Nhảy đến nội dung

Vắng mặt nhưng luôn hiện diện - Trở nên chứng nhân tình yêu

VẮNG MẶT nhưng LUÔN HIỆN DIỆN

Đang khi chúc lành, thì Chúa Giê-su rời khỏi các ông và được rước lên trời” (Lc 24,51). Con Thiên Chúa xuống thế làm người, cứu chuộc nhân loại, giờ đây trở về trời, rút lại sự hiện diện thể lý đối với các môn đệ. Tuy nhiên, vắng mặt thể lý ấy không có nghĩa là chấm dứt hiện diện. Đức Giê-su đã phục sinh khải hoàn từ cõi chết và giờ đây lên trời; Ngài vượt trên mọi giới hạn của thời gian, không gian và nơi chốn. Ngài không còn ‘đầu đội trời, chân đạp đất’ như con người nữa, nhưng Ngài luôn hiện diện với chúng ta mọi nơi trên trái đất này.

Cũng biết rằng, sự hiện diện thể chất chưa hẳn là tất cả. Thật vậy, đôi bạn có gần gũi nhau về mặt thể lý mà không gặp gỡ nơi tâm trí thì cuộc sống họ vẫn xa cách, cô đơn như những vỏ sò trên bãi biển, bị sóng đánh trôi dạt. Mặt khác, người ta lại rất gần dù xa cách nhau hàng ngàn dặm trường. Khi vắng mặt, chúng ta nhìn nhau bằng phương cách mới mẻ, và có thể thừa nhận giá trị thật của nhau tốt hơn. Nếu chúng ta hiện diện trọn vẹn với ai đó, thì cho dù vắng mặt đi chăng nữa, thì sự hiện diện và kể cả sự vắng mặt của chúng ta cũng mang lại nhiều ơn ích.

Đức Giê-su lên trời chẳng phải là chuyến đi ra ngoài không gian, nhưng đúng hơn là cuộc hành trình về nhà Cha. Trong suốt sứ vụ tại thế, với bản tính con người, Ngài chỉ có thể ở một nơi và trong một thời gian hay không gian. Nhưng giờ đây, Ngài hiệp nhất trọn vẹn với Chúa Cha, nên Ngài hiện diện bất cứ nơi nào Thiên Chúa hiện diện, nghĩa là khắp mọi nơi, không còn bị bó buộc vào không gian, thời gian hoặc nơi chốn nữa, “quả thế, Đức Ki-tô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Ngài đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta” (Dt 9,24).

Là Ki-tô hữu hôm nay, chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa qua nhiều phương thế và cách thức như: đọc-suy niệm Kinh Thánh, tham dự Thánh lễ , lãnh nhận các Bí tích, sống bác ái-tha thứ và trở nên chứng tá qua đời sống đức tin. Đức Giê-su đã tín nhiệm các Tông đồ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê-a, Sa-ma-ri-a cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8), và giờ đây kêu mời chúng ta tiếp bước sứ mạng rao truyền Tin Mừng, cũng như làm chứng cho sự hiện diện sống động của Ngài trong trần gian này: “Chính anh em là chứng nhân của những điều này” (Lc 24,48).

Truyền thuyết cổ xưa được thuật lại rằng: Khi Đức Giê-su hoàn tất sứ vụ dưới thế, Ngài trở về trời và Tổng lãnh Thiên thần Ga-bri-el ra nghênh đón. Gặp Chúa Giê-su, Thiên sứ vui mừng hỏi ngay: “Xin Chúa cho chúng con biết công trình của Ngài sẽ được tiếp tục như thế nào ở dưới thế ạ?” Chúa Giê-su liền đáp: “Ta đã chọn 12 Tông đồ, một nhóm môn đệ và các người phụ nữ nhiệt thành. Ta cũng đã giao cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng đến tận cùng trái đất rồi!” Nghe thế, Thiên sứ Ga-bri-el dường như chưa hoàn toàn thỏa mãn, bèn hỏi tiếp: “Nhưng số môn đệ ít ỏi ấy thất bại thì Chúa có dự trù nào khác không?” Chúa Giê-su mỉm cười, biểu lộ sự đồng tình với Thiên sứ, nhưng Ngài vẫn quả quyết: “Đó là kế hoạch duy nhất Ta chọn. Ta không dự trù một kế hoạch nào khác cả. Ta tin tưởng vào họ”. Thật vậy, tác gỉả thư gửi cho tín hữu Do Thái đã nhắc nhở: “Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Dt 10,23). Nói cách khác, Chúa đã tín nhiệm các Tông đồ, các môn đệ và chúng ta sứ mạng trở nên chứng tá của Ngài bằng lời nói, bằng cách tuyên xưng đức tin (cụ thể: sống đức tin, giải thích đức tin và bảo vệ đức tin), bằng việc làm (gương sống tốt lành, thánh thiện, sống bác ái yêu thương, tha thứ, rộng lượng bao dung, mở lòng đón nhận anh chị em,…) như Thoreau (1817-1862, nhà văn, thi sĩ và triết gia thực tiễn người Mỹ) đã khẳng khái: ‘Chớ bao giờ khuyên bảo điều gì mà bạn không thể làm gương về điều đó’.

Hơn nữa, chúng ta có thể làm chứng tá cho Chúa qua đời sống thường nhật. Cây cối, hoa lá, chim chóc làm chứng cho sự sống bằng chính sự tồn tại, hiện hữu của nó. Qua vẻ đẹp phong phú, nét giản đơn đa dạng của chúng, ai ai cũng có thể nhận ra sự cao quý, tài tình, quyền năng của Đấng Tạo hoá. Cha Albert Peyriguère người Pháp (1883-1959, sống ẩn tu tại dãy núi Atlas, Mô-rô-cô) đã viết: “Nhiều môn đệ nói về Đức Ki-tô, nhưng Ngài lại muốn có những môn đệ quyết sống vì Ngài”. Tương tự, ơn trở nên chứng tá cao quý nhất chính là việc ‘hiến mạng sống mình vì bạn hữu’. Chắc hẳn đây chẳng phải là con đường êm ái, dễ dàng, mà đòi hỏi sức mạnh, can đảm và tính kiên định, nhẫn nại không ngừng. Trong lịch sử của Giáo hội hoàn vũ nói chung và Giáo hội Việt Nam nói riêng, gương chứng tá đức tin sống động của các Thánh tử đạo là minh chứng hùng hồn.

Sau cùng, xin mượn truyện kể ngắn này thay cho lời kết: Nhìn thấy một thổ dân Phi Châu đang chăm chú đọc sách, một nhà buôn Âu Châu đi ngang qua liền hỏi anh ta đọc gì? Người thổ dân ấy trả lời: “Tôi đang đọc Kinh Thánh”. Nhà buôn nhoẻn miệng cười nói: “Thứ đó, ở xứ tôi đã lỗi thời rồi!” Nghe vậy, Anh thổ dân đáp: “Nếu ở đây mà Kinh Thánh lỗi thời, thì ông đã bị ăn thịt từ lâu rồi”.

Lm. Xuân Hy Vọng

 

TRỞ NÊN CHỨNG NHÂN TÌNH YÊU

Anh chị em rất thân mến, chúng ta đã cùng Giáo hội hân hoan mừng đón Chúa Phục Sinh và giờ đây giống như mười một Tông đồ, có lẽ chúng ta lòng cũng buồn rười rượi, bịn rịn phải nói lời chia tay với Chúa Giê-su vì hôm nay Ngài lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Nhưng thiết nghĩ nỗi buồn này được lấp đầy với niềm vui chan chứa, và ngôn từ chia tay này được thay thế bằng lời trấn an đầy xác tín của Chúa Giê-su Ki-tô với các môn đệ và với mỗi người chúng ta: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28, 20). Các bài đọc hôm nay chúng ta vừa nghe, đặc biệt trình thuật ngắn gọn của Thánh Sử Mác-cô về sự kiện Chúa Thăng Thiên cho thấy: Mác-cô không đơn thuần thuật lại chuyện Đức Giê-su được đưa lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha, mà còn nhắn nhủ mỗi người chúng ta hãy nhớ “bài sai” của Chúa Giê-su gửi cho mọi người tin nhận vào Ngài: “Các con hãy đi khắp thế gian loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo, ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án” (Mc 16, 15-16). Nói cách khác, mỗi người chúng ta được Chúa mời gọi và được sai đi làm chứng nhân cho Chúa tình yêu trong mọi hoàn cảnh sống, mọi thời đại và mọi lãnh vực.

Trước tiên, chúng ta nên tự hỏi: ai là chứng nhân cho Thiên Chúa tình yêu? Và chứng nhân cho Chúa là người như thế nào? Thông thường, anh chị em nghe quý cha, quý sơ, quý thầy được nhận bài sai đi truyền giáo, phục vụ ở nơi này hay nơi khác, ở quê hương hay trên một vùng đất xa lạ nào đó, chứ ít ai nghe giáo dân được sai đi?!! Nghĩ vậy cũng là điều dễ hiểu, nhưng chúng ta nên biết rằng: khi được chịu Bí tích Rửa tội, chúng ta được trở nên người thuộc về Chúa Ki-tô (Ki-tô hữu), người được thông phần vào sứ vụ tiên tri, tư tế và vương đế của Ngài; còn nữa, chúng ta cam kết từ bỏ mọi âm mưu đen tối của tội lỗi, ma quỷ và hứa sống tín thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa qua việc sống đức tin và làm chứng cho Chúa qua đời sống hằng ngày. Như vậy, chứng nhân cho Thiên Chúa tình yêu chính là mỗi một người Ki-tô hữu chúng ta, là những người được khắc sâu trong tâm khảm mình ấn tín thánh thiêng không bao giờ phai mờ, là người mặc lấy thánh danh Ki-tô hay là người mang tên Ki-tô hữu. Trong bài đọc I trích sách Công Vụ Tông Đồ, Chúa Giê-su khẳng định: các tông đồ sẽ được lãnh nhận sức mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên các ông. Bấy giờ các ngài sẽ là chứng nhân của Thầy Chí Thánh Giê-su tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê-a, Sa-ma-ri-a cho đến tận cùng trái đất (x. Cv 1,8). Chứng nhân của Thiên Chúa tình yêu là người được Thánh Thần thúc giục, nâng đỡ, ban sức mạnh, can đảm, quả quyết, dũng cảm, dám ra khỏi con người yếu đuối, sợ sệt, nhút nhát của mình, vứt bỏ những thú vui trần tục, thói quen đam mê mà dám tuyên xưng vào Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi trao ban Con Một yêu dấu của mình để cứu độ con người tội lỗi (x. Ga 3, 16). Còn gì đẹp hơn, cao cả hơn tình yêu của một Thiên Chúa trao ban chính sự sống mình cho chúng ta, dù chúng ta bất xứng, vô ơn!

Như vậy, anh chị em chúng ta phải khẳng định một điều: đã là người Ki-tô hữu, tất cả chúng ta đều là chứng nhân của Chúa Ki-tô. Tuy nhiên, chúng ta sẽ làm chứng cho ai và cho điều gì? Một câu hỏi dường như không cần thiết và có lẽ hơi dư thừa, nhưng nếu nhìn vào cuộc sống gia đình, lịch sử bản thân, những thăng trầm, và bước ngoặt lớn trong đời sống đức tin của mỗi người, chúng ta sẽ nhận ra: lắm lúc chúng ta không làm chứng cho Chúa tình yêu và cho Chân lý. Lý do thì ôi thôi vô số, hơn cả 1001 lý chứng để biện hộ, biện minh hay giải trình. Thay vì làm chứng cho Chúa Ki-tô đã yêu thương tôi, đã chết cứu chuộc tôi, tôi lại làm chứng cho “cái tôi”, cho “bản ngã” tự kiêu của mình. Thay vì làm chứng cho lòng thương xót, lòng bao dung tha thứ của Thiên Chúa dành cho tôi, tôi lại làm chứng cho sự cứng nhắc, hành vi lên án và ghen ghét đối với chính mình và đối với tha nhân. Thay vì làm chứng cho cử chỉ khoan dung, chờ đợi và vòng tay rộng mở của Chúa dành cho con người tội lỗi như tôi, tôi lại làm chứng cho lối suy nghĩ kết án, xua đuổi và tách biệt của mình đối với anh chị em trong cộng đoàn; và còn vô vàn nhiều điều khác mà đáng lẽ chúng ta phải làm chứng, nhưng vì sự yếu đuối, chúng ta đã nhiều lần thỏa hiệp với điều bất chính hoặc chỉ lo cho tư lợi cá nhân. Là con cái Chúa, chúng ta phải sống trong sự thật, làm chứng cho chân lý, nhưng lắm lúc chúng ta lại làm chứng gian. Chính vì nhận biết con người thật mỏng manh, yếu đuối và dễ sa ngã như vậy, Thánh Phao-lô đã nhắn nhủ chúng ta qua bài đọc II trích thư gửi giáo đoàn Ê-phê-sô: “Anh em được ban thần khí khôn ngoan và mạc khải để nhận biết Người. Xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh...” (Ep 1, 17-18). Lời nguyện xin của thánh Phao-lô cho tín hữu Ê-phê-sô cũng chính cho mỗi người Ki-tô hữu chúng ta. Thật không sai khi chúng ta nhận mình yếu đuối, nhưng với ơn Chúa, chúng ta trở nên can đảm làm chứng cho Ngài. Chẳng chút gì sai khi chúng ta nhận biết mình mù quáng trước lợi danh, tiền, tài, tình, tham vọng và đam mê, nhưng với Thần khí khôn ngoan, đôi mắt tâm hồn của chúng ta sẽ trở nên sáng suốt, can trường đứng về phía chân lý và làm chứng nhân cho tình yêu đích thật, làm chứng tá cho Thiên Chúa.

Anh chị em rất thân mến, chúng ta đã biết mỗi một người chúng ta được Thiên Chúa mời gọi trở nên chứng nhân cho tình yêu Chúa và cho chân lý. Tuy nhiên, sống trong một thế giới đầy chuyển biến như ngày nay, chúng ta phải sống chứng tá như thế nào? Một niềm vui an ủi chắc chắn cho các Tông đồ, cho Giáo hội và cho chúng ta, đó là: mặc dù Chúa Giê-su vinh hiển lên trời, nhưng Ngài luôn đồng hành, ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Bằng chứng cụ thể, mỗi ngày Ngài hiện diện qua bí tích Thánh thể, trao ban chính sự sống Ngài cho chúng ta. Trong mọi phút giây, những khi ta quỵ ngã vì phạm tội, Ngài đồng hành với chúng ta qua bí tích Hoà giải để ban ơn tha thứ và bình an cho ta. Khi ta ốm đau bệnh tật phần hồn cũng như phần xác, Ngài đỡ nâng và cảm thông với ta, v.v...Những cảm nghiệm này, tiên vàn các Tông đồ là nhân chứng hùng hồn nhất “...phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và củng cố lời rao giảng bằng những phép lạ kèm theo” (Mc 16, 20). Trong đời sống mục vụ và truyền giáo ở xứ sở hoa anh đào này, con cũng được nhiều anh chị em chia sẽ: làm sao sống giữ vững đức tin ở đất nước phồn thịnh Nhật Bản này; làm sao sống chứng tá cho Tin Mừng và rao truyền Nước Chúa cho những người chưa tin nhận Chúa, v.v...Và câu chuyện đó luôn kết thúc bằng bốn chữ “khó lắm cha ơi!”. Thật sự, bản thân con cũng đồng cảm với quý ông bà, anh chị em, nhưng cũng nên khẳng định một điều: “khó không có nghĩa là không thực hiện được”. Nếu mỗi người chúng ta cố gắng bắt đầu làm chứng tá cho Chúa từ những việc làm bé nhỏ nhất, cử chỉ yêu thương, vị tha, sống hài hòa và hiệp thông với nhau. Và rồi từ tình yêu thương trong cộng đoàn dù bé nhỏ ấy sẽ như hương hoa lan tỏa khắp nơi. Hơn nữa, nếu chúng ta luôn tin tưởng rằng: chúng ta không ‘đơn thân độc mã’ sống chứng tá cho Tình yêu, nhưng các anh chị em khác đang cùng với ta và nhất là Chúa Ki-tô Phục Sinh luôn đồng hành, nâng đỡ ta trên bước đường trở nên nhân chứng Tình yêu như tâm tình trong một bài hát sinh hoạt “Phao-lô trồng, A-pô-lô tưới, Thiên Chúa sẽ cho mọc lên. Tôi trồng, anh tưới, Thiên Chúa cho bông lúa vàng”.

Với niềm tin xác tín vào Chúa Ki-tô, Con Thiên Chúa đã chịu chết cho nhân loại vì tình yêu. Và hôm nay Ngài lên trời, về cùng Chúa Cha, nhưng Ngài luôn ở cùng chúng ta cho đến ngày tận thế, chúng ta xin Chúa giúp sức cho mỗi người biết ý thức, can đảm trở nên chứng tá cho tình yêu mà Ngài đã dành cho chúng ta.

Chung lời ngợi khen Chúa Con,

Hân hoan thờ kính sắt son một niềm.

ng viên của Chúa tình yêu

Nhiệt tâm nhiệt huyết, đìu hiu xa rời,

Gần gũi, gắn bó đầy vơi

Nghị lực Thần khí, biển trời cậy trông.

Hoạt động hăng say vun trồng,

Ân sủng chan chứa tình nồng thánh ân

Người người chung sức tảo tần,

Ra đi làm chứng, xếp vần yêu thương. Amen.

Lm. Xuân Hy Vọng

Danh mục:
Tác giả: