự Hiện Diện của Đấng tín thành hay thương xót, Chúa Giêsu Đấng Cứu Độ tôi, luôn tỏ những an ủi thiêng liêng mà tôi thật sự cảm nhận được qua con đường hẹp của Tâm luôn kết hiệp với Người bên trong tâm hồn. Con đường tâm linh thẳm sâu, chưa được hiểu rõ, chưa được nhìn nhận nơi Tây Phương, nên mặc dù Mẹ Têrêsa đã có đời sống tâm linh thật dồi dào, thâm trầm và phong phú, luôn kết hiệp với Chúa, chuyện trò cùng Chúa Giêsu, mà không được ai giải thích tường tận, giúp Mẹ nhìn ra Sự Hiện Diện quí báu của Chúa Giêsu dành cho người con dấu yêu của Người là Mẹ Têrêsa Calcutta, để Mẹ phải triền miên rơi vào sầu khổ thiêng liêng trong tâm tư !

“Những tổ chức trong phạm vi xã hội, việc tái võ trang tinh thần, bụi rắc mắt của những hoạt động văn hóa, tất cả những thứ đó không sao đạt tới căn cơ. Mặc dầu đầy thiện chí, đầy cố gắng không ngừng nghỉ, tất cả những hoạt động trên chỉ là chi cành, vá víu từng ngày"( Heidegger) (*). Vì mãi đến hôm nay, Bình An thật sự chưa có trên địa cầu cho dù qua biết bao hòa ước, hiệp ước đã được ký kết. Biết bao cuộc vận động cho Hòa Bình thật rầm rộ khắp đó đây từ bấy lâu nay, nhưng chiến tranh đã không lùi bước, không mất đi mà càng ngày bộ mặt hung ác của chiến tranh càng hiện rõ, gieo kinh hoàng đau thương tang tóc cho con người. Bình An thật, vững bền không có bên ngoài nhưng chỉ có trong tâm hồn khi được kết hợp mật thiết với Đấng là Nguồn Bình An. Hòa Bình thật không có nơi các hòa ước, hiệp ước nhưng có trong Thiện Tâm của con người.

Căn cơ là gì nếu không là Tâm của con người ? Bấy lâu nay người ta nghĩ ngợi nhiều chuyện, thực hiện nhiều công trình vĩ đại bên ngoài mà không để ý tới Tâm bên trong để rèn luyện nhân tâm, loại bỏ ác tâm. Đạo Công Giáo dạy người ta nhận rõ ba thù: ma quỉ, thịt mình và thế tục, đó là cách đơn giản để dễ nhìn ra những gì làm hại con người từ Sự Ác lớn lao bên ngoài, đến những cái ác riêng tư bên trong tâm hồn. Bước đầu con đường rèn luyện nội tâm của Đông Phương là Định và Tĩnh trong tĩnh lặng nội tâm, biết định vị và định hướng chính cái Tâm của mình mà tìm ra Tâm Chính. Con đường Tâm Chính sẽ dần hồi qui hướng con người về Thiện, để Thiện Tâm được tìm gặp mà dần hồi chuyển hóa Ác Tâm để cái Ác được thay đổi thành Thiện, để Thiện được chiếm hữu tâm hồn và Thiện Tâm sẽ ảnh hưởng cả con người từ con người bên trong ra đến nếp sống bên ngoài. Ảnh hưởng đó sẽ lan tỏa trong Tâm con người thế nào thì nếp Thiện do Thiện Tâm hướng dẫn sẽ tỏa lan ra ngoài, từ từ ảnh hưởng đến người khác, đến cuộc sống chung quanh như vậy. Con đường hồi hướng về Tâm để qui hướng về Thiện nầy không dễ chút nào vì con người phải chiến đấu với chính mình và thế giới chung quanh bằng tự sức, tự lực không gì trợ giúp. Riêng đối với người có Đạo, danh từ riêng chỉ người Công Giáo ( hơi bất công chút, phải không?!), thì cuộc chiến nầy vẫn có nhưng được trợ giúp rất mạnh mẽ từ Thiên Chúa với các Ơn Thánh của Người. Thiên Chúa là Mặt Trời Công Chính trong Tâm người có Đạo, được nhìn thấy rõ hơn, chói chang hơn, đến độ người Công Giáo sinh lười biếng ( xin lỗi!), chẳng cần làm gì cả, chỉ khoanh tay ngồi đó cầu nguyện, cầu xin Chúa, Chúa cho, chẳng cần rèn luyện nội tâm ! Người ta chỉ biết nhìn Thiên Tâm mà quên mất Thiện Tâm. Người ta quên Lời khuyên của chính Chúa Giêsu được Người nói giữa lúc nói về viễn ảnh hỗn loạn thời thế mạt: “ Vậy anh em hãy Tỉnh Thức và Cầu Nguyện không ngừng, hầu đủ sức thoát khỏi những điều sắp xãy đến và dứng vững trước mặt Con Người “ ( Lc 21, 36). Cầu Nguyện không không đủ, cần Tỉnh Thức để nhìn rõ Con Đường đúng để theo, nhứt là để theo trong thời kỳ hỗn loạn, cực kỳ hỗn loạn. Vì Cầu Nguyện mà không Tỉnh Thức, người ta sẽ rơi vào mơ mộng, vọng tưởng, chỉ nghĩ chuyện trên Trời và quên chuyện dưới Đất đang thực sự xãy ra để đối phó, “Tại sao các ông còn mãi nhìn trời ?”( Cv 1, 11). Cầu nguyện mà không Tỉnh thức dễ rơi vào lầm lỗi của mê tín, là thứ đáng sợ hơn tội lỗi vì khó nhận ra. Tỉnh Thức mà không cầu nguyện dễ qui hướng về chính mình, sinh ngạo mạn kiêu căng, bất cần Chúa, bất cần Trời, là thứ lầm lẫn đáng sợ hơn.

Chẵn lẽ, âm dương là hai, nhưng hai mà một. Nếu xem bằng mắt trần thì chỉ thấy có hai, rồi chọn một bỏ một. Còn xem bằng mắt tâm linh thì thấy hai mà một. Trên hoàn vũ hầu như không có nước nào có vật biểu đi đôi: tiên rồng như Việt, nên đó là nét đặc trưng quí vô biên, vì đó là nền tảng siêu hình cho các cuộc hòa giải, các cuộc thống nhất. ( Kim Định, Hưng Việt ) Thế giới đang tan rã và cần tìm ra một nguyên lý gây dựng lại hòa hợp(*). Mà Hòa Hợp xét ra không có con đường nào thích hợp hơn, chính xác hơn là Con Đường Tâm Linh, Con Đường chật bên trong Tâm Hồn nhưng đem nhân loại về Sự Sống của cả Đạo Chúa của Thiên Chúa Giáo, hay chính xác hơn là Công Giáo, và Đạo Phối Thiên, kết hợp với Trời trong Tâm, của Việt Tộc.

Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn,

cho Vầng Đông từ chốn cao vời viếng thăm ta

soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối

và trong bóng tử thần

dẫn ta bước vào đường nẻo Bình An.

( Kinh Chúc Tụng Đức Chúa )

Trong thế giới hỗn loạn hôm nay, tia lửa đầu tiên mà Chúa Kitô muốn đem vào thế giới là Bình An trong Hòa Hợp của Tình Thương, là ánh sáng Hòa Bình của Tình Thương, bằng Tình Thương, dù Người không nói rõ như vậy để chính con người phải đi tìm; và Thầy những ước mong phải chi Lửa ấy bùng lên. Tia lửa có thể thắp lên ngọn nến để không ngồi nguyền rủa bóng tối, mà tia lửa cũng có thể làm cháy bùng ngọn lửa của tàn phá, của tiêu hủy, tùy cách ném, cần Tỉnh Thức và Cầu Nguyện thật nhiều để nhận ra.

Vầng Đông, Mặt Trời Công Chính, không phải chỉ nói về Mặt Trời vật lý soi sáng thế gian, nhưng là gì nếu không là Mặt Trời trong Tâm để soi sáng con người tinh thần bên trong của con người ? Mặt Trời đó chỉ được nhìn thấy bằng mắt của Tâm Linh trong sáng, Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa (Mt 5, 8) trong đường hồi hướng qui Tâm, để nhìn thế giới, con người trong cách nhìn mới mẻ, hòa hợp những dị biệt mà mãi đến hôm nay con người vẫn chưa nhận ra nếu nhìn theo mắt thể lý, hay vật lý quen chọn một bỏ một như từ trước đến nay. Chưa thấy Linh quy vì chưa thấu vào vòng trong Tự thể như nhiên (chose-en-soi) mà vẫn còn vướng lại vòng ngoài đối kháng nhị nguyên: chọn một bỏ một, nên chung cục chỉ là một chiều, độc khối. Tất cả đều ở vòng ngoài nên khi triết học đốc ra khoa dạy các tổ hợp ý kiến đó thì có học hết các triết gia đông tây kim cổ cũng chỉ là nhọc trí óc gân mạch cân não mà không mảy may sinh động hứng khởi, không thể gây nên một nếp sống, gợi ra một hướng đi. Chỉ có những chân lý hữu hạn mới có thể đối kháng, vô cùng không thể đối kháng; lý trí có cùng không sao cấp phát vô cùng tính cho cái chi được, "phải có mới cho được". Nhĩ mục chi quan bất tư, Tai Mắt và lý trí là những cơ năng có cùng không sao đạt được cái vô cùng. Dùng những sản phẩm trực thị của chúng (données immédiates sensorielles) là việc của lưu tục, của chân lý thế gian…(*). Các ông đừng xét đoán theo bề ngoài nữa, nhưng hãy xét đoán cho công minh ( Ga 7, 24)

Hòa hợp giữa Trời-Đất và Người, người xưa gọi là "thiên địa nhân giao hỗ kỳ căn". Tam tài giao nhau ở căn để chứ không ở vòng ngoài. Vòng ngoài là vật giao vật. Vòng trong mới là giao hỗ kỳ căn. Căn là tâm con người. Vì thế mới nói "tâm chi quan tắc tư". Và chỉ có cái Tư trên căn để đó mới đắc đạo, đắc lý, đắc nguồn suối tuôn trào sáng láng và mạnh mẽ(*). Nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời ( Ga 4, 14). Tâm như vậy là cái gì vượt nhĩ mục, vượt giác quan, nhưng thực sự là cái chi thì chúng ta không thể nói được, nhưng chỉ nói về lối suy tư, cảm nghĩ và sống sao đặng cho có thể cảm nghiệm để rồi thể nghiệm. Do đó không được xa lìa mình để tìm Đạo, vì "Đạo không xa người". Đạo không ở xa mình, Đạo không vật này hay vật kia mà gốc ở ngay nội tâm mình (kỷ) như trọng tâm bất kiến.

Chính vì thế người thấu hiểu triết lý có phong thái nhân lọai bình hành, không kiểu cách, không điệu bộ, không luôn miệng nói đến siêu hình, bàn về đức lý, vì đối với họ không có gì cách biệt giữa linh thiêng với đời sống thường nhật, và một cuộc sống bé nhỏ đến đâu, người đời cho là hèn mọn đến mấy cũng vẫn có đủ khả năng sống thuận theo thiên lý, sống ăm ắp đầy đạo, khỏi cần tìm đạo đâu khác xa hơn. Ngược lại bao lâu nghĩ rằng Đạo phải tìm ngoài vận mạng của mình, thì đấy là tả đạo, vì hễ đạo mà còn có thể ở kia mà không ở đấy thì là đạo hẹp hòi không phải chính đạo. Chân đạo vô biên: không đâu không ở, nên không gì không có đạo: "các hữu thái cực". "Khi chí đã để vào Đạo" tức là khi trọng tâm chú ý đã bỏ bình diện vuông thuộc cưỡng hành hoặc lợi hành để đi lên bình diện "thiên viên" của "an hành" thì từ hôm ấy người không còn đặt hết tin tưởng vào hạ trí, vào lý luận, vào sự kiện như trước nữa, nhưng hướng mạnh vào cõi Đạo thể Viên Dung viên mãn, chú tâm vào việc "thuận Tính Mệnh chi lý", tuân theo Tính Mệnh: nghĩa là đặt trọng tâm vào sự hiện thực cái "nhân tính", coi đó là sứ mệnh của đời mình. Từ đó thái độ người thay đổi nhiều: từ cử chỉ, hành vi cho đến thị kiến, tác phong, nếp sống… Vì người đã thực sự cảm thấy một thế giới khác, "một trời mới đất mới" (*)

Trời Mới Đất Mới ( Kh 21,1) nầy, là điều mới mẻ Thánh Gioan đã nhìn thấy được ghi lại trong chương cuối Khải Huyền, không phải là chuyện viễn vông trên trời rớt xuống, nhưng thực sự là điều có thể thực hiện được ngay trong đời sống, nếu người ta biết thay đổi cách nhìn cũ chuyển thành mới hôm nay. Cũ là vì đã có từ ngàn xưa, mới là tới bây giờ con người mới nhìn lại để tìm thấy khi con người nhận ra lối sống tưởng là huy hoàng đang có, đang đưa con người đến chỗ diệt vong.

Không có Tin Mừng nào khác đâu, nhưng nếu có ai, kể cả chúng tôi, hoặc một thiên thần nào từ trời xuống, loan báo cho anh em Tin Mừng khác với Tin Mừng chúng tôi đã loan báo cho anh em, thì xin Thiên Chúa loại trừ kẻ ấy đi ! Nếu có ai loan báo cho anh em một Tin Mừng khác với Tin Mừng anh em đã lãnh nhận, thì xin Thiên Chúa loại trừ kẻ ấy đi ! ( Gl 1, 7-8).

Không có Tin Mừng nào khác đâu, chỉ có một Tin Mừng là Lời loan báo Tin Mừng Bình An cho muôn dân của Đức Giêsu Kitô, vì Ơn Cứu Độ không đến từ Đông phương hay Tây phương nhưng Ơn Cứu Độ đến từ Thiên Chúa, Chúa của mọi quốc gia, mọi dân tộc. Tin Mừng nầy về Vương Quốc sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc được biết. Và bấy giờ sẽ là tận cùng (Mt 24, 14). Người bi quan thì cho là tận cùng, là chấm hết, là tận thế ! Không phải thế đâu, Tin Mừng ấy hôm nay đã được loan báo đến tận cùng trái đất, các dân tộc đón nhận theo cách nhìn khác nhau, theo từng văn hóa khác nhau của các dân, các nước mà Thiên Chúa đã định cho họ, không làm giãm giá trị Tin Mừng, nhưng làm cho Tin Mừng được phong phú hơn lên, được dồi dào hơn lên mà gia tăng giá trị của Tin Mừng Sự Sống, làm thay đổi con người để nhân loại được Sống. Sự Sống dồi dào, đời nọ tới đời kia là Ơn Huệ quí giá Chúa ban cho nhân loại, sẽ không còn chỉ đóng khung trên thiên đàng xa thẳm, nhưng hạnh phúc Thiên Đàng đó đã bắt đầu nhìn thấy hôm nay, ngay trong thế giới đầy hỗn loạn, khổ đau nầy. Sự Dữ không đến từ Thiên Chúa nhưng trong Ơn Ban của Thiên Chúa, trong tay Quyền Năng, Nhân Lành và Xót Thương của Thiên Chúa, Sự Dữ sẽ trở nên Lành. Thập Giá Chúa Kitô nói lên điều đó, Thập Giá Chúa Kitô cho đau khổ của con người mang một giá trị lớn lao vì Thánh Giá Chúa Kitô không những chuộc tội loài người mà còn là dấu chỉ, là chìa khóa mở cho nhân loại bước vào Sự Sống lớn lao, vô biên, ngay trong đời sống hôm nay. Vững Tâm mà bước theo Người vì Đường Người đi là con đường Sự Sống thật, để Sự Dữ, Ác tâm không còn quyền hành, ảnh hưởng chi trên con người.

Loại trừ không phải là đường lối của Thiên Chúa, ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài ( Ga 6, 37); nhưng loại trừ phát xuất từ tâm trí hẹp hòi theo cách nhìn hữu vi chọn một, bỏ một của con người. Thiên Chúa chà đạp kẻ thù ta, xin Chúa đánh vỡ mặt, đập gãy răng người khác chỉ vì họ khác với ta, là tư tưởng chủ đạo của vùng Trung Đông từ ngàn xưa, nên đừng ngạc nhiên khi nhìn thấy Trung Đông hôm nay đầy bạo loạn, tàn sát, khủng bố. Tia lửa loại trừ đã có ở vùng đất đó hàng ngàn năm qua, thì bây giờ ngọn lửa tiêu hủy phải bùng lên, vì bấy lâu nay họ chỉ nhìn lên Đức Chúa đầy quyền năng, mạnh bạo đem vinh quang đến cho họ mà không kể chi đến con người. Đức Kitô đã đem vào vùng đất ấy ngọn lửa Bình An đặt trên Tình Thương nhân bản, nâng con người lên thay vì chà đạp, cứu con người sống thay vì giết chết, qui tụ con người thay vì phân tán. Nhưng, tiếc thay, 2000 năm qua rồi người ta vẫn chưa hiểu, để đến hôm nay, vùng đất lý ra là nơi hội tụ của bao điều thiện hảo, tốt lành của con người thành vùng đất khô cằn, đầy máu lửa và chết chóc cho con người. Đức Kitô vẫn còn hấp hối mãi đến tận thế (Pascal) cho tiếng thở dài từ 2000 năm trước của Người vẫn còn vang vọng đến hôm nay! Bao lâu nghĩ rằng Đạo phải tìm ngoài vận mạng của mình, thì đấy là tả đạo, vì hễ đạo mà còn có thể ở kia mà không ở đấy thì là đạo hẹp hòi không phải chính đạo.(*) Nước Thiên Chúa không đến cách nhãn tiền, người ta sẽ không nói được : “ Này ở đây” hay “ Ở đó”, vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông, Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông( Lc 17, 20-21).

Lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng, Chúa cũ kỷ nhưng mới mẻ từng ngày đối với con ( Thánh Augustin)

Điều làm con khắc khoải là chính Chúa

cho dù không có thiên đàng, con vẫn yêu mến Chúa

cho dù không có hỏa ngục, con vẫn kính sợ Ngài

Để con yêu mến Ngài, chẳng cần Ngài ban sự gì cho con!

Bởi vì giờ đây, con không có khát vọng nào khác

là được yêu mến Ngài không bao giờ thay đổi. Amen.

( Thánh Francis Xavier, Cùng Chúa Kitô Trên Thập Giá)

Nam Hoa

Chú thích: (*) Kim Định, Tâm Tư

Tác giả: