Nhảy đến nội dung

Giá trị của thiên chức làm mẹ

GIÁ TRỊ CỦA THIÊN CHỨC LÀM MẸ

Trần Mỹ Duyệt

Đối với những ai còn quan tâm đến những giá trị hôn nhân và gia đình, thì điều mà khiến họ lo lắng nhất là việc kết hôn cũng như sinh con của thế hệ trẻ. Sự lo lắng này không phải là không có lý do, vì theo trào lưu tư tưởng của xã hội hiện nay, người trẻ ít quan tâm đến những giá trị truyền thống của hôn nhân và gia đình; ngược lại, là đề cao nếp sống cởi mở, buông thả, và tự do như trai gái sống chung không cần hôn thú, cưới hỏi, sinh con cái. Ly dị được cho là cách giải quyết cuộc hôn nhân cũ để bước vào một cuộc hôn nhân mới. Phá thai là điều hợp pháp. Và con cái là một gánh nặng!

Theo phong tục Việt Nam thì trai khôn lấy vợ, gái lớn gả chồng. Gia đình có con gái lớn mà chưa lập gia đình thì coi như “những trái bom nổ chậm!” Sợ con mình ế, sợ con mình có thai trước khi lấy chồng… Các bậc cha mẹ thường trao đổi với nhau, lo rằng con họ không lấy được vợ hay không có chồng, và họ không được bế đứa cháu nội hoặc cháu ngoại trước khi nhắm mắt. Những điều này xem ra không phải là những vấn đề quan trọng đối với giới trẻ. 

Hiện nay trên thế giới, tuổi kết hôn rất khác nhau tùy theo ảnh hưởng của mỗi nền văn hóa, kinh tế, và những quan niệm về xã hội. Một cách chung, ở những nước tiên tiến, mở mang, tuổi trung bình kết hôn của cả nam cũng như nữ là sau 20 và trước 30 tuổi. Tại một số nơi như ở Phi Châu và Á Châu, tuổi kết hôn sớm hơn, thường thường ở tuổi dậy thì hoặc trước 20 đối với nữ giới. Tại Hoa Kỳ, tuổi trung bình kết hôn là khoảng 30 đối với nam và 28 đối với nữ giới. Theo the World Economic Forum, nhiều nơi trên thế giới, tuổi kết hôn đang chậm lại. Điều này liên quan đến việc học hành, phát triển kinh tế, và sự thay đổi của xã hội. Nói chung phái nam kết hôn trễ hơn phái nữ.    

Riêng về vấn đề con cái, tài liệu khảo cứu của the Centers for Disease Control and Prevention (CDC) cho hay tại Hoa Kỳ, tuổi trung bình của phụ nữ sinh con đầu lòng là 27,5 tuổi. Nói chung, tuổi phụ nữ sinh con là gần 30 (29,6) tuổi. Phụ nữ tỉnh thành có khuynh hướng sinh con trễ hơn những phụ nữ tại các vùng quê.

Kết hôn và sinh con. Cụm từ này dường như liên quan nhiều hơn đến nữ giới, và trong thế giới tiến bộ, phát triển, cởi mở như ngày nay nó đang là một thách thức đối với nhiều chị em phụ nữ. Làm sao để vươn lên bình đẳng với nam giới bằng học vấn, nghề nghiệp, địa vị xã hội mà lại có thể dung hòa được vai trò làm vợ và làm mẹ? Đây cũng là lý do nhiều phụ nữ không muốn nghĩ đến chuyện chồng con. Đặc biệt, đối với thành phần bị ảnh hưởng do những tư tưởng cấp tiến, bình quyền nam nữ, cởi mở về tình yêu, hôn nhân, sinh lý, phá thai, hoặc đồng tính. Đối với những phụ nữ này có chồng, sinh con và trở thành một người vợ, người mẹ là một quyết định đổi đời. Nó không được quan niệm như một thiên chức của phụ nữ như vẫn thường được nhìn nhận trước đây.

The New York Times mới đây đã phổ biến một khảo luật của Jessica Grose mang tự đề “Motherhood Should Come with a Warning Label.” Tiến sỹ John Grondelski cựu khoa trưởng Trường Thần Học Seton Hall University, South Orange, New Jersey đã nhận định, phân tích chủ đề này qua bài viết “The Price of Motherhood” được phổ biến trên The Catholic Thing. Theo đó, thì “Tư Tưởng Xã Hội Công Giáo là bảo thủ bởi vì nó không phù hợp với tiêu chuẩn của những chọn lựa chính trị “phải” và “trái” hoặc “đúng” hay “sai”. Điều này xem như cắt nghĩa một cách mờ nhạt Thông Điệp thời danh Rerum Novarum,46 của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII về giáo lý xã hội Công Giáo tân thời năm 1891 đã đề cập đến làn sóng cách mạng công nghệ và giá trị hợp lý của lao động nhằm cung cấp đủ an toàn để người chồng có thể nuôi sống chính mình, vợ, và các con…và bằng cách chi tiêu chừng mực để dành dụm những khoản tiết kiệm nhỏ cho tuổi già. Những hướng dẫn này nhằm xây dựng một sự công bằng xã hội theo chủ thuyết Giáo Hội trong thời gian phong trào thợ thuyền bùng nổ. Trong lý luật của mình, John Grondelski đã nhắc đến nhận xét của một phụ nữ đã tóm lược tiểu luận của Grose: “Xã hội của chúng ta và những hệ thống kinh tế được phát triển bằng cách tước đoạt sức lao động của tôi như một người mẹ đã cống hiến.” Nó được xem như là hình phạt của thiên chức làm mẹ. [1]

Trong thế giới tiến bộ hôm nay do những nhu cầu của đời sống, nhiều khi khả năng kiếm tiền của người đàn ông không đủ để bảo đảm cho đời sống của gia đình nếu người phụ nữ chỉ ở nhà và chuyên lo việc nuôi dạy con cái. Trong rất nhiều gia đình, để sống còn đòi phải có nguồn lương của cả hai vợ chồng. Điều này đặt ra một vấn nạn và thách thức lớn lao cho vai trò phụ nữ. Để giải quyết vấn nạn kinh tế gia đình, đa số phụ nữ đã chấp nhận đi làm toàn thời gian hoặc bán thời gian. Nhưng khi đi làm như vậy, họ tìm đâu ra thời giờ để lo cho gia đình, lo cho con cái. Tìm đâu ra những công việc phù hợp với khả năng, đồng lương, và thời giờ? Những vấn đề nhức nhối này không chỉ đụng đến lãnh vực kinh tế, xã hội, và nghề nghiệp mà còn ảnh hưởng cả đến tương lai nhân loại sau này.

Như vậy câu hỏi là thời gian mà người phụ nữ dành cho gia đình và con cái có thể được coi như một nghề, một việc làm toàn thời gian không? Nếu phải thì họ cần được trả lương bao nhiêu? Một người phụ nữ đã hy sinh một phần đời cho chồng, cho những đứa con của bà không thể được đánh giá bằng tiền bạc. Bà đang trả giá cho hành động tự hiến này bằng tình yêu, bằng tình mẫu tử, và vì hạnh phúc gia đình. Tiền bạc không thể trả giá cho thiên chức làm mẹ và làm vợ.

Công việc toàn thời gian của một bà mẹ thường thì không có giá cả nhất định, nhưng một cuộc khảo cứu đã cho biết cái giá toàn thời gian của một bà mẹ là từ 140.315 $ đến 184.820$ mỗi năm. Nó bao gồm việc nuôi dạy con, trông nom, giữ gìn nhà cửa, di chuyển và nâng đỡ về tinh thần, cùng với những công việc đòi hỏi chuyên môn như nấu ăn, lái xe đưa đón con, chăm con, cố vấn tâm lý cho con và cả chồng nữa, và thày dạy. Và nếu một người phụ nữ ở nhà toàn thời gian trên 20 năm thì phải trả cho bà là 3.696.400$. [2]

Tóm lại, sẽ không thể lấy tiền mà đo lường được công sức mà một người phụ nữ dành toàn thời gian cho việc chăm lo con cái, dạy dỗ, và nuôi dưỡng chúng. Chỉ có tình yêu và sự hy sinh trong thiên chức làm mẹ mới có thể định giá nổi. Bởi lẽ thiên chức cao cả nhất và lớn lao nhất của người phụ nữ là làm vợ và làm mẹ.

Thiên chức làm mẹ và làm vợ khiến cho người phụ nữ trở nên đáng yêu và đáng kính. Nhưng thực tế, chúng ta rất lấy làm xấu hổ khi có những người chồng nghĩ mình mang về mỗi tháng vài ngàn hay vài chục ngàn lương, ném trước mặt vợ rồi không biết gì hơn ngoài việc la hét, dọa nạt, lấn lướt, đòi hỏi và hành hung người đã mất bao mồ hôi, nước mắt và công sức đang vun quén cho ngôi nhà hạnh phúc, cho những đứa trẻ được lớn lên trong yêu thương và sự ân cần dạy dỗ. Ca dao Việt Nam có câu: “Đàn ông xây nhà. Đàn bà xây tổ ấm”. Căn nhà hay một lâu đài dù tráng lệ, nguy nga đến đâu cũng chỉ là nơi che nắng, tránh mưa. Nhưng tổ ấm dù nhỏ bé, nghèo nàn, đơn sơ mới là nơi đem lại hạnh phúc cho những người sống trong đó. Và cũng thật bất công và bất hiếu đối với những người con vì không vâng lời, vì lạm dụng tình thương của cha, của mẹ để rồi khi lớn lên trở thành lêu lổng, sống lang thang đầu đường xó chợ. Tệ hơn là trở thành nỗi ám ảnh của xã hội. Những người con này rất đắc tội với cha mẹ. Thi sỹ Hồ Dzếnh đã tóm tắt bài thơ của ông khi viết về mẹ:

“Cô gái Việt Nam ơi!
Nếu chữ hy sinh có ở đời
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi.”[3]

Làm việc. Mọi người sinh ra trong xã hội đều phải đóng góp và làm giầu cho xã hội. Lao công là một trong những nghĩa vụ của thân phận con người khi sinh ra vào thế gian này. Nhưng không phải ai cũng như ai và làm cùng một công việc. Có những việc thuận cho đàn ông, và cũng có những công việc thích hợp với đàn bà. Bình quyền chỉ có giá trị khi nhân phẩm và tư cách của con người được nhìn nhận và tôn trọng. Nó không có nghĩa là ai cũng như ai, đàn ông cũng như đàn bà đều phải như nhau hoặc giống nhau.

 

Theo tinh thần học thuyết xã hội của Đức Lêô XIII, xã hội hôm nay cần nghiêm túc với lý thuyết xã hội Kitô giáo, nhìn nhận vai trò và thiên chức làm mẹ như một giá trị thiêng liêng, cao cả của người phụ nữ dù dưới bất cứ ảnh hưởng kinh tế hoặc những nhận thức khác nhau nào của xã hội.

Khi những “lợi lộc” kinh tế trở thành đỉnh điểm những lựa chọn, nó sẽ trở thành một thôi thúc của cạnh tranh lợi tức, không còn là một nhu cầu thiện ích chung trong trong xã hội tổng quát. Chúng ta cần một cuộc cách mạng luân lý và kinh tế trong suy nghĩ và thực hành về con cái và gia đình. Bao lâu những bất đồng giữa nhãn quan kinh tế và xã hội về phẩm giá của phụ nữ còn xảy ra, tôi sợ rằng khủng hoảng xã hội về vai trò cha mẹ cũng như quan tâm của chúng ta về giảm thiểu hôn nhân và mức độ sinh sản sẽ tồn tại.

_________

Tham khảo:

1. https://www.thecatholicthing.org/2025/07/07/the-price-of-motherhood/

2. How much a full time mom cost? AI Overview

3.Cảm Xúc. Hồ Dzếnh. Quê Ngoại 1943