Nhảy đến nội dung

Bên kia sự chết - Cái chết đáng sợ chăng?

BÊN KIA SỰ CHẾT

Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ!

Bước vào Tháng 11 - thời khắc mà Giáo Hội cách riêng cầu nguyện cho các đẳng linh hồn. Tại châu Âu, Nhật Bản hay miền Bắc Việt Nam, đây cũng là lúc sắc thu, lá phong, lá vàng rực mọi nơi, như nhà thơ Lưu Trọng Lư trong ‘Tiếng Thu’ đã diễn tả mùa thu:           “Em không nghe mùa thu,

                                                         Lá thu kêu xào xạc,

                                                         Con nai vàng ngơ ngác

                                                         Đạp trên lá vàng khô”.

Chỉ một làn gió nhẹ đủ làm những chiếc lá vàng rơi lã chã: “Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” (‘Thu điếu’ của Nguyễn Khuyến). Lá vàng rơi làm trơ trụi cây cành, chẳng còn sức sống trong băng giá mùa đông lạnh rét sau đó. Đặc biệt, tháng 11 là thời khắc nhớ đến thân phận các tín hữu đã qua đời đang được thanh luyện cho ngày sum họp diện kiến Thiên Chúa. Mong trở về hạnh phúc bên Chúa như cây cối đợi xuân sang: “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài” (Kn 3,1), và “sau một giây lát chịu khổ nhục, các ngài sẽ được vinh dự lớn lao: vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu” (Kn 3,5-6). Tác giả sách Khôn Ngoan đã đưa ra lí do rất sắc bén: “Các ngài đã tin tưởng ở Chúa, thì sẽ hiểu biết chân lý, và trung thành với Chúa trong tình yêu, vì ơn Chúa và bình an sẽ dành cho những người Chúa chọn” (Kn 3,9).

Chắc hẳn, ai trong chúng ta ít nhiều cũng tự vấn: bên kia cái chết là điều gì đang chờ đợi ta? Là người Công Giáo, chúng ta tin và xác tín: mầu nhiệm các Thánh Thông công, tin phép tha tội, tin xác loài người ngày sau sống lại, tin sự sống đời đời. Vì vậy, chúng ta hết lòng tín thác vào lòng thương xót Chúa, và cầu nguyện cho các đẳng linh hồn trong suốt cuộc đời, chứ không chỉ những ngày giỗ chạp, hay tháng 11. Nhớ lại câu chuyện: Trên giường hấp hối, thánh Mô-ni-ca nhắn nhủ thánh Âu-gus-ti-nô con ngài rằng: “Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ mỗi khi con tới bàn tiệc Thánh”. Đâu đó, chúng ta cũng đã nghe nhiều về lời nhắn nhủ tương tự từ người thân trước khi từ giã cõi đời như thánh nữ Mô-ni-ca, nhưng rồi ký ức nào cũng phôi phai, và nỗi buồn nào cũng vơi đi, nên nhiều người trong chúng ta lãng quên cầu nguyện hoặc xin lễ như được học giáo lý từ lúc còn bé. Khát vọng tự nhiên nơi mỗi người chính là cần được yêu thương, cần được nhớ tới. Hơn nữa, chẳng ai muốn mình trở nên một hoang đảo cô đơn cả. Nhìn dưới lăng kính đức tin, lời nhắn nhủ van xin kẻ khác cầu nguyện cho, còn là dấu chỉ của lòng khiêm tốn, một thái độ chấp nhận giới hạn mong manh bất lực của bản thân.

Để sống mầu nhiệm “các Thánh Thông công”, Giáo Hội ngay từ buổi đầu kỷ nguyên Ki-tô giáo đã khuyến khích, cổ vũ việc tưởng nhớ cầu nguyện cho những người quá cố. Các thế kỷ sau đó đã dành tháng 11 hằng năm cho việc đạo đức này. Hai ngày lễ Mừng kính Các thánh và cầu cho các linh hồn được ấn định tương ứng vào ngày mùng một và mùng hai đầu tháng với những kinh nguyện rất ý nghĩa, nhắc nhở chúng ta về sự hiệp thông trong Giáo Hội. Công đồng Va-ti-can II trong Hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội đã viết: “Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh…” Hơn nữa, đề cập tới sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Đồng viết: “Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bầu cho chúng ta bên Chúa Cha…” Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái, vừa là một bổn phận thảo hiếu đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh thiện. Vì vậy, Thánh Phao-lô đã khẳng khái: “Chúng ta còn được vinh hiển trong Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, nhờ Người mà bây giờ chúng ta được lãnh ơn giao hoà” (Rm 5,11). Bởi lẽ, qua Chúa Giê-su Ki-tô, chúng ta biết và tin tưởng vào Thánh ý Chúa Cha: “Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,40).

Sau cùng, với niềm tín thác vào Chúa, chúng ta cùng lắng nghe tiếng nói từ thế giới bên kia vọng về. Vào mùa Chay năm 1922, nữ tu Jo-sé-fa xin Chúa cho mình được liên hệ với thế giới luyện ngục, và nữ tu đã ghi nhận: Rất nhiều linh hồn đã xin ngài hy sinh và cầu nguyện cho. Một linh hồn nói: “Tôi đã sống trong tình trạng tội lỗi suốt bảy năm. Sau đó bị đau ốm ba năm, tôi từ chối không muốn xưng tội. Như thế, tự tay tôi đã xây lấy hỏa ngục cho mình. Tuy nhiên, nhờ những lời kinh cầu và hy sinh của mẹ tôi, mà tôi đã ăn năn thống hối trở về với Chúa. Giờ đây, tôi đang bị giam cầm trong luyện ngục; tôi van xin soeur cứu giúp để tôi được mau chóng ra khỏi tình trạng này….”

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho các linh hồn mau được hưởng nhan Thánh Chúa, cùng với các Thánh trên Thiên đàng. Amen!

Lm. Xuân Hy Vọng

+++++++++++

CÁI CHẾT ĐÁNG SỢ CHĂNG?
 

Đã là con người xác phàm nhân thế, thì đứng trước cái chết, ai mà chẳng sợ. Đức Giê-su trong vườn Cây Dầu (Gét-si-ma-ni) đối diện với cuộc tử nạn, Ngài cũng sợ, nhưng không thoái lui: "...Xin vâng theo ý Cha, đừng theo ý con” (x. Mt 26, 39).

Lẽ thường tình, cái chết là một sự dứt bỏ, nó chia lìa hai người bạn thân thiết nhất đó là linh hồn và thể xác. Cái chết là một cuộc hành trình, một chuyến đi cô đơn nhất vì  phải để lại sau lưng tất cả những gì mình quyến luyến nhất (người thân yêu, tiền tài, địa vị, chức tước, thành công, thành đạt, kể cả những gì nuối tiếc). Nó sẽ chấm dứt tất cả những gì chúng ta đã đầu tư trong cuộc đời. Chính vì thế nó thường làm cho chúng ta bàng hoàng và sợ hãi.

Thế nhưng, với nhãn quan của người Ki-tô hữu, chúng ta nhìn cái chết dưới ánh sáng đức tin, chan chứa niềm cậy trông Phục sinh của Đức Giê-su. Thật vậy dưới ánh sáng đức tin thì cái chết chẳng phải là một chấm dứt/kết thúc, mà là một khởi đầu/khởi sự; chẳng phải là một chuyến ra đi vô định, mà là cuộc trở về nhà Cha mãi mãi; chẳng phải là một chia lìa vĩnh viễn, nhưng là một kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, với chư Thánh nam nữ, với anh chị em (những người ra đi trước chúng ta). Từ đó chúng ta rút ra rằng: trước cái chết, ai cũng sợ, nhưng thực sự không "đáng" sợ!

Xin tưởng nhớ đến ông bà, cha mẹ, tổ tiên, quý cha, sơ, thầy, gia đình, bạn bè thân hữu, anh chị em giáo dân, nạn nhân của mọi tai ương-tội ác-bệnh dịch, các hài nhi, thai nhi chưa một lần được 'khóc' chào đời. Nguyện xin lòng nhân hậu Chúa vượt trên mọi nỗi sợ hãi, yếu hèn, thiếu thốn của con người mỏng dòn chúng con, thương đón nhận các linh hồn ấy vào Nước Trời. Amen!

Sau cùng, chúng ta cùng suy gẫm thêm qua bài thơ này:

Giả như chết là hết

Sống tốt để làm gì

Học hành có nghĩa chi

Nỗ lực thành mây khói

Giàu có rồi cũng chết

Khó nghèo chẳng khác chi

Văn minh, danh tiếng gì

Ra đi trong quên lãng.

 

Thế nên chết chưa (là) hết

Chỉ chuyển tiếp mà thôi

Chết không là đoạn kết,

Bước sang thế giới khác

Chẳng giống chốn dương gian

Chẳng dựng vợ gã chồng,

Không duy trì nòi giống,

Sống như các thiên thần.

 

Ai rồi cũng ra đi

Sớm hay muộn can gì

Nhắm mắt và xuôi tay!

Chết là một chuyến đi

Bước vào đời hằng sống

Khép lại bao sầu khổ

Bình an hằng ngự trị

Hạnh phúc thật mãi liên.


Lm. Xuân Hy Vọng

Danh mục:
Tác giả: