Sứ mệnh của Chúa Giêsu là sứ mệnh của chúng ta - Tiếng kêu cứu kiên trì cuối cùng đã thay đổi trái tim tôi như thế nào
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- Lại Thế Lãng
Sứ mệnh của Chúa Giêsu là sứ mệnh của chúng ta
The Word Among Us – Lại Thế Lãng chuyển ngữ
Con phải ở trong nhà của Cha con. (Lc 2:49)
Có nhiều cách để dịch những lời này của Chúa Giêsu khi cha mẹ Ngài tìm thấy Ngài trong Đền Thờ. Nguyên bản tiếng Hy Lạp có phần khó hiểu, nhưng hầu hết các dịch giả đều sử dụng “trong nhà của Cha con” vì đó là nơi Chúa Giêsu ở khi nói điều đó. Nhưng có thể dịch theo một cách khác là “Con phải lo việc của Cha con” hoặc “Con phải bận rộn với việc của Cha con”.
Trong bài viết này, chúng tôi muốn tập trung vào điều gì đã buộc Chúa Giêsu tập trung vào “công việc” của Cha ngài đến thế? Và chính xác thì “công việc” này là gì?
Tại sao Chúa Giêsu đến? Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng mặc dù Chúa Con “có bản thể Thiên Chúa”, nhưng Ngài đã mang lấy “bản thể tôi tớ” để hoàn thành ý muốn của Cha Ngài. (Pl 2:6, 7). Giống như mọi việc Thiên Chúa làm, sự nhập thể của Chúa Giêsu đều có mục đích. Vậy mục đích đó là gì? Thiên Chúa giao cho Ngài sứ mạng gì?
Để ban sự sống. Trong suốt sứ vụ công khai của mình, Chúa Giêsu thường nói về ý nghĩa sứ mệnh của mình. Có lúc Ngài nói: “Ta đến để chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10). Vì những ai mà Chúa Giêsu đến? Đó là chúng ta! Chúa Giêsu không đến vì lợi ích của chính Ngài. Ngài đã để lại sự dồi dào của thiên đàng để chúng ta có được sự dồi dào trong Ngài. Ngài đã hy sinh mạng sống vì chúng ta để chúng ta tìm được sự sống đời đời trong Ngài. Đây là tin mừng đáng kinh ngạc của phúc âm: Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa hoàn hảo, vô tội, đã trút bỏ chính mình chỉ để cứu chúng ta!
Để cứu những người tội lỗi. Chúa Giêsu cũng nói: “Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.” (Lc 5:32). Những kẻ tội lỗi—đó chính là chúng ta. Trong một cuộc phỏng vấn ngay sau khi được bầu, Đức Thánh Cha Phanxicô đã được hỏi: “Jorge Mario Bergoglio là ai?” Câu trả lời của ngài? "Tôi là kẻ có tội. Đây là định nghĩa chính xác nhất. . . . Tôi là một tội lỗi được Chúa đoái nhìn.” Mỗi người trong chúng ta đều có thể nói điều tương tự. Chính vì chúng ta là những kẻ tội lỗi mà Chúa Giêsu đã đến. Ngài biết rằng “công việc” của Cha Ngài là giải cứu chúng ta khỏi tội lỗi và cái chết.
Để rao giảng tin mừng. Chúa Giêsu thậm chí còn cho chúng ta biết sứ mệnh của Ngài ngay từ đầu sứ vụ: “Thần Khí Chúa . . . đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.” (Lc 4:18). Thiên Chúa đã kêu gọi Chúa Giêsu mang đến sứ điệp hy vọng. Vì vậy, Chúa Giêsu đã đến với một thông điệp về sự giải thoát cho tất cả mọi người bị mắc kẹt trong tội lỗi và sự ích kỷ – và cho tất cả những người bị mắc kẹt trong mọi hình thức nghèo khó về mặt tinh thần do tội lỗi và sự ích kỷ gây ra. Ngài đến để loan báo hồng ân của Chúa cho mọi người: giàu cũng như nghèo, có đức tin cũng như không có đức tin, dân ngoại cũng như người Do Thái. Giữa sự áp bức, nghèo đói và bất công, Chúa Giêsu đã đến để mang lại sự giải thoát khỏi tội lỗi, công lý cho thế giới, sự chữa lành thể xác và tinh thần, và giải thoát khỏi sự áp bức của ma quỷ.
Đây là sứ mệnh của Chúa Giêsu. Đây là lý do tại sao Ngài đến với chúng ta. Đó là lý do tại sao Ngài vẫn “kiên quyết” thực hiện ý muốn của Cha Ngài trong suốt cuộc đời (Lc 9:51). Ngay cả khi còn là cậu bé mười hai tuổi dạy dỗ các trưởng lão trong Đền thờ, Chúa Giêsu chỉ tập trung hoàn thành những gì Cha Ngài đã sai Ngài làm.
Chúng Ta Là Công Việc Của Ngài. Khi Chúa Giêsu sẵn sàng trở về với Cha Ngài, Ngài bảo chúng ta rằng chúng ta cũng phải lo công việc của Cha chúng ta. Vào lễ Phục Sinh đầu tiên đó, Ngài đã nói với các môn đệ và với chúng ta rằng: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” (Ga 20:21). Chúa Giêsu đang sai mỗi người chúng ta đi xây dựng vương quốc của Người, giống như Chúa Cha đã sai Ngài.
Tất nhiên, sứ mệnh của Chúa Giêsu là duy nhất đối với Ngài. Chỉ có Ngài mới có thể vượt qua tội lỗi và cái chết khiến chúng ta xa cách Thiên Chúa. Chỉ có Ngài mới có thể hiện diện như một lễ vật hoàn hảo để chuộc tội cho chúng ta. Nhưng theo cách tương tự, mỗi người chúng ta đều có sứ mệnh riêng của mình. Như Thánh Phaolô đã viết: “chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” (Ep 2:10). Điều này có nghĩa là mỗi người chúng ta đều có một ơn gọi mà Thiên Chúa đã tạo ra để phù hợp một cách hoàn hảo với cách Người tạo dựng nên chúng ta và con đường Người đã dẫn chúng ta đi. Chỉ có bạn mới có thể hoàn thành sứ mệnh cụ thể của mình từ Chúa! Chỉ có bạn mới có thể làm công việc của Chúa Cha mà Ngài đã chuẩn bị cho bạn làm!
Nhưng mặc dù mỗi người chúng ta đều có sứ mệnh riêng của mình từ Chúa, nhưng cũng có những khía cạnh trong sự kêu gọi chung của tất cả chúng ta:
Làm môn đệ. Chúa Giêsu muốn tất cả chúng ta “làm môn đệ” bất kể chúng ta ở đâu hay làm gì (Mt 28:19). Ngài muốn mỗi người chúng ta chia sẻ với mọi người tin mừng rằng Thiên Chúa yêu thương họ, rằng Chúa Giêsu đã cứu chuộc họ bằng thập giá của Ngài, và rằng qua Thần khí, họ có thể biết được lòng thương xót và sự tha thứ của Ngài một cách cá nhân, thay đổi cuộc sống. Chúng ta cũng có thể chia sẻ kinh nghiệm của chính mình về Chúa và ân sủng của Ngài đã thay đổi cuộc sống của chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi như thế nào. Chúa Giêsu đã giao phó cho bạn, thực sự là tất cả chúng ta, sứ mệnh đi ra ngoài và mời gọi mọi người làm môn đệ của Người.
Không phải để được phục vụ mà là để phục vụ. Nếu Chúa Giêsu, Thầy của chúng ta, nhất quyết hy sinh mạng sống để phục vụ, thì chúng ta là môn đệ của Người, cũng phải làm như vậy. Chúa muốn chúng ta sống cho người khác, không chỉ cho chính mình. Điều này có nghĩa là tích cực tìm cách cống hiến thời gian và nguồn lực của mình để giúp đỡ những người xung quanh. Nó có nghĩa là vươn ra khỏi nhà cửa và gia đình của chúng ta để chăm sóc những người nghèo, người già, bệnh tật và tù tội. Và nó có nghĩa là đối xử với mọi người một cách đàng hoàng. Đây chính xác là những gì Thánh Phaolô đã khuyến khích trong Thư gửi tín hữu Philipphê: “Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” (2:3). Chúa Giêsu đã giao phó cho bạn, thực sự là tất cả chúng ta, sứ mệnh phục vụ.
Để chuyển cầu. Khi lên thiên đàng, có lẽ chúng ta sẽ ngạc nhiên về những lời cầu nguyện của người khác đã giúp chúng ta trên cuộc hành trình trần thế—và những lời cầu nguyện của chúng ta đã giúp đỡ người khác biết bao. Cầu nguyện cho người khác là một cách khác mà chúng ta có thể noi gương Chúa Giêsu, Đấng “hằng sống để chuyển cầu” cho dân Người (Dt 7:25). Nếu đây là một phần sứ mệnh của Chúa Giêsu thì nó cũng là một phần của chúng ta. Chúng ta có thể trình bày nhu cầu của những người thân yêu lên Cha trên trời và cầu xin Người giúp đỡ. Chúa Giêsu đã giao phó cho bạn, đúng hơn là tất cả chúng ta, sứ mệnh nâng đỡ mọi người trong lời cầu nguyện.
Nhưng nó không kết thúc ở đó. Chúa Giêsu muốn ban cho tất cả chúng ta một sự đo lường về lòng thương xót và sự quan tâm của Ngài đối với những người đau khổ. Ngài muốn kêu gọi chúng ta “sống để chuyển cầu” cho mọi người đang cần giúp đỡ.
* Điều đó bao gồm cả “kẻ thù” của bạn—những người đã làm tổn thương bạn bằng cách này hay cách khác mà bạn có thể tha thứ cho họ và trái tim họ sẽ dịu lại.
* Nó bao gồm những người trong cộng đồng của bạn đang trải qua tình trạng vô gia cư hoặc nghèo đói, mà họ sẽ tìm ra cách thoát khỏi sự cô lập của mình.
* Nó bao gồm tất cả mọi người trong tù, bất kể tội ác của họ mà họ sẽ tìm thấy ân sủng để thay đổi cuộc sống của mình.
* Nó bao gồm tất cả những người bị bệnh hoặc đau khổ dưới bất kỳ hình thức nào mà họ sẽ nhận biết sự chữa lành của Chúa.
* Nó cũng bao gồm tất cả những người đang phải chịu đựng hậu quả của chiến tranh và áp bức, bất kể họ thuộc “phe” nào, mà họ sẽ tìm thấy công lý và hòa bình.
“Xin hãy mở mắt con, Chúa ơi.” Con phải lo việc của Cha con. Ước muốn làm theo ý Chúa Cha đã thôi thúc Chúa Giêsu và điều đó cũng có thể thôi thúc chúng ta. Cho dù bạn trẻ hay già, dù bạn sống ở đâu, làm nghề gì, dù bạn cảm thấy xứng đáng hay không xứng đáng, Cha trên trời đều có một sứ mệnh dành cho bạn. Vì vậy hãy nói với Người rằng hôm nay bạn muốn làm theo ý muốn của Người. Mỗi ngày, hãy xin Người mở rộng tầm mắt để đón nhận tiếng gọi của Người.
Một điều đặc biệt xảy ra khi Thiên Chúa mở mắt bạn là Ngài cũng mở rộng trái tim bạn. Người không chỉ cho bạn thấy sứ mệnh của mình mà còn mang đến cho bạn niềm khao khát hoàn thành nó. Ngay cả khi nhiệm vụ đầy thử thách hoặc con đường dường như không rõ ràng, Người vẫn đặt vào bạn một sự thôi thúc thiêng liêng để đi theo tiếng gọi của Người. Người làm cho bạn giống Chúa Giêsu hơn, Đấng cảm thấy rằng Ngài phải làm theo ý muốn của Cha Ngài.
Hãy tưởng tượng Giáo hội sẽ ra sao nếu mọi người đọc những lời này đều cảm thấy bị buộc phải làm theo ý muốn của Chúa Cha! Hãy tưởng tượng thế giới sẽ trông như thế nào! Các mối quan hệ có thể được phục hồi. Những người hoài nghi có thể tin tưởng. Bệnh tật có thể được chữa lành. Các tù nhân có thể tìm thấy hy vọng. Những tội nhân có thể tìm thấy lòng thương xót. Và người nghèo có thể tìm thấy lòng trắc ẩn.
“Hãy đến đây, ta cùng đi, nhờ ánh sáng ĐỨC CHÚA soi đường!” (Is 2:5). Hãy khám phá tiếng gọi của chúng ta và háo hức thực hiện nó!
Tuần này bạn hãy tự hỏi:
* “Công việc” mà Chúa đã giao phó cho cá nhân tôi là gì?
* Làm thế nào tôi có thể tận tâm hơn trong việc theo đuổi công việc của Chúa Cha?
“Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã cho con vinh dự được chia sẻ sứ mệnh của Chúa! Lạy Chúa, xin hãy đến và ban cho con lòng nhiệt thành hơn nữa để hoàn thành công việc đó!”
*************
Tiếng kêu cứu kiên trì cuối cùng đã thay đổi trái tim tôi như thế nào
Tác giả: Janice L. Smith Lại Thế Lãng chuyển ngữ
Hôm đó là một buổi sáng mùa đông lạnh giá và đầy tuyết. Tôi là người duy nhất ở văn phòng giáo xứ, nơi tôi làm điều phối viên mục vụ cho giáo xứ. Vẫn còn mặc áo khoác, tôi trả lời điện thoại đang đổ chuông.
Người gọi đến là một người đàn ông đang tìm kiếm sự giúp đỡ. Tôi nhận ra giọng nói của anh ta và ngay lập tức muốn phớt lờ yêu cầu của anh ấy – đối với tôi, tôi gọi anh ấy là “gã nghiện rượu điên cuồng”. Những lúc anh ấy đến tận cửa và khi tôi ở một mình, tôi đã không mở cửa. Anh ấy làm tôi bối rối.
“Xin lỗi, không thể giúp được.” Cố gắng xoa dịu người gọi, tôi nói với anh ta rằng tất cả những yêu cầu như vậy đều được xử lý thông qua Hội Vincent de Paul và người anh ta cần nói chuyện không có mặt. Tôi giải thích rằng chúng tôi không giữ tiền trong nhà xứ và chỉ cung cấp thực phẩm hoặc tem phiếu. Tôi nói tôi sẽ chuyển tin nhắn cho người phụ trách và đề nghị anh ta gọi lại sau.
Người đàn ông cho tôi biết tên anh ta là Tom, nói rằng một phiếu mua hàng sẽ ổn và anh ta cũng cần một chiếc túi vải thô vì tất cả quần áo của anh ta đều ướt. Anh ấy nói anh ấy sẽ gọi lại sau một giờ nữa.
Tôi đã gọi điện cho người đại diện của St. Vincent de Paul nhưng không thể liên lạc được với người này nên tôi tiếp tục công việc của mình. Một lúc sau, khi điện thoại lại reo, tôi đoán có lẽ đó là Tom. Tôi để cho máy nhận cuộc gọi. Tôi không phớt lờ cuộc gọi - thực tế là tôi đang tránh phải nói chuyện với Tom lần nữa.
Trong giờ tiếp theo, cứ năm phút anh lại gọi một lần. Đôi khi anh ấy để lại tin nhắn, lần khác anh ấy gọi collect (người nhận trả tiền) - tôi có thể nghe thấy người trực tổng đài nói với anh ấy rằng không có ai trả lời. Tôi càng ngày càng khó chịu. Cuối cùng, tôi nghĩ mình nên nói chuyện với anh ấy nếu không anh ấy sẽ tiếp tục làm phiền tôi. Tôi không thể không nghe điện thoại cả ngày!
Nhấc máy lên, tôi lại cố gắng xoa dịu và khuyên anh. “Đúng, tôi đã cố gắng chuyển tiếp tin nhắn của anh nhưng không thể chuyển được. . . . Hôm nay cha xứ không có ở đây. . . . Tôi không thể làm gì hơn cho anh. Thật lấy làm tiếc."
Bị kết án. Sự cắn rứt lương tâm đầu tiên ập đến. Tôi biết rằng nếu cha xứ có mặt, cha sẽ đưa cho Tom một ít thức ăn trong tủ hoặc tiền từ túi riêng của cha. Tôi đã thường xuyên chứng kiến những hành động hiếu khách và rộng lượng của cha xứ.
Tom nói rằng anh ấy đang tuyệt vọng. Quần áo của anh ấy ướt hết, anh ấy lạnh và anh ấy không chắc mình có thể đợi để được bảo vệ khỏi thời tiết lạnh cóng, cho đến khi tôi có thể liên lạc được với người khác. Thành thật mà nói, tôi xấu hổ khi thừa nhận phản ứng thiếu tế nhị và ích kỷ của mình trước lời cầu xin tuyệt vọng của anh ấy. Miệng tôi thốt ra những lời này: “Đó là tất cả những gì tôi có thể làm, xin lỗi. Tôi sẽ tiếp tục cố gắng liên hệ với người liên hệ của Hội St. Vincent de Paul. Cố gắng giữ ấm nhé.” Sau đó tôi cúp máy.
Sự cắn rứt thứ hai đánh mạnh. Tôi nhớ lại những lời Kinh Thánh: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết.” (Gc 2:15-17).
Những đoạn văn khác hiện ra trong đầu tôi. Người đàn ông vô gia cư này rất kiên trì, giống như bà góa trong dụ ngôn về sự cầu nguyện trong Phúc âm (Lc 18:5). Anh ấy xứng đáng được đối xử nhân đạo, có phẩm giá. Chúa Giêsu nói: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó” (Mt 5:3); lời nói của Ngài vang vọng trong trái tim tôi. Trực tiếp hơn nữa là Tobia 4:7: “Con hãy dùng của cải bố thí . . . con đừng ngoảnh mặt làm ngơ, để rồi đối với con, Thiên Chúa cũng sẽ không ngoảnh mặt làm ngơ.”.
Hành động. Tôi hối tiếc vì phản ứng mâu thuẫn—thậm chí đạo đức giả—của tôi đã mang lại một sự hoán cải tức thời. Nhịp tim của tôi đập dồn dập. Mặt tôi nóng bừng lên vì xấu hổ và bối rối khi đối mặt với sự thờ ơ, tự cho mình là đúng của mình. Rõ ràng, hành vi bên ngoài và tâm tính bên trong của tôi cần được điều chỉnh ngay lập tức!
Tôi rời văn phòng và về nhà. Tôi lấy một chiếc túi vải thô từ gác mái, dồn đồ tạp hóa từ tủ bếp và tờ 10 đô la từ “quỹ khẩn cấp” của tôi. Đặt những món đồ này vào một chiếc túi mua sắm bằng giấy có ghi tên Tom, tôi lái xe trở lại nhà thờ và để chiếc túi trên một chiếc ghế dài ở tiền sảnh. Khi anh ấy gọi lại trong vòng một giờ, tôi đã nói cho anh ấy biết nơi tìm chiếc túi.
“Xin Chúa chúc lành cho bạn,” Tom nói.
"Xin Chúa chúc lành cho anh!" Tôi trả lời. Tôi không nói với anh rằng tôi là ân nhân, cũng không kể lại sự việc với bất kỳ ai trong giáo xứ.
Ân sủng trong công việc. Một buổi sáng tuần sau, khi tôi đến làm việc, tôi ngạc nhiên khi thấy Tom đang dọn dẹp các bậc thềm phía trước và bên hông nhà thờ. Chúng tôi chào hỏi nhau và tôi hỏi anh ấy định làm gì.
“Tôi muốn giúp đỡ,” anh nói. “Trả ơn vì tuần trước bạn đã rất tử tế với tôi.”
Cử chỉ biết ơn của anh khiến tôi bất ngờ. Thật là hào phóng biết bao! Và món quà của tôi dường như không đáng kể khi so sánh.
Đó là cuộc gặp gỡ cuối cùng của chúng tôi - tôi không bao giờ gặp lại hay nghe tin gì từ Tom nữa. Nhưng dù rất ngắn gọn nhưng cuộc trò chuyện cuối cùng đó vẫn in sâu trong trí nhớ của tôi. Tôi vẫn có thể nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của Tom và vẫn nhớ lại cảm giác bình yên và vui vẻ khi chúng tôi nói chuyện. Thiên Chúa đã sử dụng mỗi người chúng ta như những công cụ ủa ân sủng, mỗi người là ơn lành cho người khác—mỗi người như Đức Kitô đối với người khác.