Những lần vượt thoát
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Lm Phạm Quốc Hưng
NHỮNG LẦN VƯỢT THOÁT
Lm JBT Phạm Quốc Hưng, CSsR
Mỗi khi mừng Lễ Hai Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ, được nghe Lời Chúa trong sách Công Vụ Các Tông Đồ thuật lại việc Thánh Phêrô được thiên thần giải cứu khỏi ngục (Acts 12:1-11), tôi lại nhớ đến lần vượt trốn khỏi trại tập trung tại Việt nam vào đầu tháng 9 năm 1980. Đây là biến cố gian nan nhất, đáng nhớ nhất, ly kỳ nhất và đã để lại những dấu ấn sâu đậm nhất trong cuộc đời tôi. Đây thực sự còn là một biến cố hồng ân, khiến tôi cảm nghiệm rõ nét nhất sự quan phòng kỳ diệu và ân cần của Chúa, sự sống động và thiết thực của Lời Chúa, và sự chở che cứu giúp đầy ưu ái của Đức Mẹ trong cuộc đời của mình.
Trong Kinh Sách Lễ Thánh An-rê Tông Đồ 30/11/2020 vừa qua, Thánh Gioan Kim Khẩu, khi suy niệm về việc Thánh An-rê đã mau mắn chạy đến báo tin và đem em mình là Thánh Phê-rô đến với Chúa Giêsu, đã có môt nhận xét thật sâu sắc và ý vị sau: “Tình huynh đệ đích thực, tình máu mủ thắm thiết, tình yêu thương chân thành cốt ở điều này là thông truyền cho nhau những kho báu thiêng liêng.” Đây phải là động cơ chính trong mọi lời giảng dạy, truyện trò, chia sẻ, viết lách và mọi hoạt động tông đồ của mỗi môn đệ đích thực của Chúa Kitô. Trong tâm tình ấy, tôi xin gửi đến quý thân hữu và độc giả xa gần bài viết này, đã được đăng trên Nguyệt San Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp trong hai số báo tháng 9 và 10 năm 2002, và được tu chỉnh đôi chút trước khi gửi đến Thanhlinh.net. (Dec. 18, 2020)
Vượt trại đường rào
Vào Lễ Thánh Gioan Tiền Hô Tử Đạo ngày 29/08/1979, Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Giáo Xứ Tân Phú nơi tôi sinh sống lúc ấy dâng Thánh Lễ tiễn tôi lên đường đi “nghĩa vụ quân sự”. Đợt ấy, tôi là huynh trưởng duy nhất trong Đoàn phải đi quân dịch. Trước lúc lên đường, mẹ tôi khóc và đem tôi đến trước bàn thờ Đức Mẹ trong nhà và long trọng dâng tôi cho Đức Mẹ.
Hôm sau, cùng một số thanh niên ở cùng phường, tôi đến địa điểm tập trung của Quận Tân Bình để được đưa đến trung tâm huấn luyện tân binh (Quang Trung), nguyên là quân trường của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lúc trước. Trên xe, người ta cho mở những bài hát khích lệ tinh thần như “lá còn xanh như anh đang còn trẻ, lá trên cành như anh trong toàn dân...” Khi ấy, tôi vừa học xong trung học và đang chờ kết quả kỳ thi vào Đại Học Tổng Hợp Sài Gòn.
Ở quân trường tôi mới nghiệm thấy lời người ta thường nói “gối quân trường đẫm lệ tân binh” thật đúng. Xa gia đình lần đầu, tôi nhớ cha mẹ và anh em biết chừng nào! Nhất là khi phải cởi bỏ những bộ áo quần do tay mẹ may cho để mặc vào người bộ quân phục và đội lên đầu chiếc nón cối. Tôi xót xa tự nhủ: “Ba mình từng là sĩ quan cộng hòa, còn bây giờ mình thành ‘Việt Cộng’ mất rồi!” Anh em tân binh gốc miền Nam sửa lời bài hát “Cuộc đời vẫn đẹp sao, tình yêu vẫn đẹp sao...” thành “Cuộc đời cứ một sao, làm sao vẫn một sao...” để diễn tả tâm trạng u buồn vì không thấy ánh sáng trong cuộc đời tương lai.
Mỗi sáng, thay cho tiếng chuông thánh thót nơi nhà thờ giáo xứ dịu dàng mời gọi tôi đến tham dự Thánh Lễ là tiếng còi hụ đánh thức tân binh. Sinh hoạt mỗi ngày trong quân trường được bắt đầu bằng việc chạy bộ buổi sáng với bài hùng ca: “Hừng đông đã bừng sáng, núi non xanh ngàn trùng xa, tổ quốc bao la hiền hòa...” Trong ngày, chúng tôi phải tham dự các lớp chính trị và các buổi huấn luyện tập bò, tập ngắm, tập bắn... Kinh tế đang hồi khó khăn, bữa ăn của chúng tôi không có một hạt cơm nào mà chỉ toàn là bo bo, được gọi là “cao lương”. Anh em thường gọi đùa nhau là “đồng chí Bo Bo Nhai Lốp Cốp”!
Nhu cầu chiến trường tại Campuchia khi ấy thật cấp bách. Các khóa huấn luyện được cắt ngắn. Anh em trong quân trường được cảnh cáo về những hình phạt của tội đào ngũ. Cứ nghĩ đến cơm cha, áo mẹ, công thầy bao năm lo cho mình khôn lớn, mà giờ đây tôi phải lao mình vào một cuộc chiến để thí mạng cho một chế độ phi nhân, tôi cảm thấy cuộc sống bộ đội của mình thật phi lý!
Tôi gặp được Anh V., một anh bạn Công giáo cùng phường, để tâm tình chia sẻ với nhau; nhất là cùng lần chuỗi Mân côi với nhau. Đó là những giây phút an ủi nhất đối với tôi khi ở quân trường.
Chừng mười ngày sau, tôi được giấy báo tin trúng tuyển kỳ thi vào Đại Học Tổng Hợp, nhưng việc trúng tuyển đại học cũng không chuẩn cho tôi được giải ngũ. Sau khi suy nghĩ và cầu nguyện, tôi quyết định trốn ra khỏi quân trường để về nhà với ý nghĩ sẵn sàng chấp nhận án phạt “lao công đào binh” sau này. Cùng với một anh tân binh cùng phường, anh H., tôi đã leo rào trốn về nhà sau ba tuần ở quân trường. Anh em trong quân trường hay đùa là “về thăm gia đình với giấy phép của Đại Tá Rào!”
Đó là lần vượt thoát thứ nhất!
Vượt ngục đường rừng
Đúng như tôi dự đoán, gần một năm sau, vào buổi tối Lễ Đức Mẹ Mông Triệu ngày 15/08/1980, tôi bị công an phường đến tận nhà bắt lại. Khi bị tạm giam tại trụ sở phường, Ông D., bí thư chi bộ đảng ở phường lúc ấy thẩm vấn tôi. Ông khích bác cho rằng tôi hèn nhát không làm nghĩa vụ của thanh niên yêu nước..v.v... Tính nông nổi của tuổi trẻ khiến tôi tranh cãi với ông, cho rằng hy sinh cho cuộc chiến tại Campuchia để phục vụ cho một chế độ không đem lại hạnh phúc tại quê nhà là điều không đáng. Càng nói, tôi càng hăng, trong khi ông lắng nghe và ghi nhận tất cả.
Sau đó, tôi được đưa lên quận. Khi ở trung tâm tạm giam trên quận, ba mẹ tôi lên thăm nuôi và đem cả Mình Thánh Chúa cho tôi. Ba mẹ cho biết cả giáo xứ đang dâng lời cầu nguyện cho tôi. Tôi vui mừng vì có Chúa Giêsu Thánh Thể ở với mình. Mẹ tôi dúi vào tay tôi trăm bạc (tiền mới đổi) và bảo tôi: “Con cố gắng tìm cách về nhà. Dù con ở đâu mẹ sẽ cố gắng đến thăm con. Ba mẹ với các em luôn nhớ cầu nguyện cho con.” Tôi nghẹn ngào chỉ biết xin vâng. Trong lòng, tôi thầm mong ba mẹ đừng đến thăm. Sự hiện diện của ba mẹ chỉ làm tăng niềm đau của tôi, vì tôi không muốn thấy ba mẹ buồn khi nhìn thấy con mình trong cảnh ngục tù. Lúc ấy, tôi hiểu được phần nào niềm đau của Mẹ Maria khi gặp Chúa Giêsu trên đường Thánh Giá.
Biết có mấy anh Công giáo cùng bị giam với mình, tôi rủ các anh họp lại cùng cầu nguyện và chịu Lễ với nhau. Một hôm, tôi bắt gặp anh Tiến, một thanh niên trong nhóm cầu nguyện này, ngồi cúi đầu thinh lặng trước gói hành lý của tôi. Tôi hỏi anh: “Anh ngồi suy tư gì ở đây vậy?” Anh thành thật trả lời: “Mình muốn viếng Chúa Giêsu Thánh Thể đó mà!” Tôi giật mình bảo anh: “Xin lỗi anh! Mình quên cho anh biết là mình giữ Mình Thánh Chúa trong túi áo mình chứ không dám để trong gói hành lý.” Từ ấy, tôi chợt nhận ra sự thực kinh hoàng này: tôi đang là nhà tạm của Chúa Giêsu Thánh Thể!
Cũng tại nơi tạm giam này, tôi mượn được một cuốn thánh ca Việt Nam của một anh bạn Công giáo. Và tôi đã học thuộc hai bài thánh ca mà tôi sẽ ngân nga suốt những ngày tù tội. Đó là bài “Tình Yêu Thiên Chúa” của Thế Thông và Đình Diễn và bài “Êphata! Hãy Mở Ra” của Thành Tâm.
Ba ngày sau, chúng tôi được chuyển sang trại giam H35. Nơi đây, chúng tôi bị quản thúc tập thể như trong trại lính. Hai ngày sau khi nhập trại, ban quản trại cho gọi tôi lên trình diện. Khi nghe họ chất vấn, tôi chợt nhận ra rằng họ đã nhận được báo cáo của ông bí thư chi bộ phường. Chắc hẳn trong báo cáo đó, ông đã tố cáo rằng tôi là một thành phần nguy hiểm vì có tư tưởng và lập trường chống chế độ. Thế là ngay sau cuộc trình diện đó, tôi bị áp giải qua trại biệt giam K39.
Trại K39 nguyên là trại tù để giam giữ những tội phạm nguy hiểm và có nhiều phòng giam khác nhau. Vì đã nghe nói đến sự khắc nghiệt của trại K39, để Mình Thánh Chúa khỏi bị xúc phạm, trên đường đi đến trại tôi đã chịu hết số Mình Thánh còn lại. Tôi nài xin Chúa ban cho tôi sức mạnh để chấp nhận, chịu đựng và thánh hóa tất cả những gian khổ sẽ gặp phải nơi đấy.
Vừa nhập trại xong, người trưởng trại được gọi là quản giáo đã bắt tôi đứng thẳng trước bản nội quy của trại và đọc lớn tiếng các điều quy định trong đó. Sau đó, tôi bị giam vào một căn phòng kín mít cùng với một anh tù đang ở trong đó. Tôi thầm nghĩ: “Đây mới thật là nhà tù!” Và tôi tự nhủ rằng nỗi sợ bị bắt giam và cảnh ngục tù bây giờ không còn nữa vì tôi đã vào cảnh lao lung. Một sự bình an thẳm sâu đến với tôi vì nhận biết rằng Chúa vẫn ở với tôi. Chắc hẳn để huấn luyện tôi cho một sứ mạng đặc biệt trong tương lai nên Chúa đã cho tôi vào chốn này.
Tôi nhớ đến lời một danh nhân nào đó: “Hai người cùng ở trong tù, một người nhìn lên bầu trời đầy ánh trăng sao và ngợi khen Thượng Đế, một người nhìn xuống nền nhà tù tanh hôi và than van kêu trách”. Tôi không nhìn lên cũng chẳng nhìn xuống. Tôi chỉ nghĩ đến sự việc Chúa ở với tôi và ở trong tôi; và tôi cảm thấy hân hoan vui sướng hát khen: “Tình yêu Thiên Chúa như trăng như sao đưa con lên cao. Ôi nào biết lấy chi báo đền!” Anh bạn cùng phòng nhẹ nhàng nhắc tôi đừng hát lớn tiếng kẻo mấy người ở phòng bên cạnh bực mình vì đang ở trong tù mà ca thì quả là...điên khùng!
Ba ngày sau, sáng tinh sương khi trời còn tối, chúng tôi được lệnh thu xếp lên đường để chuyển trại bằng những xe bít bùng! Đó cũng là ngày mà ba mẹ tôi định đến thăm nuôi tôi. Cứ nghĩ đến cảnh ba mẹ tìm đến trại giam và nghe tin tôi đã bị chuyển đi xa mà tôi nghe đau nhói trong lòng.
Mãi đến chiều, xe mới đến được trại lao công đào binh thuộc Tỉnh Sông Bé ở Đông Bắc Sàigòn. Tên của trại là Bù Gia Phúc. Nghe đâu đây là nơi đã từng giam giữ các sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa sau biến cố 30/04/1975 trước khi họ bị chuyển ra miền Bắc.
Trại giam này được thiết lập giữa vùng rừng núi gần biên giới Việt-Miên-Lào. Các trại viên sống trong những barrack dựng bằng cột tre, vách đất, lợp lá tranh. Trại không có hàng rào vì các đường đều có các trạm vệ binh. Bấy giờ công việc chính của các trại viên là đốn cây, đan các vách và mái tranh để làm thêm các barrack cho các trại viên mới vì số lượng đào binh ngày càng nhiều. Theo chính sách lúc ấy của chính quyền, vì chỉ mới nhập ngũ ít ngày đã bỏ về nên tôi bị án 3 năm lao động khổ sai! Ban quản trại không cho phép thân nhân thăm nuôi trại viên. Nhìn cảnh một số phụ nữ lặn lội từ xa đến thăm nuôi chồng con phải khóc lóc ra về khi bị ban quản trại khước từ mà tôi thấy xót xa, thầm mong ba mẹ đừng đến thăm con.
Công việc thì nặng nề, ăn uống thiếu thốn, nuớc trong vùng lại độc, nên nhiều trại viên đã phải chết vì bệnh sốt rét hay nhiễm trùng. Hầu hết các trại viên sống trong tinh thần nản chán vô vọng. Nhiều anh bắt đầu xâm mình diễn tả nỗi nhớ thương gia đình với những câu như “xa quê hương nhớ mẹ hiền” hay “hận đời đen bạc”. Mực để xâm mình là khói lấy được sau khi đốt dép râu làm bằng bánh xe! Chiều chiều nghe anh em trại viên hát những lời “Mẹ ơi! Con mẹ chết rồi, không về nữa mẹ ơi” trong bài “Hồn Ma Báo Mộng” của Trịnh Công Sơn giữa cảnh hoang dã với những tiếng kêu rợn rùng của thú rừng mà tôi thấy nhớ thương ba mẹ biết chừng nào!
Theo lệnh của ban quản trại, tất cả quân phục và tiền bạc đều phải giao nộp cho ban chỉ huy trại cất giữ. Như vậy, trại viên sẽ không có phương tiện trốn trại! Tôi vừa muốn giữ lại trăm bạc mẹ cho trên quận, vừa sợ bị phạt vì bất tuân chỉ thị của ban quan trại. Thấy anh BH. là người lớn hơn tôi cả chục tuổi và có nét từng trải mà tôi quen biết tại trại biệt giam K39, tôi nhờ anh giữ giùm. Anh nhận lời ngay. Thế là sau buổi tập trung lần đầu, tôi đã chuyển số tiền riêng cho anh BH. giữ thay vì giao nộp cho ban quản trại.
Ít hôm sau, tình hình đã lắng dịu. Tôi gặp anh BH. và hỏi anh để lấy lại số tiền hôm trước. Anh không đưa lại nhưng nói rằng: “Đừng lo! Để tao giữ giùm, khi nào tao trốn về sẽ đưa mày theo. Yên trí mà!” Tôi đem chuyện kể cho một hai anh khác đã cùng ở với tôi tại K39, họ nói: “Thôi rồi, ông bị thằng BH. lừa rồi! Sao dại thế! Có tiền không chịu giữ mà lại giao cho nó!” Tôi chống chế: “Mình nghĩ anh ta có bản lãnh hơn nên mới nhờ chứ! Vả lại hồi ở K39 mình từng xử tốt với anh ấy mà!”
Một đêm cuối tháng tám, tôi trằn trọc không ngủ được. Tôi nghĩ đến số tiền mẹ cho và lời mẹ dặn gắng trở về mà xót xa. “Mẹ ơi, con mẹ dại quá, có tiền mà không biết giữ. Bây giờ mất rồi làm sao mà về!” Tôi thầm cầu xin Chúa và Mẹ cứu giúp tôi, định tâm ngày mai thế nào cũng phải đòi anh BH. trả lại cho bằng được. Ai dè, tờ mờ sáng hôm sau, vệ binh thổi còi báo động để điểm danh toàn trại! Khoảng một chục người đã trốn trại trong đêm qua, trong đó có anh BH. người đã giữ tiền của tôi và hứa sẽ giúp tôi cùng trốn trại!
Việc này đã cho tôi một kinh nghiệm xót xa về sự lừa dối của con người. Tôi nhớ đến những viên thuốc tôi cho anh BH. khi anh bị đau ở K39, những ống chỉ, những cây kim anh mượn, những lời hứa thân tình...Sao anh BH. bạc đến thế!
Hôm ấy trời nắng ráo, thật đẹp, rất thuận lợi cho việc trốn trại. Mấy trại viên kháo nhau: “Trời hôm nay đẹp quá! Mấy thằng ‘đua’ hồi đêm chắc hẳn là lọt rồi!” Tôi nói: “Chưa chắc!” Tôi chưa đủ bác ái để tha thứ cho kẻ làm hại mình nên nói thêm: “Lưới trời lồng lộng! Những tên lừa thầy phản bạn dù ở đâu cũng không khá nổi!” Và tôi vẫn thầm cầu xin Chúa và Đức Mẹ tìm cách giúp tôi.
Chiều hôm ấy, vệ binh dẫn về năm sáu người trong nhóm trốn trại đêm qua. Anh BH. cũng là một trong những người bị bắt lại! Tôi buột miệng: “Biết ngay mà!” Một anh bạn sửa lưng: “Biết gì!” Tôi thẹn thùng im lặng!
Sau khi bị khiển trách, mấy anh được cho về lại barrack của mình. Tôi tiến đến BH. làm ra vẻ hung hăng hỏi: “Tiền tao đâu?” Anh trả lời: “Từ từ rồi tao đưa lại.” Hôm sau có lẽ vì sợ tôi làm dữ, anh đã đưa lại tiền cho tôi chỉ hụt độ chục bạc. Mấy người cùng bị bắt lại với anh thuật lại rằng, hôm ấy dù trời tốt nhưng không hiểu sao dù họ đã có kinh nghiệm đi rừng nhưng sau một hồi mò mẫm trong rừng, họ lại đi vòng về phía trại tới hai ba lần. Và cuối cùng họ đã bị vệ binh đi tuần bắt lại! Họ vẫn mừng vì không bị đi lạc qua biên giới để bị vệ binh biên phòng bắn chết như một số trại viên trước đây.
Tôi càng cảm thấy sự cứu giúp của Chúa và Đức Mẹ dành cho tôi qua sự việc này, lòng càng hy vọng sẽ có cơ hội vượt thoát khỏi trại giam trong những ngày sắp đến.
Chiều Lễ Quốc Khánh của chế độ 02/09/1980, cả trại được ăn mừng. Phần ăn của mỗi người được bồi dưỡng thêm một miếng giò heo nấu măng và cơm đầy đủ hơn ngày thường.
Sáng sớm hôm sau lại có hiệu còi báo động khi mọi người còn đang ngủ. Ban quản trại cho tập họp điểm danh và biết được hơn một chục người đã trốn trại đêm qua. Viên sĩ quan chỉ huy trại tỏ vẻ giận dữ và đe dọa phạt nặng những kẻ dám cả gan trốn trại! Trong số người trốn trại có anh Trường, nguyên là một thượng úy bộ đội miền Bắc có trình độ học thức và hiểu biết cao, tính tình lịch duyệt, đã đào ngũ và từng tổ chức những cuộc buôn lậu lớn. Anh đã từng là thành viên trong đoàn đại biểu của Bắc Việt khi tham dự các cuộc họp bốn bên với đại biểu Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa thời trước. Vì cho rằng anh là thành phần nguy hiểm nên viên trưởng trại ra lệnh cho một nhóm vệ binh mang theo cơm nước và súng ống lên đường truy nã.
Chiều hôm ấy trời mưa tầm tã, sau một ngày truy nã các vệ binh dẫn về được năm sáu người. Anh Truờng không có trong số trại viên bị bắt lại. Lần này, họ phạt những anh bị bắt lại phải ở trần chỉ có trên người chiếc quần lót, bị nhịn ăn bữa tối, bị tra tấn và sẽ bị ‘làm việc’ thêm trong những ngày sắp đến!
Cả trại bao trùm một bầu khí sợ hãi!
Ý tưởng trốn trại chợt sáng lên trong tâm trí tôi. Tôi cho rằng đây là thời điểm tốt nhất để trốn trại vì ban quản trại sẽ không ngờ. Hơn nữa, vệ binh vừa trở về sau một cuộc truy nã mệt mỏi nên họ sẽ không có sức đi tiếp. Tôi đem ý nghĩ này bàn với anh Vượng và anh Bé là hai người khi trước từng thuộc đơn vị trinh sát của bộ đội. Hai anh đã có lần ngỏ ý giúp tôi cùng trốn trại khi có cơ hội. Không ngờ cả hai đều sợ hãi khước từ!
Tôi bỗng nhớ đến Cha Gioan Baotixita Đoàn Vĩnh Phúc-tuyên úy Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể ở xứ tôi-có lần nói: “Ở Tây Phương, trước khi quyết định điều gì có tính cách quan trọng, người ta thường mở Thánh Kinh để thăm dò ý Chúa. Dù đôi khi câu Lời Chúa đọc được lúc ấy không hoàn toàn phù hợp với bối cảnh cụ thể, họ vẫn cảm thấy an lòng vì được đón nhận Lời Người”. Sẵn có một cuốn Tân Ước bản dịch của anh em Tin Lành bên mình, tôi thầm cầu nguyện và mở ra đọc. Lòng tôi rộn lên nỗi vui mừng phấn khởi, khi tôi mở đúng đoạn sách Công Vụ Các Tông Đồ thuật về việc thiên thần Chúa giải cứu Thánh Phêrô ra khỏi ngục tù. Tôi càng tin rằng Chúa thực sự muốn giải cứu tôi!
Bấy giờ tôi liền nghĩ đến việc rủ nhau trốn trại với anh Phong, một anh bạn tù Công giáo người miền Nam hơn tôi một đôi tuổi và có nét học trò khù khờ... gần bằng tôi. Tôi càng hy vọng anh sẽ đồng ý vượt ngục với tôi khi nghĩ đến việc anh có tên thánh là Phêrô. Tôi rủ anh ra chỗ vắng người và thuyết phục anh: “Anh Phong này, tui nghĩ bây giờ anh em mình ‘đua’ là tốt nhất. Vì lúc này cả trại hoang mang không ai để ý. Hơn nữa, bọn vệ binh mới trở về sau một ngày truy nã mệt mỏi, nên họ sẽ không truy nã mình đâu. Nhất là mình có cầu nguyện thăm dò ý Chúa bằng việc mở Thánh Kinh ra đọc. Mình đọc đúng đoạn Chúa cho thiên thần cứu Thánh Phêrô thoát khỏi ngục tù. Tên thánh của anh là Phêrô! Như vậy, chắc là Chúa muốn cứu anh đó!”
Anh gật đầu đồng ý liền!!!
Sau cơm chiều hôm ấy, khi trời chạng vạng tối, anh Phong và tôi giả vờ đi vệ sinh và cùng nhau chạy sâu vào rừng hướng Đông Bắc Sàigòn.
Đêm ấy là một đêm cực khổ nhất đời tôi! Trời mưa tầm tã, đất rừng trở nên sình lầy, vòm trời không một bóng trăng sao, aó quần ướt nhẹp, mình mẩy hai anh em vừa rét vừa ngứa ngáy! Hai đứa rủ nhau ngồi dưới một gốc cây to cho đỡ ướt!
Tôi nói với Phong: “Chuyến này nếu anh em mình về được Sàigòn phải là phép lạ đó! Mấy ông ‘đua’ hôm trước từng là những tay có kinh nghiệm vượt rừng mà còn bị bắt lại. Anh em mình chỉ là học sinh mới thôi học, chưa có kinh nghiệm chiến trường chi cả, nếu thoát được chắc chắn là nhờ ơn Chúa và Đức Mẹ thôi!”
Phong đồng ý với tôi hoàn toàn. Thấy vậy, tôi rủ Phong lần chuỗi Mân Côi năm mầu nhiệm mùa vui để dâng cuộc vượt thoát này cho Mẹ Maria. Có lẽ đây là một trong những chuỗi Mân Côi mà chúng tôi đọc sốt sắng nhất đời!
Đọc kinh xong, trong màn đêm dày đặc chúng tôi đứng lên cởi áo quần ra vắt cho khô hết nước để mặc lại cho khỏi ngứa. Trời cũng đã bớt mưa. Chúng tôi ngồi dựa vào nhau nhắm mắt nghỉ để dưỡng sức chờ trời sáng.
Tờ mờ sáng hôm sau, chúng tôi đọc vắn tắt ít kinh dâng ngày và chuẩn bị lên đường. Tôi nói với Phong: “Tui nghe nói trại của tụi mình nằm về phía Đông Bắc Sàigòn. Tối qua mình trốn về phía Đông Bắc là cố tình đi quá để không ai biết mình ở đây. Bây giờ đi thật là sẽ phải trở về ngang qua trại đó! Tụi mình sẽ mò về theo hướng Tây Nam. Tui nghĩ mình sẽ theo hướng Nam nhiều hơn, chứ theo hướng Tây loạng quạng qua biên giới Campuchia sẽ bị bọn vệ binh biên phòng bắt đó!”
Phong ngoan ngoãn nói với tôi: “Thì ông cứ định hướng để tôi mở đường cho!”
Thế là chúng tôi lên đường khi trời còn mờ sáng. Thật may vì khi ấy tôi còn nhớ được một đoạn sách đọc được ở đâu đó viết rằng, khi đi rừng muốn định hướng thì cứ nhìn các gốc cây: Phía nào sạch sẽ là hướng Đông, phía nào có nhiều rong rêu là hướng Tây vì thiếu ánh mặt trời. Và dĩ nhiên tôi không thể quên bài khoa học thường thức cấp tiểu học: Mặt trời mọc ở hướng Đông, lặn ở hướng Tây. Cứ theo đó, chúng tôi tự vạch đường tiến lên giữa rừng cây rậm rạp vì các đường chính đều có các trạm gác. Tôi định hướng, Phong đi trước mở đường. Mỗi người kiếm một khúc cây làm gậy để gạt bỏ các cản trở trong rừng.
Phong rất khỏe và dai sức, anh bước nhanh và tiến mạnh. Còn tôi dễ mệt và yếu sức, hay thở dốc và muốn nghỉ nhiều. Cứ mỗi khi tôi dừng chân tạm nghỉ một chút, Phong lại giục giã: “Ông phải ráng lên! Đây là vấn đề sống chết mà! Đi chậm nhỡ vệ binh nó đuổi theo bắt lại là chết!” Những chiếc gai trong rừng đâm vào chân khiến tôi thật đau nhức nhưng chẳng dám than, vì có ai để mà than với. Chưa hết, lần đầu tiên trong đời tôi được biết thế nào là bị đỉa hút máu. Vận dụng tất cả ý chí tôi gắng bước theo Phong, và tôi đã hiểu câu thành ngữ nghe được trong quân trường “đi bằng đầu” là thế nào!
Vừa đi, tôi vừa đọc những kinh Kính Mừng để Phong cùng đọc theo, những cậy trông sự trợ giúp của Mẹ Tình Thương.
Đến gần trưa, chúng tôi đã gặp được một đường mòn trong rừng theo đúng hướng chúng tôi đang đi. Nhờ vậy, chúng tôi bước mau hơn. Chúng tôi cũng thấy một ít giấy vỏ kẹo của loại kẹo được phân phát trong trại, và tôi biết rằng nhóm trại viên trốn đi hôm trước đã băng ngang qua đây. Chúng tôi cảm thấy lên tinh thần khi biết mình đang đi đúng hướng. Băng qua cánh rừng, chúng tôi phải vượt qua một thung lũng có nước ngập đến mắt cá. Tôi thầm đọc lời Thánh Vịnh 23 “Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn vì Chúa ở cùng tôi. Cây gậy và cây trượng Chúa khiến tôi an lòng”.
Qua thung lũng, chúng tôi gặp một rẫy lúa của hai cha con người Thượng nọ. Chúng tôi có lên tiếng hỏi, nhưng họ không hiểu nên chúng tôi tiếp tục tiến bước.
Khoảng ba giờ chiều, sau khi ra khỏi cánh rừng cuối, chúng tôi gặp thấy trước mặt mình một dòng sông nước chảy rất mạnh. Bờ bên kia sông có một con đò và trên bờ là một ngôi làng lác đác những nhà dân. Sau khi bàn tính và lượng sức không thể bơi qua bên kia sông, chúng tôi quyết định lên tiếng kêu cứu.
Nghe tiếng kêu cứu của chúng tôi, một thanh niên chừng ba mươi tuổi ở bờ bên kia sông đưa đò qua phía chúng tôi. Chúng tôi xin anh đưa qua bờ bên kia, lấy cớ là phải lo cho gia đình nên phải trốn trại về. Cảm thông hoàn cảnh, anh đưa chúng tôi qua bên kia sông. Khi qua bờ bên kia, tôi cảm ơn và lấy ra mấy chục trả công anh, nhưng anh không nhận. Anh nói: “Tôi thông cảm hoàn cảnh các anh và muốn giúp các anh. Nhưng các anh phải thận trọng vì phường đội ở đây đã được thông báo trên quận về các vụ trốn trại đào binh. Các anh xem ra thật khó thoát!” Chúng tôi cảm ơn anh, tiếp tục cầu nguyện và lên đường.
Chỉ chừng mười phút sau khi đến đầu làng, chúng tôi bị phường đội chận bắt lại! Công trình trốn trại kể như tan biến!
Khi mọi hy vọng với cái nhìn loài người bị tan vỡ thì phép lạ của niềm tin đã xảy ra!
Ngay lúc đó, nhóm trại viên trốn trại hôm trước chừng bảy tám người xuất hiện. Dẫn đầu là anh Trường với quân phục trên mình, đầu đội nón cối, tay cầm rựa phá rừng. Các anh khác cũng trang bị gậy gộc, dao rựa đầy đủ như một nhóm bộ đội đang làm công tác phá rừng. Tôi bỡ ngỡ chẳng hiểu gì! Hay là các anh này cũng bị bắt trước chúng tôi!
Tôi đang ngỡ ngàng thì nghe Phong hướng về phía anh Trường gọi lớn tiếng: “Thủ trưởng!”
Anh Trường xoay về phía Phong và tôi quát: “Hai thằng này trốn ra đây hồi nào?”
Phong làm ra vẻ năn nỉ: “Tụi em nhớ nhà quá, xin thủ trưởng tha lỗi.”
Anh Trường nhìn hai anh phường đội và nói: “Hai thằng này thuộc đơn vị chúng tôi. Các anh cho chúng tôi lãnh về!”
Một anh phường đội nói: “Đề nghị các anh về trụ sở phường rồi nói chuyện sau!”
Anh Trường lắc đầu: “Hôm nay chúng tôi đi tham quan nghiên cứu kế hoạch canh tác để cải thiện chế độ ăn uống cho đơn vị. Xe chúng tôi đậu gần đây, nên các anh cho chúng tôi lãnh hai thằng này về!”
Hai anh phường đội xem chừng bán tín bán nghi, nhưng nhìn thấy nhóm anh Trường đông đảo và trang bị dao gậy thật dữ dằn nên đành xuống nước: “Vâng, vậy mời các anh cứ tự nhiên!”
Thế là hai chúng tôi được đi theo nhóm anh Trường. Chúng tôi đi thật mau đến ven rừng đầu làng và lẩn vào trong ôm bụng cười: một vở kịch không soạn trước đã diễn ra thật ly kỳ!
Sau đó, Phong đón xe về gia đình ở Long An. Tôi theo nhóm anh Trường xin vào ngủ trọ một ngôi nhà trong vùng. Hôm sau, chúng tôi chia tay nhau theo nhóm hai hay ba người. Tôi đi theo anh Dũng, một anh trung sĩ bộ đội gốc Bắc lấy vợ miền Nam đã đào ngũ và chuyên môn đi buôn hàng từ Campuchia. Anh nói rằng dù anh đã trải qua nhiều cuộc gian khổ đầy nguy hiểm nhưng anh chưa thấy việc nào xảy ra kỳ lạ như việc chúng tôi được cứu thoát vừa qua!
Đến trưa, chúng tôi đón được một xe chở hàng về Bình Triệu. Hiểu hoàn cảnh chúng tôi, người chủ xe không lấy tiền. Anh Dũng tính tặng ông chiếc đồng hồ đeo tay, ông cũng không lấy. Tôi chỉ biết cảm tạ Chúa và Đức Mẹ đã cho chúng tôi gặp được những người thật tốt bụng!
Khi đến Bình Triệu, anh Dũng và tôi mướn xe ôm về nhà tôi. Hôm đó là ngày 05/09/1980. Lúc ấy, trời đang mưa nên láng giềng không ai biết tôi đã vượt thoát khỏi trại lao công đào binh về nhà bình an. Sau đó, anh tôi chở anh Dũng về nhà anh ở Sàigòn. Chiều hôm sau, với giấy tờ giả, ăn mặc chỉnh tề, anh Dũng chạy xe honđa xuống nhà tôi cùng gia đình chúng tôi mở tiệc ăn mừng!
Đó là lần vượt thoát thứ hai và cũng là lần vượt thoát gian khổ nhất, ly kỳ nhất, đáng nhớ nhất trong đời tôi! (còn một kỳ)
Vượt biên đường biển
Để tránh bị bắt lại, tôi phải ẩn náu trong nhà suốt chín tháng. Đang tuổi thanh niên sôi nổi mà phải sống trong cảnh “cá chậu chim lồng” như thế, tôi cảm thấy thật khổ sở. Trong thời gian này, tôi tự ôn lại số vốn Anh Văn đã học được trong trường khi trước. Đang khi đó, nhiều người trong xứ đã tung tin rằng tôi đã vượt biên đi Mỹ.
Trong thời gian này, gia đình tôi mừng Ngân Khánh Thành Hôn của ba mẹ, nhưng tôi vẫn phải lánh mặt! Bàn thờ gia đình được tu sửa lại to đẹp hơn. Theo đề nghị của tôi, ba mẹ cho người cắt chữ bằng gỗ sơn vàng tươi gắn trên bàn thờ ghi “Thiên Chúa là Tình Yêu”, hai bên là bốn chữ “Mến Chúa-Yêu Người”.
Thương tôi phải sống trong cảnh tù túng như vậy, ba mẹ đề nghị lo cho tôi vượt biển tìm tự do. Trước đó, tôi không muốn rời Việt Nam. Nhưng với tình cảnh bó buộc lúc ấy, tôi đã bằng lòng để ba mẹ tìm đường liên lạc cho tôi vượt biên để tìm một lối thoát.
Một ngày trước khi từ giã gia đình, ba mẹ tôi mời cha già Luca Đoàn Bảng, một linh mục thông thái và thánh thiện, đến giải tội và cho tôi chịu lễ. Sau đó, ngài khuyên nhủ: “Việc vượt biên không biết xấu tốt như thế nào vì ‘lưới trời lồng lộng’. Ở đâu cũng cần phải bám chặt vào Chúa, Đức Mẹ và Hội Thánh. Thời này Chúa để cho ma quỷ nó đánh phá Giáo Hội để thanh lọc các linh hồn. Linh mục rối đạo rất nhiều. Ngay cả các giám mục và hồng y cũng có nhiều vị lầm lạc. Chỉ còn một điểm tựa duy nhất là Đức Giáo Hoàng. Vì vậy, chúng ta phải hết lòng yêu mến, vâng phục và bênh vực Đức Thánh Cha và giáo huấn của ngài”. Đó là những lời vàng ngọc mà tôi sẽ ghi nhớ suốt đời.
Tối hôm ấy, Anh Thành và anh Trọng, hai anh bạn cùng ở giáo xứ tôi cùng đến ngủ qua đêm ở nhà tôi để sáng mai cùng lên đường. Tôi vẫn giữ thói quen đọc một chương sách Gương Chúa Giêsu mỗi ngày. Chương sách cuối trước khi tôi rời gia đình mang tên “Đường Thánh Giá”.
Sáng sớm ngày 05/06/1981, ba mẹ và gia đình tôi cùng hai anh bạn cùng đi đến trước bàn thờ gia đình để cầu nguyện xin Chúa và Đức Mẹ chúc lành cho chuyến đi định mạng.
Chúng tôi lên xe đò đến nhà trọ tại bãi Hải Sơn--Vũng Tầu.
Sáng ngày 06/06/1981, khi trời còn tối, chúng tôi băng qua các cánh đồng sình lầy để đến bãi biển. Ban tổ chức cho mỗi khách vượt biên có đóng tiền một tấm thẻ nhôm như thẻ bài của lính để nhận diện cho lên ghe. Có những thanh niên cầm cây gỗ để đánh đuổi những người trong vùng muốn đi lậu gọi là “canh me”. Cảnh tượng đánh đập này trông thật dã man.
Chiếc ghe chỉ dài chừng bảy tám mét mà gần bốn chục người trên đó. Tôi cứ ngỡ người ta sẽ đưa mình ra tàu lớn để đi. Ai ngờ chiếc ghe này cứ thế mà chạy...! Khi ghe đã ra khỏi bờ chừng hai chục mét, mấy thanh niên trong ban tổ chức cầm đèn pin soát thẻ của những người trên ghe. Vài ba người “canh me” không có thẻ đều bị ném xuống nước. Cũng may, mấy người này là dân địa phương nên đều biết bơi giỏi và có thể vào bờ. Ghe cứ thế chạy đi!
Vì ghe quá nhỏ, ai nấy phải ngồi co chân lại mới đủ chỗ. Mỗi ngày mỗi người chỉ được một nắp can nước uống và một nắm mì dẹp chứ không có cơm bánh chi cả. Khi ra giữa biển, sóng to gió lớn, người ta phải đóng ván trên mặt thuyền để nước khỏi tràn vào. Thanh niên trong ghe phải thay nhau tát nước.
Lúc ấy, tôi biết được trên ghe có tất cả 36 người. Ngoại trừ Hồng Khánh, một thiếu nữ là tín đồ đạo Cao Đài, còn lại đều là Công giáo. Vì vậy, tiếng đọc kinh và bài hát “Lạy Mẹ là ngôi sao sáng, soi lối cho con lúc vượt biển thế gian...” được vang lên gần như liên tục và thật vô cùng ý nghĩa.
Đến chiều tối ngày thứ tư, ghe chúng tôi bị một chiếc tàu đánh cá thật lớn có nhân viên trang bị súng ống chận lại. Thoạt tiên, mọi người trên ghe tưởng là hải tặc Thái Lan, nhưng sau mới biết là tàu đánh cá Sóc Trăng. Họ biết chúng tôi là người vượt biên và bắt chúng tôi qua tàu họ, dọa đưa vào bờ. Nghe vậy, một số người buồn vì sợ mất dịp đi tìm tự do; một số khác thì vui vì không sợ chết vì đắm ghe!
Vì mới ra khơi nên những người trên tàu Sóc Trăng không muốn trở vào bờ sớm, và có lẽ đã nhận quà đút lót của ban tổ chức, nên cuối cùng họ đã cho chúng tôi trở lại ghe để đi tiếp.
Sáng ngày thứ sáu, ghe hết dầu, nước uống và lương thực cũng cạn. Chúng tôi cảm thấy như thể chỉ còn chờ chết. Tôi chỉ biết phó thác nơi lòng thương xót Chúa, và cảm thấy một sự bình an thẳm sâu khi sẵn sàng chờ chết. Dù vậy, tôi tự nhủ nếu được cứu sống chắc hẳn tôi sẽ cố gắng sống đẹp lòng Chúa và Đức Mẹ hơn.
Đúng lúc đó một chiếc tàu giàn khoan dầu lớn ở vùng biển Inđônêsia phát hiện chúng tôi và đến vớt chúng tôi. Trước đó, họ cũng đã vớt một hai ghe vượt biên khác.
Sau khi đưa mọi người trên ghe lên tàu, nước tràn vào chiếc ghe chúng tôi và nhận chìm nó! Để tiện khai báo khi đến trại tị nạn, tàu (ghe) vượt biên chúng tôi được goi là tàu HR061236. HR là tên tắt của chiếc tàu giàn khoan. 061236 có nghĩa là chúng tôi gồm 36 người được vớt vào ngày 12 tháng 06.
Đó là lần đầu tiên tôi được ở trên một chiếc tàu to lớn và tiện nghi như thế. Chiều hôm ấy, sau khi tắm rửa sạch sẽ và ăn uống no nê, tôi đứng trên thành tàu nhìn biển rộng trời cao và để mặc những làn gió biển xoa mặt mình với những hạt nước biển li ti mát rượi. Lòng tôi tràn ngập một cảm giác hồi sinh tuyệt diệu chưa hề có trong đời cùng với niềm cảm mến thiết tha. Lúc ấy, một lần nữa tôi sung sướng cất lên bài thánh ca “Tình Yêu Thiên Chúa” và cảm nhận sâu xa tình Chúa yêu thương, những ước mong trọn đời tận tình đáp trả tình Ngài như lời điệp ca:
“Tình yêu Thiên Chúa như trăng như sao đưa con lên cao, ôi nào biết lấy chi báo đền! Chúa dắt dìu con đi qua đêm đen cho con ca khen tình yêu Chúa, ôi như đại dương! Tình yêu Thiên Chúa chói sáng khắp chốn gội sạch tội đời, ôi tình Chúa sao quá cao vời! Con quyết trọn đời dâng hiến xác thân loan báo thiên ân cho khắp nhân trần.”
Tối hôm đó, chúng tôi đã được chiếc tàu ân phúc này đưa đến trại tị nạn Kuku, một hòn đảo của Inđônêsia. Phải mất 12 giờ chiếc tàu to lớn và trang bị đầy đủ như thế mới đến được Kuku! Nếu không được cứu vớt, những người trên chiếc ghe vượt biên bé xíu của chúng tôi chắc chắn sẽ mất mạng trên biển!
Chúa nhật liền sau đó, chúng tôi được tham dự nghi thức Phụng Vụ Lời Chúa và Rước Lễ với bà con Công giáo trên đảo. Một lần nữa, tôi cảm được sự hiện diện của Chúa Giêsu Thánh Thể trên từng chặng đường đời. Nhà nguyện nền cát, được dựng khung bằng những cây cột thô sơ đốn trong rừng, có mái và vách là những tấm bạt nhựa màu xanh do Cao Ủy Tị Nạn cấp. Chúa Giêsu cũng chia sẻ cảnh nghèo với dân tị nạn. Tôi bật khóc khi nghe ca đoàn hát bài thánh ca: “Bên sông Babylon, ngồi tôi khóc, ngồi tôi khóc, ngồi tôi khóc Sion, Sion. Bên sông Babylon, tiếng thông reo, tiếng thông reo, tiếng thông reo nỉ non, nỉ non...”
Đời tị nạn bắt đầu từ đây...Kiếp ly hương bắt đầu từ đây...!
Cuộc vượt thoát miên trường
Ngày 13/07/1981, tôi được lên tàu chuyển sang trại tị nạn Đảo Galang cũng thuộc nước Inđônêsia. Đây là một trại tị nạn có đầy đủ phương tiện sinh hoạt hơn. Ở bến cảng nơi đón những người tị nạn mới đến trại hay đưa tiễn những người trong trại đi định cư, người ta đọc được tấm biển với hàng chữ: “Galang--cửa ngõ tự do và tình người”. Lúc ấy, Cha Gildo Đôminici, SJ (tên Việt là Đỗ Minh Trí) từng là giáo sư Giáo Hoàng Học Viện Đàlạt khi trước đang làm tuyên úy cho bà con ở đó. Không những giúp đỡ dân Việt tị nạn về nhu cầu vật chất và tinh thần, Cha Đômincici còn giúp người Việt nuôi dưỡng văn hóa dân tộc bằng việc tài trợ cho bán nguyệt san “Tự Do” tại Galang nữa! Tôi đã có đóng góp bài báo đầu tay cho tờ báo khi viết về sinh hoạt Thiếu Nhi Thánh Thể.
Trong những ngày ở trại tị nạn, tôi đã sinh hoạt với cộng đoàn những người Công giáo ở đây qua việc dạy giáo lý tân tòng, Rước Lễ vỡ lòng và Thêm Sức, cũng như làm huynh trưởng sinh hoạt với Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Galang. Chính qua những sinh hoạt này, ý nghĩ về ơn gọi linh mục đã trở nên rõ nét hơn trong tâm tư tôi. Và lạ thay, cũng trong hoàn cảnh đặc biệt này lần đầu tiên trong đời tôi đã có cuộc tình lãng mạn với một cô huynh trưởng cùng Đoàn!!! Cha giải tội khuyên đừng quyết định gì cả, và cứ giữ cho tình cảm trong sạch. Tạ ơn Chúa và Mẹ đã cho tôi có những lời khuyên lành thánh.
Sau khi bị các phái đoàn Canada và Úc khước từ, tôi đã được chính phủ Hoa Kỳ chấp nhận cho định cư tại Mỹ.
Ngày 15/09/1982, tôi rời trại Galang để được tàu đưa đến trại chuyển tiếp Singapore. Khi ở Singapore, tôi được tham dự Thánh Lễ với Cha O’Neill Dòng Chúa Cứu Thế Úc, vị tuyên úy của trại. Khi theo Anh Phêrô T., một anh bạn cùng là huynh trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể ở Galang, trốn ra ngoài phố chơi, tôi lại được gặp Cha Phanxicô Xaviê Trần Tử Nhãn, giám tỉnh tiên khởi của Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, đang đi công tác bên ấy. Duyên nợ của tôi với Dòng Chúa Cứu Thế phải chăng khởi đầu từ đấy?
Ngày 20/09/1982, sau hàng chục giờ trên máy bay, tôi đã đặt chân đến Mỹ tại San Francisco để hai hôm sau được đưa về thành phố Detroit-Michigan, do Hội USCC bảo lãnh, để bắt đầu cuộc sống tại quê hương mới.
Sau gần năm bơi chải làm việc và sinh hoạt với những người bạn cùng sinh hoạt trong Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể, ngày 13/06/1987, tôi đến gõ cửa Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam tại Altadena, California để tìm hiểu ơn gọi và chính thức vào dòng ngày Thứ Ba 18/08/1987.
Ngày 28/05/1994, ước mơ trở thành tu sĩ linh mục thừa sai Dòng Chúa Cứu Thế của tôi đã trở thành sự thực. Tôi được Đức Cha James Tamayo-Giám mục Phụ Tá Địa Phận Houston- truyền chức linh mục tại Nhà Thờ Holy Spirit của Dòng Chúa Cứu Thế Mỹ tại Houston, Texas. Cha O’Neill đang công tác tại Hoa Kỳ cũng có mặt trong lễ truyền chức. Thật tiến vì khi ấy tôi đã không nhận ra sự hiện diện của ngài!
Chiều hôm sau, 29/5/1994, tôi dâng lễ mở tay tại Nhà Thờ Đức Bà vùng Houston.
Chắc hẳn do sự an bài của Chúa và sự sắp đặt kỳ diệu của bàn tay từ ái của Mẹ Maria, Thánh Lễ Tạ Ơn Linh Mục chính thức của tôi được cử hành tại Nhà Thờ Thánh Tâm ở Altadena, California vào đúng ngày 12/06/1994, đúng 13 năm sau ngày tôi được cứu vớt trên biển cả!
Từ đó, cứ mỗi lần đọc hay nghe đến đoạn Lời Chúa trong sách Công Vụ Các Tông Đồ thuật lại việc Thánh Phêrô được thiên thần Chúa giải cứu khỏi ngục tù, tôi lại nhớ đến ba lần vượt thoát trên.
Chúa đã cứu thoát Thánh Phêrô ra khỏi ngục tù, không phải để ông có một cuộc sống tự do, tiện nghi, thoải mái, và theo đuổi những dự định hoài bảo của riêng ông. Người cứu thoát ông để ông thực hiện ơn gọi và sứ vụ tông đồ rao giảng Tin Mừng Tình Yêu của Chúa Cứu Thế cho muôn dân. Ơn gọi và sứ vụ cao cả ấy đã dẫn ông đến cái chết treo ngược đầu trên thập giá để làm trọn lời tuyên xưng của niềm tin và tình yêu nơi ông: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16) và “Lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa” (Jn 21:15).
Cũng vậy, qua những lần giúp tôi vượt trại, vuợt ngục, vượt biên, Chúa muốn tôi noi gương Thánh Phêrô xử dụng sự tự do, thời giờ và phúc lộc Chúa ban để thực hiện và hoàn thành ơn gọi và sứ mạng làm sứ giả rao giảng Tin Mừng Tình Yêu của Chúa Cứu Thế.
Thế nhưng, tôi đã xử dụng sự tự do, thời giờ và phúc lộc Chúa ban như thế nào?
Tôi cảm thấy sợ hãi vì nhiều phen tôi đã đánh mất sự tự do đích thực của con cái Chúa khi tự nhốt mình trong ngục tù của tính ích kỷ, kiêu căng và tự ái, và tôi đã bao lần lạm dụng thời giờ và phúc lộc Chúa ban để chạy theo tiền của, thú vui và danh vọng phù phiếm.
Ngày nay, tôi không còn phải lo vượt thoát hàng rào của trại lính, trạm kiểm soát vệ binh của trại giam hay sự canh phòng của công an biên phòng, nhưng bao lâu còn sống tôi vẫn còn bị ràng buộc và lôi kéo bởi biết bao cám dỗ của xác thịt, thế gian và ma quỷ.
Và như vậy, cuộc đời tôi vẫn phải là một cuộc vượt thoát miên trường!
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu Cứu Thế rất yêu dấu của con, cùng với Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse, con cảm tạ Chúa đã bao phen cứu con thoát khỏi cảnh ngục tù của trần gian để con ngày nay được trở nên linh mục của Thánh Tâm Chúa và Khiết Tâm Mẹ. Xin Chúa tiếp tục ban cho con tràn đầy Thần Khí để đốt lên trong trái tim con ngọn lửa tình yêu Chúa. Với sức mạnh của Thần Khí Chúa, chắc chắn con sẽ luôn nỗ lực vượt thoát mọi cản trở và nguy biến của bóng đêm tội lỗi trong dòng đời hôm nay mà đạt đến quê hương đích thực là Thiên Đàng, để hiệp cùng Mẹ Maria và muôn vàn thần thánh ca ngợi, chúc tụng, thờ lạy, tôn vinh và cảm tạ Chúa Ba Ngôi Chí Thánh muôn đời. Amen.
(July 13-16, 2002)