Học khiêm nhường như Giê-su - Con đường đưa đến thánh thiện: Khiêm nhường
- T4, 27/08/2025 - 04:45
- Lm Xuân Hy Vọng
Học khiêm nhường như Giê-su
Chuyện xưa kể rằng: Có nhà thông thái kia qua sông lớn trên một chiếc đò được một người đàn ông chèo lái. Trên suốt chặng đường, nhà thông thái nói rất nhiều chuyện về thiên văn địa lý học, toán học, lịch sử và triết học. Nhà thông thái hỏi người lái đò:
– Ông có biết gì về triết học không?
Người lái đò nhoẻn miệng cười nói:
– Tôi không được học và quanh năm suốt tháng chỉ lái đò trên con sông này để kiếm sống qua ngày, thì làm sao biết được triết học.
Nhà thông thái: – Vậy, ông mất một phần ba đời người rồi!
Nhà thông thái lại hỏi tiếp: – Ông có biết gì về toán học không?
Cũng như câu đáp trên, người lái đò nói rằng tôi không biết.
Nhà thông thái: – Thế thì ông mất nửa đời người rồi còn gì!
Sau một hồi im lặng, người lái đò bèn hỏi nhà thông thái:
– Ông giỏi như vậy, chắc ông biết bơi chứ nhỉ?
Nhà thông thái đáp: – Tôi biết rất nhiều, từ đông tây kim cổ, thiên văn, địa lý, đủ mọi thứ kiến thức, nhưng tôi lại không biết bơi.
Nghe vậy, người lái đò từ tốn nói:
– Vậy là ông sắp mất cả cuộc đời rồi vì giông bão sắp đến và tôi chỉ có thể bơi để tự cứu mình mà thôi!
Quả thật, câu ngạn ngữ “cao nhân bất lộ tướng” chẳng sai chút nào! Khiêm tốn thường được người đời gọi là mỹ đức (một đức tính cao đẹp). Thế nhưng, trong đời sống thiêng liêng và giáo lý Công Giáo, khiêm nhường hoặc khiêm tốn là một nhân đức. Nó rất quan trọng và là bệ phóng giúp tăng trưởng các nhân đức khác. Chính vì vậy, Thánh Âu-gus-ti-nô chẳng ngần ngại khẳng định: “Nếu ai đó hỏi, thì tôi cũng trả lời rằng: nẻo đường của Thiên Chúa trước tiên là khiêm nhường, thứ đến là khiêm nhường và kế tiếp không gì khác ngoài khiêm nhường” (“This [God’s] way is first humility, second humility, third humility, and however often you should ask me I would say the same…” - St. Augustine, Letters 83-130, do Roy Joseph Deferrari biên soạn, và được Wilfrid Parsons chuyển ngữ, tập 18, trong Sách Giáo phụ Hội Thánh [The Fathers of the Church] (Washington, DC: The Catholic University of America Press, 1953), tr. 282). Hơn thế, Đức Giê-su đã từng gọi mời: “Hãy học với tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11, 29). Dẫu là Con Thiên Chúa xuống thế mặc lấy xác phàm, nhưng Người sống trọn vẹn khiêm hạ, chỉ dẫn, kêu mời chúng ta biết hạ mình, khiêm tốn như Người.
Sách Huấn Ca chỉ ra rõ ràng: “Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa. Vì quyền năng Đức Chúa thì lớn lao: Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường” (Hc 3, 18. 20). Mặc khác, “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1Pr 5, 5). Vì chưng, “ai tự tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (x. Ed 21, 31; Lc 14, 11). Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su tận mắt chứng kiến hành vi cao ngạo của người Biệt phái khi được mời đến dự tiệc, và Người đưa ra dụ ngôn hầu khuyến cáo thái độ tự tôn tự mãn của họ (x. Lc 16, 15; 18, 14). Thiết nghĩ, ngoài thực tế, không mấy ai mến chuộng những người luôn vỗ ngực xưng tên, cao ngạo chẳng xem ai ra gì, và có khi coi trời bằng vung! Chắc chúng ta đã từng được nghe câu nói: “Biển lớn ở chỗ thấp, mới có thể dung nạp được trăm sông”? Người càng khiêm tốn (dĩ nhiên là khiêm tốn thực sự), càng nhận được nhiều thiện cảm, và càng có khả năng bao dung, cảm thông với tha nhân. Trong cách đối nhân xử thế một cách khiêm tốn với mọi người là chúng ta không tỏ vẻ tài giỏi, biết hết vạn vật, không khoe khoang, phô trương, chẳng nóng giận ganh đua, hiềm tị, so sánh, chẳng cố tình chứng tỏ đúng sai, chẳng nghi ngờ ghen ghét với tài năng của anh chị em. Ngay kể cả khi người thật sự có tài năng xuất chúng chăng nữa, nếu biết khiêm nhường thì họ sẽ chọn cách bình lặng làm những việc cần làm và đáng làm mà thôi. Tựa như câu chuyện chiếc bình trà và tách trà. Một hôm, người thầy hỏi học trò:
- Theo con, giữa bình trà và tách trà, thì cái nào nhận được nước trà?
Học trò liền trả lời:
- Thưa thầy, tất nhiên tách trà được nhận ạ!
Nghe vậy, người thầy lại hỏi:
- Thế tách trà muốn nhận nước trà thì nó phải nằm cao hơn hay thấp hơn bình trà?
- Dạ, tách trà phải nằm thấp hơn bình trà!
Sống giữa đời thường, nếu muốn nhận/học hỏi điều gì, ước mong người khác chỉ dạy, hướng dẫn cho mình điều gì thì chúng ta phải đặt mình ở vị trí thấp hơn, nghĩa là biết khiêm hạ, khiêm tốn thật lòng. Ngược lại, nếu cứ trong tâm thế, thái độ tự cao, tự đại, luôn cho rằng bản thân là nhất, miệng cứ nói “tôi biết rồi, tôi biết rõ rồi!” thì chắc hẳn chúng ta sẽ chẳng nhận thêm được gì, vì chính chúng ta vô hình chung đưa mình lên quá cao, và tự cho mình là tách nước đầy, nên không ai có thể rót thêm vào được nữa. Trong đời sống đạo cũng thế, chúng ta sẽ được Chúa đoái nhìn, một khi biết khiêm hạ bản thân, mở rộng lòng đón nhận ân sủng. Tương tự, ở những bậc sống tu trì, nơi gia đình, giáo xứ, hội dòng nữa, những ai sống đời sống khiêm nhu, khiêm tốn chân thực thì không chỉ được Chúa chúc phúc, mà anh chị em khác cũng hết lòng đón nhận và yêu thương hết mực.
Sau cùng, người có lòng khiêm hạ thật tâm không sống dựa vào những gì thoáng qua, tạm thời như lời khen, bổng lộc, mà luôn biết hướng đến giá trị vĩnh hằng, hướng tới người nghèo trên mọi phương diện (không chỉ nghèo tiền nghèo bạc, nghèo vật chất, mà còn nghèo tinh thần, nghèo về mặt thiêng liêng, nghèo vì chưa được biết Chúa, v.v…). “Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại” (Lc 14, 13-14). Lời khuyên của Đức Giê-su đi ngược hẳn với thói thường của người đời, của chúng ta. Tuy nhiên, chính vì không giống như thói đời trần gian, nên chúng ta mới thực sự hưởng ơn lành đích thật như tác giả Sách Huấn Ca khẳng khái: “Nước dập tắt lửa hồng, bố thí đền bù tội lỗi. Ai đền ơn đáp nghĩa là biết lo xa, lúc sa cơ, người ấy sẽ tìm được nơi nương tựa” (Hc 3, 30-31). Chỉ lúc ấy, “anh em tới dự đại hội vui, dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời. Anh em đã tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện” (Dt 12, 22).
Xin cho con luôn chân thành
Không màu mè, sỉ diện, sanh cao ngạo.
Biết hạ mình, sống thanh cao
Hằng noi gương Chúa, chẳng giờ thở than.
Sông sâu nước chảy đá mòn
Lúa tốt trĩu nặng cúi đầu đứng trông. Amen!
Lm. Xuân Hy Vọng
Con đường đưa đến thánh thiện: Khiêm nhường
Khi đọc Phúc Âm hôm nay, con chợt nhớ đến câu chuyện của một giáo xứ nọ. Hầu như giáo dân đến nhà thờ vào ngày hôm sau, họ đều ngồi ở những dãy ghế cuối chót, hoặc bên ngoài. Cha xứ ngạc nhiên và hỏi họ, thì Ngài nhận được câu trả lời vì Chúa Giê-su dạy (x. Lc 14, 1.7-14). Thế là Cha xứ phải vất vả mời họ vào nhà thờ, hoặc ngồi ở những hàng ghế phía trên…Nếu chúng ta thực hành Lời Chúa như vậy thì vô hình dung, chúng ta sống nệ theo câu chữ, chứ chưa đụng chạm được đến cốt lõi của con đường nên thánh thiện mà chính Chúa Giê-su đã sống, dạy bảo chúng ta qua các bài đọc Phụng vụ hôm nay, đó là: thái độ khiêm nhường, nhân đức khiêm nhường, lòng khiêm tốn.
Đối với xã hội ngày nay, đặc biệt ở những xứ sở phát triển, đặt nặng về vật chất, chủ nghĩa thực dụng, thì khiêm nhượng chẳng phải là một nhân đức được biết đến hoặc được chú trọng hay được yêu chuộng. Có lẽ, khiêm nhường là nhân đức bị khinh dể và chế giễu nhiều nhất, bởi vì nó rứt bỏ sự kiêu hãnh, lòng tự cao, tự đại, thái độ tôn thờ bản thân, nổi loạn, lối sống chỉ trích, phẫn uất, khoác lác, v.v…ra khỏi tâm hồn con người chúng ta. Vì vậy, khiêm nhượng là nhân đức đối nghịch với thời đại đầy kiêu căng, kiêu hãnh của chúng ta.
Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta đến thái độ khiêm tốn, lối sống khiêm nhượng thật sự, và chính nhờ nhân đức khiêm nhượng này mà chúng ta tiến lên trong bước đường thánh thiện. Nhưng khiêm nhường đích thật là gì? Câu trả lời nằm ở bài đọc I trích Sách Huấn Ca “…con hãy hạ mình, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa, thi hành công việc con cách hiền hoà thì con sẽ được người đẹp lòng Chúa quý chuộng,…vì chỉ có một mình Thiên Chúa có quyền năng cao cả, và mọi kẻ khiêm nhượng phải tôn vinh Chúa” (Hc 3, 17.20). Như vậy, khiêm nhường là sự tôn nhận Thiên Chúa là chủ tể, chứ không phải tự tôn bản thân mình, và hơn nữa, mang thái độ sẵn lòng phục vụ một cách khiêm tốn, kín ẩn, không phô trương.
Chúa Giê-su hằng mời gọi mỗi chúng ta “hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11, 29), và Người mặc lấy lối sống khiêm nhường hơn ai hết “Người đã tự hạ mình, vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá! Vì thế Thiên Chúa đã suy tôn Người” (Pl 2, 8-9). Những ai tôn nhận sự chủ tể tuyệt đối của Thiên Chúa (người tự hạ mình, người khiêm nhượng) thì được Người nâng lên, và ai tự nâng mình lên (người tự tôn bản thân, không tôn nhận Thiên Chúa là chủ tể) sẽ bị hạ xuống (x. Lc 14, 11). Trong nhật ký (NK) của Thánh nữ Fau-sti-na, khi đề cập đến nhân đức khiêm nhượng, Ngài viết: “Giờ đây, tôi hiểu được vì sao có ít thánh nhân đến thế; chỉ vì có quá ít linh hồn khiêm nhượng thẳm sâu” (NK 1306), và tiếp lời “không có gì tốt hơn cho một linh hồn bằng những sỉ nhục…Nếu có một linh hồn thực sự hạnh phúc trên trần gian này thì chỉ có thể đó là linh hồn khiêm nhượng…Một linh hồn khiêm nhượng không tự tự mãn, nhưng đặt tất cả sự tín thác của họ nơi Thiên Chúa (NK 593). Bởi vì khiêm nhượng là phương thuốc đặc trị tật kiêu ngạo, lòng tự kiêu, tự đại, tính cao ngạo, kiêu hãnh, v.v…, nên khiêm nhường là nhân đức căn bản trong đời sống thiêng liêng, đời sống đạo, đời sống đức tin, và là con đường đưa đến sự thánh thiện như Thánh Âu-gus-ti-nô, một trong những đại tiến sĩ của Giáo Hội đã nhận định: “Tôi muốn anh em hãy dùng tất cả lòng mến của anh em mà đặt mình dưới chân Chúa Ki-tô, và đừng đi con đường nào khác để đạt đến chân lý ngoài con đường đã được Đấng tuy là Thiên Chúa, nhưng đã biết đến sự yếu đuối của những bước chân yếu hèn của chúng ta. Như vậy, con đường này trước tiên là khiêm nhượng; thứ hai là khiêm nhượng, và thứ ba cũng là khiêm nhượng…Mỗi khi anh em hỏi tôi về những tiêu chuẩn sống của đạo thánh, tôi sẽ cho anh em một câu trả lời duy nhất: khiêm nhượng” (trích Thư số 118: 2,11). Là con người, một hữu thể tội lỗi, chúng ta có lòng kiêu hãnh, hợm mình, tự cao, tự đại, khởi loạn, phẫn uất và xu hướng chỉ trích tiềm ẩn, vì vậy, không một ai có thể nói tôi không phải là người tự cao! Chúng ta biết tự hào về những gì mình nỗ lực đạt được, những thành công do công sức gầy dựng của bản thân, hoặc những gì đắc thủ; nhưng từ thái độ tự hào đi đến thái độ tự cao, tự kiêu, tự tôn thờ bản thân, tự khuếch trương cái tôi, v.v…thì chẳng xa là bao! Ngược lại, ranh giới đó lại rất gần, và khó xác định rõ ràng. Cũng theo lời thánh nữ Fau-sti-na, Đức Mẹ dạy Ngài về nhân đức khiêm nhượng như sau: “Mẹ ước mong con hãy thực hành ba nhân đức quý trọng đối với Mẹ, và làm đẹp lòng Thiên Chúa nhất. Thứ nhất là đức khiêm nhượng, khiêm nhượng và một lần nữa là khiêm nhượng (NK 1415)
Do đó, chìa khoá đưa đến lòng khiêm nhượng đích thật là sự “dâng hiến trọn vẹn, dâng hiến không ngừng”, sự hạ mình, khiêm hạ, tận hiến, sẵn lòng phục vụ như chính Thiên Chúa đã trao ban Con Một yêu dấu của Người như quà tặng ân tình, Người chịu chết trên thập giá vì mỗi một người chúng ta. Hơn nữa, Chúa Giê-su đã sống hoàn hảo nhân đức khiêm nhượng qua việc “đến thế gian không phải để được phục vụ, nhưng là phục vụ và hiến mạng sống mình là giá cứu chuộc cho muôn người” (x. Mt 20, 28).
Tiếp đến, một chìa khoá khác đưa đến lối sống khiêm nhượng thật sự là những ai chung quanh ta - đối tượng cho chúng ta yêu thương, phục vụ. Khi khiêm tốn nâng đỡ, trao ban một cách âm thầm, ‘không phèn la, trống đánh inh ỏi’ là lúc chúng ta sống nhân đức khiêm nhượng, chu toàn những công việc đơn sơ phù hợp với bậc sống, trách nhiệm sống; không một chút khoe khoang, phô trương, phô diễn, tự nâng mình lên với những cống hiến lớn lao, nhưng làm tất cả mọi công việc mọn hèn với thái độ khiêm hạ, hết mình và chẳng kể công trạng hay mong đáp đền (x.Lc 14, 12-14)
Sau cùng, chìa khoá dẫn đến lối sống khiêm nhượng, thái độ khiêm nhường đích thật là sự chân thành, tấm lòng trong suốt của ta, để qua đó mọi người có thể nhận ra Thiên Chúa đang hoạt động, hướng dẫn, chủ tể đời sống, hành vi của chúng ta. Thái độ kiêu căng, tự cao chính là mầm móng tội lỗi ăn sâu trong lòng chúng ta như sách Huấn Ca dạy: “Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó” (Hc 3, 28). Vì vậy, để loại bỏ những gì trái ngược với đức khiêm nhượng, chúng ta hãy chạy đến cùng Đấng trung gian của giao ước mới - Đức Giê-su Ki-tô (x.Dt 12, 24a), và xin Đức Mẹ - mẫu gương sống khiêm nhượng tuyệt vời - dẫn chúng ta đến với Chúa Giê-su: “Ngài bảo gì, hãy làm như vậy” (x.Ga 2, 5) Duy chỉ những ai sống khiêm nhượng thật sự mới cảm nhận sâu xa tình Chúa xót thương và có thể tiếp nhận lòng thương xót Chúa một cách vô bờ bến. Chỉ khi nào chúng ta chết đi cái tôi, lòng kiêu hãnh, sự tự cao của mình thì chúng ta mới có thể mặc lấy chiếc áo cẩm bào của lòng khiêm nhượng thâm sâu; và chỉ khi nào chúng ta huỷ mình ra không, thì chúng ta mới có thể được đổ đầy.
Khiêm nhường là điều kiện thiết yếu của sự thăng tiến đời sống thiêng liêng, đời sống tu đức, đời sống đức tin, đời sống tận hiến - phục vụ - truyền giáo; và khiêm nhượng chính là phương thuốc trị liệu thần dược đối với nhân loại tội lỗi; là nền tảng của sự thánh thiện.
“Lòng con chẳng dám tự cao
Mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi!
Đường cao vọng, chẳng đời nào bước
việc diệu kỳ vượt sức chẳng cầu;
Hồn con, con vẫn trước sau
giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình.
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ,
trong con, hồn lặng lẽ an vui” (Tv 131, 1-2). Amen!
Lm. Xuân Hy Vọng