Nhảy đến nội dung

Lòng Thương Xót: Từ gặp gỡ đến sứ vụ

Suy niệm về Lòng Chúa Thương Xót (LCTX) cho năm 2026.

Chủ đề tổng quát cho cả năm có thể là:

"LÒNG THƯƠNG XÓT: TỪ GẶP GỠ ĐẾN SỨ VỤ".

Chương trình được chia thành 3 giai đoạn để giúp cộng đoàn lớn lên trong đức tin:

1.          Gặp gỡ: Nhận biết khuôn mặt xót thương của Thiên Chúa.

2.          Biến đổi: Để LCTX chạm vào cõi lòng và đời sống.

3.          Sai đi: Thực thi LCTX với tha nhân.

 

Giai Đoạn 1: Khám Phá Khuôn Mặt Xót Thương Của Chúa Cha

Tháng 1: Khởi nguồn của Lòng Thương Xót

·              Chủ đề: Thiên Chúa là Cha, Đấng giàu lòng xót thương.

·              Tin Mừng: Luca 15, 11-32 (Dụ ngôn Người Cha nhân hậu/Đứa con hoang đàng).

·              Định hướng: Bắt đầu năm mới bằng việc tái khám phá hình ảnh một người Cha không ngồi xét nét tội lỗi, nhưng ngày đêm mong ngóng con trở về để trao ban sự sống mới.

Tháng 2: Đức Giêsu - Dung mạo hữu hình của Lòng Thương Xót

·              Chủ đề: Sự chạnh lòng thương của Thiên Chúa làm người.

·              Tin Mừng: Mác-cô 1, 40-45 (Đức Giêsu chữa người bị phong hủi).

·              Định hướng: Chiêm ngắm việc Đức Giêsu không ngại "chạm vào" những gì dơ bẩn, đau khổ nhất của con người để chữa lành. LCTX xóa bỏ mọi khoảng cách.

Tháng 3: Lòng Thương Xót và Tội Lỗi (Mùa Chay)

·              Chủ đề: Không ai bị kết án nếu biết chạy đến với Chúa.

·              Tin Mừng: Gioan 8, 1-11 (Người phụ nữ ngoại tình).

·              Định hướng: Chúa ghét tội nhưng yêu thương tội nhân. Nhấn mạnh vào câu: "Tôi cũng không lên án chị đâu. Thôi chị về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa."

Tháng 4: Chiến thắng của Lòng Thương Xót (Mùa Phục Sinh)

·              Chủ đề: Bình an cho anh em - Vết thương trở thành nguồn ân sủng.

·              Tin Mừng: Gioan 20, 19-31 (Chúa Phục Sinh hiện ra với Tôma).

·              Định hướng: Tháng của Lễ Kính Lòng Chúa Thương Xót. Các vết thương của Chúa không biến mất sau Phục sinh, mà trở thành "cửa ngõ" để Tôma và nhân loại chạm vào tình yêu cứu độ.

Giai Đoạn 2: Sống Và Cảm Nghiệm Lòng Thương Xót

Tháng 5: Mẹ Maria - Mẹ của Lòng Thương Xót

·              Chủ đề: Sự nhạy bén của trái tim người Mẹ.

·              Tin Mừng: Gioan 2, 1-11 (Tiệc cưới Cana).

·              Định hướng: Học nơi Mẹ Maria ánh mắt quan sát đầy thương xót để nhận ra sự thiếu thốn của người khác trước khi họ mở lời xin, và đem nhu cầu đó đến với Chúa.

Tháng 6: Trái Tim Chúa Giêsu - Đại dương Thương Xót

·              Chủ đề: Mời gọi hãy đến và nghỉ ngơi.

·              Tin Mừng: Mát-thêu 11, 28-30 (Tất cả hãy đến với Ta).

·              Định hướng: Tháng Kính Thánh Tâm. LCTX không chỉ là tha thứ, mà còn là chốn nương nương, an ủi cho những tâm hồn gánh nặng lo âu giữa cuộc đời.

Tháng 7: Lòng Tín Thác - Chìa khóa mở cửa Lòng Thương Xót

·              Chủ đề: "Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa".

·              Tin Mừng: Mát-thêu 14, 22-33 (Phêrô đi trên mặt nước).

·              Định hướng: Khi sóng gió cuộc đời nổi lên, LCTX nâng đỡ chúng ta, miễn là chúng ta dám tin tưởng nắm lấy tay Ngài thay vì nhìn vào bão tố.

Tháng 8: Lòng Thương Xót nuôi dưỡng sự sống

·              Chủ đề: Chúa chạnh lòng thương vì họ bơ vơ vất vưởng.

·              Tin Mừng: Mát-thêu 14, 13-21 (Hóa bánh ra nhiều).

·              Định hướng: LCTX quan tâm đến cả nhu cầu thiêng liêng (Lời Chúa) và nhu cầu vật chất (bánh ăn) của con người. Chúng ta được mời gọi cộng tác từ những gì nhỏ bé mình có.

Giai Đoạn 3: Trở Thành Khí Cụ Của Lòng Thương Xót

Tháng 9: Thực thi Lòng Thương Xót với tha nhân

·              Chủ đề: Ai là người thân cận của tôi?

·              Tin Mừng: Luca 10, 25-37 (Người Samari nhân hậu).

·              Định hướng: LCTX không phải là lý thuyết suông mà là hành động băng bó vết thương cho người bị bỏ rơi bên vệ đường cuộc sống.

Tháng 10: Sứ mạng Loan báo Lòng Thương Xót (Tháng Truyền Giáo)

·              Chủ đề: Hãy có lòng thương xót như Cha anh em.

·              Tin Mừng: Luca 6, 36-38 (Đừng xét đoán, hãy cho đi).

·              Định hướng: Bản chất của truyền giáo là lan tỏa tình yêu thương. Người môn đệ là người phản chiếu sự bao dung của Thiên Chúa cho thế giới.

Tháng 11: Lòng Thương Xót và Cánh Chung (Tháng Các Linh Hồn)

·              Chủ đề: Thước đo cuối cùng là Tình Yêu.

·              Tin Mừng: Mát-thêu 25, 31-46 (Cuộc phán xét chung).

·              Định hướng: Vào ngày sau hết, chúng ta sẽ được xét xử dựa trên lòng thương xót mà ta đã dành cho những người bé mọn nhất.

Tháng 12: Mầu nhiệm Nhập Thể - Quà tặng Lòng Thương Xót

·              Chủ đề: Thiên Chúa viếng thăm dân Người.

·              Tin Mừng: Luca 1, 67-79 (Bài ca Benedictus - "Nhờ dạ đông thương xót của Chúa chúng ta...").

·              Định hướng: Giáng sinh là bằng chứng vĩ đại nhất của LCTX: Thiên Chúa không bỏ mặc con người trong bóng tối tử thần nhưng đã mang Ánh Sáng đến viếng thăm.


 

GIAI ĐOẠN 1: KHÁM PHÁ KHUÔN MẶT XÓT THƯƠNG CỦA CHÚA CHA

Tháng 1: KHỞI NGUỒN CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

·              Chủ đề: Thiên Chúa là Cha, Đấng giàu lòng xót thương.

·              Tin Mừng: Luca 15, 11-32 (Dụ ngôn Người Cha nhân hậu/Đứa con hoang đàng).

·              Định hướng: Bắt đầu năm mới bằng việc tái khám phá hình ảnh một người Cha không ngồi xét nét tội lỗi, nhưng ngày đêm mong ngóng con trở về để trao ban sự sống mới.

THIÊN CHÚA LÀ CHA, ĐẤNG GIÀU LÒNG XÓT THƯƠNG

DẪN VÀO THÁNH LỄ

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

Hôm nay, trong những ngày đầu của tháng Một, tháng khởi đầu cho một năm dương lịch mới, chúng ta được mời gọi trở về với cội nguồn của niềm hy vọng và sự sống, đó chính là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chủ đề của tháng này dẫn chúng ta đi vào trọng tâm của đức tin: "Khởi nguồn của Lòng Thương Xót". Và không có hình ảnh nào diễn tả Lòng Thương Xót ấy sống động, chân thực và cảm động cho bằng hình ảnh của một Người Cha nhân hậu, Đấng luôn dang rộng vòng tay chờ đón con cái trở về.

Trong cuộc sống, có những lúc chúng ta cảm thấy lạc lõng, mệt mỏi vì những gánh nặng của lầm lỗi và yếu đuối. Có những lúc chúng ta tự vẽ nên trong đầu mình hình ảnh một Thiên Chúa nghiêm khắc, một vị quan tòa chỉ chực chờ để trừng phạt. Nhưng Lời Chúa hôm nay muốn phá tan những định kiến ấy. Thiên Chúa không phải là người ngồi đếm tội, nhưng là Người Cha ngày đêm ra ngõ ngóng trông, chỉ mong con cái nhận ra tình yêu mà quay gót trở về.

Hiệp dâng Thánh lễ này, chúng ta hãy xin cho mỗi người cảm nghiệm được sự ấm áp của cái ôm tha thứ từ Thiên Chúa. Hãy để Lòng Thương Xót của Ngài chữa lành những vết thương trong tâm hồn, và biến đổi chúng ta thành những con người mới, biết yêu thương và biết xót thương như Cha trên trời.

Giờ đây, với tâm tình thống hối và tin tưởng, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi mình để xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh.

BÀI TIN MỪNG: Luca 15, 11-32

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các người biệt phái và luật sĩ dụ ngôn này rằng: "Một người kia có hai con trai. Người em thưa với cha rằng: 'Thưa cha, xin chia cho con phần gia tài thuộc về con'. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu xếp tất cả, trẩy đi phương xa và ở đó ăn chơi xa xỉ phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của, thì vừa gặp nạn đói lớn trong xứ đó, và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó đi làm thuê cho một người dân trong xứ, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó hồi tâm và tự nhủ: 'Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây chết đói. Tôi sẽ chỗi dậy trở về cùng cha tôi và thưa với người rằng: Thưa cha, con đã trót phạm tội nghịch cùng trời và nghịch cùng cha, con không còn đáng được gọi là con cha nữa, xin cha hãy coi con như một người làm công của cha thôi'. Thế là nó chỗi dậy trở về cùng cha nó.

Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, chạnh lòng thương, ông chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu. Người con thưa với cha rằng: 'Thưa cha, con đã trót phạm tội nghịch cùng trời và nghịch cùng cha, con không còn đáng được gọi là con cha nữa'. Nhưng người cha bảo đầy tớ rằng: 'Mau mang áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng. Vì con ta đây đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy'. Và họ bắt đầu ăn tiệc mừng.

Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn ca nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ lại hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ thưa: 'Em cậu đã trở về, và cha cậu đã cho làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ'. Người anh cả liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha nó ra xin nó vào. Nhưng nó trả lời cha rằng: 'Cha xem, đã bao nhiêu năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho con một con dê nhỏ để ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đĩ điếm, nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó'. Người cha bảo nó rằng: 'Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả của cải cha là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hân hoan, vì em con đây đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy'".

Đó là Lời Chúa.

BÀI GIẢNG

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

Chúng ta đang sống trong những ngày đầu tiên của một năm mới, khoảng thời gian mà lòng người thường rộn lên những ước vọng về sự đổi mới, về những khởi đầu tốt đẹp hơn. Trong bầu khí linh thiêng của sự khởi đầu này, Giáo hội mời gọi chúng ta dừng lại, lắng đọng tâm hồn để chiêm ngắm một chân lý vĩ đại nhất, nền tảng vững chắc nhất cho đức tin của chúng ta: Thiên Chúa là Cha, và bản chất cốt lõi của Ngài là Lòng Thương Xót. Bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, dụ ngôn về Người Cha nhân hậu hay còn gọi là dụ ngôn Đứa con hoang đàng, không chỉ là một câu chuyện luân lý đơn thuần, mà là một bức họa tuyệt mỹ về trái tim Thiên Chúa, một bản tình ca vĩ đại về tình phụ tử thiêng liêng, nơi mà sự tha thứ không có giới hạn và tình yêu vượt lên trên mọi quy tắc của sự công bằng trần thế. Để hiểu thấu đáo dụ ngôn này, chúng ta cần đi sâu vào từng ngóc ngách tâm lý của các nhân vật, để thấy chính mình trong đó, và quan trọng hơn, để thấy Thiên Chúa đang đối xử với chúng ta như thế nào.

Câu chuyện mở đầu bằng một bi kịch gia đình, một sự đứt gãy trong mối tương quan cha con. Người con thứ, đại diện cho sự bồng bột, khao khát tự do và cái tôi ích kỷ, đã đưa ra một yêu cầu gây chấn động: "Thưa cha, xin chia cho con phần gia tài thuộc về con". Trong văn hóa Do Thái thời bấy giờ, việc đòi chia gia tài khi cha còn sống chẳng khác nào một lời nguyền rủa, một cách nói gián tiếp rằng: "Cha ơi, cha sống lâu quá, con không chờ được nữa, đối với con, cha coi như đã chết rồi, con chỉ cần tài sản của cha chứ không cần sự hiện diện của cha". Đó là một mũi dao đâm thấu tim người cha. Tội lỗi, ở tầng sâu nhất của nó, không chỉ là vi phạm một lề luật nào đó, mà là sự khước từ mối tương quan tình yêu. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta cũng nói với Thiên Chúa như người con thứ: "Lạy Chúa, con muốn ân huệ của Chúa, con muốn sức khỏe, con muốn tiền bạc, con muốn sự sống mà Chúa ban, nhưng con không muốn Chúa can thiệp vào đời con. Con muốn tự do làm chủ đời mình theo ý con". Người con thứ muốn thoát khỏi "cái bóng" của cha, muốn tìm kiếm một hạnh phúc ở "phương xa", nơi mà cậu tưởng rằng tự do đồng nghĩa với việc không bị ai kiểm soát.

Và người cha đã làm gì? Ông không mắng chửi, không giảng giải đạo đức, cũng không dùng quyền lực để giữ con lại. Ông "chia gia tài cho các con". Một hành động tôn trọng tự do đến đau đớn. Thiên Chúa là như vậy. Ngài yêu thương chúng ta đến mức ban cho chúng ta tự do, ngay cả khi Ngài biết chúng ta sẽ dùng tự do đó để làm tổn thương Ngài và làm hại chính mình. Tình yêu không thể ép buộc. Thiên Chúa chấp nhận rủi ro của tình yêu, chấp nhận để con người quay lưng, vì chỉ khi tự do lựa chọn yêu mến, tình yêu ấy mới đích thực. Người cha im lặng chia gia tài, sự im lặng chất chứa nỗi đau nhưng cũng đầy ắp sự kiên nhẫn. Ông để con đi, không phải vì ông không thương, mà vì ông biết rằng, bài học trưởng thành đôi khi phải trả giá bằng những vấp ngã đớn đau, và có những người con chỉ nhận ra giá trị của mái nhà khi đã nếm trải sự lạnh lẽo của phương xa.

Hành trình của người con thứ là hành trình trượt dốc không phanh của con người khi tách lìa khỏi Thiên Chúa. "Ăn chơi xa xỉ, phung phí hết tiền của". Sự thỏa mãn dục vọng không bao giờ mang lại hạnh phúc bền lâu, nó giống như uống nước muối, càng uống càng khát. Và rồi, khi tiền hết, bạn bè tan biến, cơn đói ập đến. Cái đói thể xác chỉ là hình ảnh phản chiếu cho cái đói khát tâm linh khủng khiếp. Anh ta phải đi chăn heo, một công việc nhục nhã tột cùng đối với người Do Thái, vì heo là loài vật ô uế. Từ địa vị một người con, anh ta rơi xuống thấp hơn cả nô lệ, thậm chí ao ước được ăn đồ ăn của heo mà cũng không được. Đây là hình ảnh chân thực nhất về hậu quả của tội lỗi: tội lỗi tước đi phẩm giá con người, biến con người từ vị thế làm chủ trở thành nô lệ cho những dục vọng thấp hèn, và cuối cùng đẩy con người vào sự cô đơn tuyệt đối. Ở nơi phương xa ấy, không có tình yêu, chỉ có sự bóc lột và dửng dưng.

Chính trong tận cùng của sự khốn cùng đó, "nó hồi tâm". Sự hồi tâm này ban đầu chưa hẳn là lòng sám hối trọn vẹn vì tình yêu, mà xuất phát từ cái bụng đói. Anh ta so sánh: "Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi ở đây chết đói". Anh ta nhớ về cha, nhưng không phải nhớ về tình cha, mà nhớ về "cơm bánh" nhà cha. Anh ta toan tính một kế hoạch trở về, soạn sẵn một bài diễn văn: "Thưa cha, con đã trót phạm tội... xin cha hãy coi con như một người làm công". Anh ta nghĩ rằng mình đã mất quyền làm con, giờ đây chỉ hy vọng được làm thuê để kiếm miếng ăn. Anh ta định giá mối quan hệ cha con dựa trên công trạng và sự xứng đáng. Tư duy của anh ta lúc này vẫn là tư duy sòng phẳng: có làm có ăn, phạm tội thì mất quyền lợi. Anh ta không hề biết rằng, ở nhà, người cha đang nghĩ khác hoàn toàn.

Điểm cao trào của dụ ngôn không nằm ở sự trở về của người con, mà nằm ở hành động của người cha. "Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy". Cụm từ "trông thấy" này chứa đựng cả một bầu trời yêu thương. Để có thể trông thấy con từ đàng xa, người cha ấy hẳn đã phải ra ngõ chờ đợi mỗi ngày. Ông không ngồi trong nhà đóng kín cửa, ông ra đầu ngõ, mắt hướng về phía con đã ra đi. Ông chờ đợi trong hy vọng, dù hy vọng ấy mong manh. Và khi bóng dáng tiều tụy, rách rưới của đứa con xuất hiện, ông "chạnh lòng thương". Trong nguyên ngữ Hy Lạp, từ "chạnh lòng thương" diễn tả một sự rung động tận tâm can, ruột gan quặn thắt. Tình yêu của Thiên Chúa không phải là một tình cảm hời hợt bên ngoài, mà là một sự rung cảm sâu sắc của trái tim người cha trước nỗi đau của con cái.

Và rồi, một hành động phi thường diễn ra: "Ông chạy ra". Trong văn hóa Đông phương cổ đại, một người đàn ông lớn tuổi, một gia trưởng quyền quý không bao giờ chạy. Việc vén áo lên và chạy là hành động thiếu trang nghiêm, thậm chí bị coi là nhục nhã. Nhưng người cha này đã vứt bỏ mọi sĩ diện, mọi quy tắc xã hội. Tại sao ông phải chạy? Có lẽ ông sợ đứa con đổi ý? Có lẽ ông sợ dân làng nhìn thấy đứa con hư hỏng sẽ ném đá nó trước khi nó kịp vào nhà? Ông chạy để che chắn cho con, ông chạy để sự xấu hổ của ông bao trùm lấy sự xấu hổ của con. Ông "ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu". Không một lời trách móc. Không một cái nhíu mày ghê tớn trước mùi hôi hám của chuồng heo. Chỉ có cái ôm siết chặt và nụ hôn của sự hàn gắn. Cái ôm ấy nói lên rằng: "Con vẫn là con của cha, dù con đã làm gì đi nữa".

Người con bắt đầu lắp bắp bài diễn văn đã soạn sẵn: "Thưa cha, con đã trót phạm tội... con không còn đáng được gọi là con cha nữa...". Nhưng hãy để ý, người cha ngắt lời. Ông không để con nói hết câu "xin coi con như người làm công". Ông không cho phép con mình hạ thấp phẩm giá xuống hàng nô lệ. Ngay lập tức, ông ra lệnh: "Mau mang áo đẹp nhất ra đây". Chiếc áo đẹp nhất tượng trưng cho ân sủng và phẩm giá ban đầu đã bị đánh mất, nay được phục hồi. "Xỏ nhẫn vào ngón tay", chiếc nhẫn là dấu hiệu của quyền bính, của sự tín nhiệm, khẳng định anh ta vẫn là người thừa kế. "Xỏ dép vào chân", chỉ có nô lệ mới đi chân đất, con cái thì đi dép, đây là dấu chỉ của sự tự do. Và "con bê béo" được làm thịt, bữa tiệc của niềm vui được mở ra. Thiên Chúa không chỉ tha thứ, Ngài còn phục hồi phẩm giá cho chúng ta. Ngài không nhìn chúng ta qua lăng kính của quá khứ tội lỗi, mà nhìn chúng ta trong tiềm năng của tương lai thánh thiện. Sự tha thứ của Thiên Chúa không phải là xóa nợ rồi để mặc chúng ta, mà là tái lập địa vị làm con, đưa chúng ta trở lại bàn tiệc hiệp thông.

Tuy nhiên, bức tranh Lòng Thương Xót vẫn chưa trọn vẹn nếu thiếu đi nhân vật người con cả. Anh ta đại diện cho một bi kịch khác, bi kịch của những người "ở trong nhà nhưng lòng lại ở phương xa". Anh ta là người đạo đức, tuân giữ lề luật, làm việc chăm chỉ. "Đã bao nhiêu năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào". Anh ta tự hào về sự công chính của mình. Nhưng hãy nghe cách anh ta nói: "con hầu hạ cha". Anh ta coi mình như một người đầy tớ làm công để được trả lương, chứ không phải một người con sống trong tình yêu. Anh ta giữ luật không phải vì yêu cha, mà vì sợ hoặc vì mong đợi phần thưởng. Và khi thấy em mình trở về và được đón tiếp, sự ghen tị và tức giận bùng nổ.

Người con cả từ chối vào nhà. Anh ta đứng ngoài bữa tiệc của tình thương. Anh ta gọi em mình là "thằng con của cha kia", chối bỏ mối quan hệ huynh đệ. Anh ta lên án cha là bất công. Thái độ của người con cả phản ánh thái độ của những người Biệt phái và Luật sĩ thời Chúa Giêsu, và đôi khi, phản ánh chính thái độ của chúng ta, những người Kitô hữu "đạo dòng". Chúng ta dễ dàng rơi vào cái bẫy của sự tự mãn thiêng liêng, cho rằng mình xứng đáng được Chúa yêu hơn những kẻ tội lỗi kia. Chúng ta giữ đạo một cách khô khan, tính toán sòng phẳng với Chúa. Chúng ta khó chịu khi thấy Chúa ban ơn cho những người mà ta cho là không xứng đáng. Chúng ta quên rằng, tất cả những gì chúng ta có đều là ân huệ, và việc chúng ta không sa ngã như người khác không phải do tài đức của ta, mà do sự gìn giữ của Chúa.

Phản ứng của người cha đối với người con cả cũng tràn đầy lòng thương xót. Ông lại một lần nữa "đi ra". Ông không bỏ mặc đứa con lớn trong cơn giận dữ. Ông năn nỉ anh ta. Lời của người cha thật thấm thía: "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả của cải cha là của con". Đây là lời nhắc nhở về ân huệ lớn nhất mà người con cả đã vô tình lãng quên: ân huệ được "ở cùng". Hạnh phúc không phải là con dê con hay con bê béo, hạnh phúc là được hiện diện trong nhà cha, được sống trong mối tương quan mật thiết với cha. Người con cả đã có tất cả nhưng lại sống như kẻ nghèo nàn vì không nhận ra tình yêu của cha. Người cha mời gọi người con cả vượt qua sự hẹp hòi của công lý trừng phạt để bước vào sự bao la của lòng thương xót: "Chúng ta phải ăn mừng, vì em con đây đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Cha muốn anh nhận lại em mình, vì chỉ khi chấp nhận người em tội lỗi, anh mới thực sự là con của người cha nhân hậu.

Kính thưa cộng đoàn, dụ ngôn kết thúc bỏ ngỏ. Chúng ta không biết người con cả có vào nhà hay không. Sự bỏ ngỏ ấy là dành cho mỗi người chúng ta hôm nay. Chúng ta sẽ chọn đứng ngoài với sự hậm hực, ghen tị, xét nét, hay chúng ta sẽ bước vào bàn tiệc thánh thể để cùng vui hưởng niềm vui tha thứ? Thiên Chúa là Cha, Đấng giàu lòng xót thương, đang chờ đợi câu trả lời của chúng ta. Ngài chờ đợi những đứa con hoang đàng trở về từ những phương xa của đam mê tội lỗi, và Ngài cũng chờ đợi những đứa con trong nhà từ bỏ sự kiêu ngạo để học cách yêu thương như Ngài.

Trong tháng đầu năm này, chủ đề "Khởi nguồn của Lòng Thương Xót" mời gọi chúng ta tái khám phá dung nhan đích thực của Thiên Chúa. Đừng sợ hãi chạy đến với Ngài. Dù tội lỗi chúng ta có đỏ như son, Ngài cũng sẽ làm cho trắng như tuyết. Đừng để mặc cảm tội lỗi giam hãm chúng ta nơi chuồng heo của sự tuyệt vọng. Hãy đứng dậy! Hãy can đảm "hồi tâm" và bước những bước chân trở về. Và cũng hãy nhìn những người anh chị em lầm lỗi xung quanh bằng ánh mắt của Người Cha nhân hậu, chứ không phải ánh mắt của người anh cả khắt khe. Hãy tạo cơ hội cho nhau, hãy tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta.

Bàn tiệc Thánh Thể mà chúng ta cử hành giờ đây chính là bàn tiệc của con bê béo, nơi Đức Kitô hiến mình để nuôi dưỡng và phục hồi sự sống cho chúng ta. Mỗi lần chúng ta rước lễ là mỗi lần Thiên Chúa Cha chạy ra ôm lấy chúng ta, mặc cho chúng ta chiếc áo ân sủng và khẳng định: "Con là con yêu dấu của Ta". Hãy để tình yêu ấy thấm đẫm tâm hồn, để khi trở về cuộc sống đời thường, chúng ta trở thành những cánh tay nối dài của Lòng Thương Xót Chúa, mang hơi ấm của sự tha thứ đến cho gia đình và xã hội. Ước gì trong năm mới này, không ai trong chúng ta cảm thấy mình là kẻ mồ côi hay bị bỏ rơi, vì chúng ta luôn có một Người Cha đang chờ đợi, một Người Cha mà tên gọi của Ngài là Tình Yêu.

Xin Mẹ Maria, Mẹ của Lòng Thương Xót, giúp chúng ta luôn biết tin tưởng và phó thác vào tình yêu của Cha, để cuộc đời chúng ta trở thành bài ca chúc tụng Lòng Thương Xót Chúa đến muôn đời. Amen.

LỜI NGUYỆN TÍN HỮU

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Người Cha nhân hậu, luôn yêu thương và chờ đợi con cái trở về để ban ơn tha thứ và sự sống mới. Trong niềm hân hoan tin tưởng vào Lòng Thương Xót vô biên của Chúa, chúng ta cùng dâng lên Ngài những lời nguyện xin tha thiết:

1.          "Hội Thánh là hiện thân của lòng thương xót Chúa giữa trần gian." Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Đức Giáo Hoàng, các Giám mục và Linh mục. Xin cho các ngài luôn mang trong mình trái tim của Người Cha nhân hậu, biết dang rộng vòng tay đón nhận, ủi an và chữa lành những tâm hồn tan nát, để qua các ngài, mọi người nhận ra khuôn mặt rạng ngời yêu thương của Thiên Chúa.

2.          "Thế giới đang khao khát hòa bình và sự tha thứ." Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các nhà lãnh đạo quốc gia và cộng đồng nhân loại. Xin cho họ biết gạt bỏ những hận thù, chia rẽ và tư lợi, để cùng nhau xây dựng một thế giới huynh đệ, nơi mà phẩm giá con người được tôn trọng và lòng bao dung được đặt lên hàng đầu.

3.          "Con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy." Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang lạc lối trong tội lỗi, những người đang thất vọng, chán chường hay cảm thấy bị bỏ rơi. Xin ánh sáng Lòng Thương Xót Chúa soi rọi vào tâm hồn họ, ban cho họ ơn can đảm để đứng dậy trở về cùng Cha, và tìm lại được bình an cùng phẩm giá làm con cái Chúa.

4.          "Anh em hãy có lòng thương xót như Cha anh em là Đấng hay thương xót." Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta trong năm mới này. Xin cho mỗi người biết dẹp bỏ sự kiêu ngạo, xét đoán của người anh cả, để mặc lấy tâm tình bao dung, nhân ái, biết yêu thương và nâng đỡ nhau, biến cộng đoàn thành một gia đình hiệp nhất và yêu thương.

Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, xin thương nhận những ước nguyện chúng con vừa dâng lên. Xin giúp chúng con luôn cảm nghiệm sâu sắc tình yêu của Chúa, để chúng con không ngừng hoán cải và trở nên những chứng nhân sống động cho Lòng Thương Xót của Chúa giữa lòng đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Cộng đoàn: Amen.


 

Tháng 2: ĐỨC GIÊSU - DUNG MẠO HỮU HÌNH CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

·              Chủ đề: Sự chạnh lòng thương của Thiên Chúa làm người.

·              Tin Mừng: Mác-cô 1, 40-45 (Đức Giêsu chữa người bị phong hủi).

·              Định hướng: Chiêm ngắm việc Đức Giêsu không ngại "chạm vào" những gì dơ bẩn, đau khổ nhất của con người để chữa lành. LCTX xóa bỏ mọi khoảng cách.

 

CHỦ ĐỀ BÀI GIẢNG: SỰ CHẠNH LÒNG THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI

DẪN VÀO THÁNH LỄ

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

Trong tháng Hai này, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm Đức Giêsu Kitô là Dung mạo hữu hình của Lòng Thương Xót Chúa Cha. Lòng thương xót ấy không phải là một khái niệm trừu tượng, không phải là một cảm xúc thoáng qua, nhưng là một sự hiện diện bằng xương bằng thịt, biết rung động, biết đau nỗi đau của con người và sẵn sàng chạm vào những gì khốn cùng nhất của nhân loại.

Thánh Lễ hôm nay mời gọi chúng ta dừng lại trước một khung cảnh đầy xúc động trong Tin Mừng Mác-cô: cuộc gặp gỡ giữa Đấng Thánh Tinh Tuyền và một người phong hủi nhơ uế. Qua cử chỉ "giơ tay chạm vào" người bệnh, Đức Giêsu tuyên bố rằng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa xóa bỏ mọi rào cản của lề luật, của định kiến và của sự sợ hãi. Ngài không ngại bị lây nhiễm sự ô uế, miễn là con người được chữa lành và phục hồi phẩm giá.

Với tâm tình đó, giờ đây, chúng ta hãy khiêm tốn nhận ra những "vết phong hủi" trong tâm hồn mình – là tội lỗi, là sự hận thù, là những mặc cảm xa cách Chúa – để xin Ngài chạm vào và thanh tẩy chúng ta, giúp chúng ta xứng đáng cử hành Mầu Nhiệm Thánh.

BÀI TIN MỪNG (Mc 1, 40-45)

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mác-cô.

Khi ấy, có người bị phong hủi đến gặp Đức Giê-su, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Đức Giê-su chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch. Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay, và bảo anh: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.” Nhưng vừa đi khỏi, anh đã bắt đầu rao truyền và loan tin ấy khắp nơi, đến nỗi Người không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người.

Đó là Lời Chúa.

BÀI GIẢNG

Kính thưa cộng đoàn,

Trong cái nắng gay gắt và bụi bặm của vùng đất Palestine, giữa những ồn ào của đám đông đang vây quanh Đức Giêsu, bỗng nhiên có một khoảng trống chết chóc xuất hiện. Đó là sự xuất hiện của một người phong hủi. Vào thời bấy giờ, bệnh phong không chỉ là một chứng bệnh y khoa làm thối rữa thịt da, mà còn là một bản án tử hình về mặt xã hội và tôn giáo. Sách Lê-vi đã quy định rõ ràng: người mắc bệnh phong là người ô uế, phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và đi đến đâu cũng phải kêu lớn: "Ô uế! Ô uế!". Họ bị coi là những kẻ bị Thiên Chúa trừng phạt, bị cộng đoàn xua đuổi, phải sống lủi thủi trong các hang hốc hay ngoài sa mạc, bị cắt đứt mọi liên hệ với người thân và tuyệt đối không được bước chân vào Đền Thờ. Đối với người Do Thái, chạm vào người phong hủi cũng đồng nghĩa với việc chạm vào xác chết, chạm vào sự dữ, và kẻ chạm vào sẽ bị lây nhiễm sự ô uế về mặt lề luật. Khoảng cách giữa một người bình thường và một người phong hủi là một vực thẳm không thể vượt qua, một bức tường vô hình được xây nên bởi sự sợ hãi và luật lệ khắc nghiệt.

Thế nhưng, bài Tin Mừng hôm nay mở ra một cảnh tượng chấn động, phá vỡ mọi quy tắc và trật tự vốn có. Người phong hủi ấy, với thân xác lở loét và tâm hồn tan nát, đã liều lĩnh vượt qua ranh giới cấm kỵ để đến gần Đức Giêsu. Anh ta không đứng từ xa kêu vọng lại như luật định, nhưng anh ta "đến gặp" và "quỳ xuống". Trong cử chỉ quỳ gối ấy là tất cả sự tuyệt vọng cùng cực nhưng cũng là tất cả niềm hy vọng mong manh còn sót lại của một kiếp người bị ruồng bỏ. Lời cầu xin của anh ta cũng thật lạ lùng. Anh không xin tiền bạc, không xin cơm bánh, anh cũng không đòi hỏi Đức Giêsu phải chữa cho mình như một nghĩa vụ. Anh nói: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch". Một lời cầu xin đặt trọn vẹn sinh mạng vào ý muốn tự do của Thiên Chúa. Anh tin vào quyền năng của Đức Giêsu ("Ngài có thể"), nhưng anh khiêm tốn để lại quyền quyết định cho tấm lòng của Ngài ("Nếu Ngài muốn"). Có lẽ trong thâm tâm, anh đã quen với việc bị từ chối, bị xua đuổi, nên anh không dám chắc liệu Đấng Thánh thiện kia có "muốn" đoái hoài đến một kẻ dơ bẩn như anh hay không.

Và ngay tại khoảnh khắc đó, Tin Mừng Mác-cô ghi lại một động từ diễn tả tâm trạng của Đức Giêsu, một từ ngữ vô cùng mạnh mẽ trong nguyên ngữ Hy Lạp: "Splanchnizomai" – nghĩa là "chạnh lòng thương". Đây không phải là một sự thương hại hời hợt bên ngoài, cũng không phải là cái lắc đầu ái ngại của một người đứng trên cao nhìn xuống kẻ khốn cùng. "Chạnh lòng thương" ở đây diễn tả một sự rung động tận tâm can, một cơn quặn thắt ruột gan, một cảm xúc mãnh liệt đến mức đau đớn về thể lý trước nỗi khổ của người khác. Trái tim của Thiên Chúa làm người đã rung lên bần bật trước sự đau đớn và tủi nhục của người phong hủi. Chính lòng thương xót quặn thắt ấy đã thúc đẩy Đức Giêsu thực hiện một hành động không tưởng, một hành động gây sốc cho tất cả những ai chứng kiến: Ngài "giơ tay đụng vào anh".

Chúng ta hãy dừng lại và chiêm ngắm thật lâu cử chỉ này: "Giơ tay đụng vào". Đức Giêsu có thể chữa lành anh ta chỉ bằng một lời nói, như Ngài đã từng làm cho sóng gió yên lặng hay đuổi quỷ dữ. Ngài có quyền năng vô song để phán một lời là bệnh tật tan biến. Nhưng không, Ngài đã chọn cách "đụng vào". Tại sao lại phải đụng vào? Tại sao lại phải chấp nhận rủi ro vi phạm lề luật và bị coi là ô uế? Bởi vì Đức Giêsu hiểu rằng, đối với người phong hủi này, sự đau đớn nhất không phải là da thịt lở loét, mà là sự cô độc lạnh lùng. Đã bao nhiêu năm rồi không ai dám chạm vào anh? Đã bao nhiêu năm anh không cảm nhận được hơi ấm của một bàn tay con người? Đã bao nhiêu năm anh chỉ nhận được những ánh mắt kinh tởm và những hòn đá ném xua đuổi? Khi Đức Giêsu chạm vào anh, Ngài không chỉ chữa lành vi trùng bệnh phong, mà quan trọng hơn, Ngài chữa lành trái tim đã bị tổn thương sâu sắc bởi sự ghẻ lạnh của con người. Cái chạm của Đức Giêsu là cái chạm của sự phục hồi phẩm giá, cái chạm nói lên rằng: "Con không phải là đồ bỏ đi. Con là con người, con là con cái của Thiên Chúa, và Ta yêu thương con".

Cái chạm ấy là đỉnh cao của mầu nhiệm Nhập Thể. Thiên Chúa không yêu thương con người từ xa. Ngài không ngồi trên ngai vàng mây xanh để ban phát ơn huệ xuống trần gian. Ngài đã xuống thế, đã mang lấy xác phàm, và hôm nay, Ngài "chạm" vào sự dơ bẩn của nhân loại bằng chính bàn tay của mình. Theo luật Do Thái, ai chạm vào người phong hủi thì người ấy bị lây nhiễm sự ô uế. Nhưng với Đức Giêsu, quy luật ấy bị đảo ngược: thay vì Ngài bị lây sự dơ bẩn, thì sự thánh thiện và quyền năng sự sống từ Ngài đã tràn sang người bệnh, tiêu diệt sự chết và làm cho anh ta nên sạch. Lòng Thương Xót không sợ bị vấy bẩn, Lòng Thương Xót chủ động đi vào vũng lầy để kéo người ta lên. Đức Giêsu đã xóa nhòa khoảng cách giữa Thánh và phàm, giữa sạch và dơ, để thiết lập một trật tự mới: trật tự của Tình Yêu Cứu Độ. Lời tuyên bố "Tôi muốn, anh sạch đi" như một lời sáng tạo mới, trả lại cho người bệnh không chỉ sức khỏe mà còn cả vị trí trong cộng đoàn nhân loại và cộng đoàn tôn giáo.

Tuy nhiên, câu chuyện không kết thúc ở sự chữa lành. Thánh Mác-cô cho chúng ta thấy một sự "hoán đổi vị trí" đầy mầu nhiệm. Sau khi được chữa lành, người phong hủi đi vào thành, công bố tin vui, hòa nhập lại với cộng đồng. Ngược lại, Đức Giêsu "không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng". Trước đó, người phong hủi phải ở nơi hoang vắng, còn Chúa ở trong thành. Giờ đây, Chúa chấp nhận ở nơi hoang vắng thay cho anh. Đây chính là hình ảnh tiên báo về cuộc Khổ Nạn. Đức Giêsu đã gánh lấy sự "ô uế", sự cô lập, và tội lỗi của nhân loại lên chính thân mình. Ngài trở thành "kẻ bị nguyền rủa" treo trên thập giá bên ngoài thành Giêrusalem, để chúng ta – những kẻ bị phong hủi bởi tội lỗi – được sạch, được bước vào Thành Thánh, được trở về nhà Cha. Sự chạnh lòng thương của Thiên Chúa không phải là miễn phí, nó được trả giá bằng chính sự hy sinh của Ngôi Hai Thiên Chúa. Ngài đã đổi chỗ cho chúng ta, lấy sự chết của chúng ta để trao cho chúng ta sự sống của Ngài.

Kính thưa cộng đoàn, nhìn vào người phong hủi trong Tin Mừng, có lẽ chúng ta thấy mình trong đó. Có thể chúng ta không mắc bệnh phong trên thân xác, nhưng ai trong chúng ta dám vỗ ngực xưng mình hoàn toàn sạch sẽ trước mặt Chúa? Có một loại bệnh phong còn nguy hiểm hơn, đó là bệnh phong của tâm hồn. Đó là những tội lỗi thầm kín đang gặm nhấm lương tâm chúng ta mỗi ngày: sự kiêu ngạo, lòng ghen ghét, sự dửng dưng vô cảm, những đam mê bất chính, sự gian dối lọc lừa. Giống như bệnh phong, tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta trở nên xấu xí, làm chúng ta xa cách Thiên Chúa và tạo ra những bức tường ngăn cách với anh chị em mình. Đôi khi, chính chúng ta cũng cảm thấy ghê tởm chính mình, mặc cảm không dám đến gần Chúa, nghĩ rằng mình không xứng đáng, nghĩ rằng Chúa sẽ chê bai, ruồng bỏ mình. Chúng ta giấu giếm những vết thương ấy dưới lớp vỏ bọc của sự đạo đức giả hình, nhưng bên trong là sự cô đơn và sợ hãi.

Hôm nay, Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy có can đảm như người phong hủi: hãy đến và quỳ xuống trước mặt Chúa. Đừng sợ hãi phơi bày những vết thương, những sự dơ bẩn, những yếu đuối hèn hạ nhất của mình cho Chúa thấy. Bí tích Hòa Giải chính là nơi cuộc gặp gỡ kỳ diệu này diễn ra. Trong tòa giải tội, Chúa Giêsu vẫn đang chờ đợi để nghe chúng ta nói: "Lạy Chúa, nếu Chúa muốn, Chúa có thể làm cho con được sạch". Và chắc chắn, Ngài sẽ không ngần ngại "giơ tay" – qua bàn tay của linh mục – để chạm vào linh hồn chúng ta, để tha thứ và chữa lành. Ngài vẫn nói với chúng ta mỗi ngày: "Ta muốn, con hãy sạch đi". Không có tội lỗi nào lớn hơn Lòng Thương Xót của Chúa. Không có sự nhơ uế nào mà Ngài không thể tẩy rửa. Điều quan trọng là chúng ta có dám tin vào tình yêu ấy và bước ra khỏi vỏ bọc của mình để chạy đến với Ngài hay không.

Hơn thế nữa, chiêm ngắm dung mạo Lòng Thương Xót của Chúa Giêsu cũng là lời mời gọi khẩn thiết cho mỗi người chúng ta trong cách đối xử với tha nhân. Trong cuộc sống hôm nay, vẫn còn đó vô số những "người phong hủi" kiểu mới. Họ không nhất thiết là người bệnh tật, nhưng là những người bị xã hội gạt ra bên lề: những người nghèo khổ, những người di dân, những người thất bại, những người có quá khứ lầm lỗi, những người bị trầm cảm cô độc, hay thậm chí là một thành viên khó tính trong chính gia đình, cộng đoàn của chúng ta. Chúng ta thường có xu hướng xây dựng những bức tường an toàn, giữ khoảng cách với những người "phiền toái" ấy. Chúng ta sợ bị liên lụy, sợ mất thời gian, sợ bị đánh giá. Chúng ta có thể bố thí cho họ một chút tiền từ xa, nhưng "chạm" vào họ, lắng nghe họ, thấu hiểu nỗi đau của họ thì chúng ta lại ngần ngại.

Học nơi Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi phá bỏ những rào cản của sự phân biệt đối xử và sự dửng dưng. Lòng thương xót đích thực đòi hỏi một sự "tiếp xúc". Chúng ta không thể yêu thương người nghèo chỉ bằng những lý thuyết hay những lời cầu nguyện suông. Chúng ta cần phải "chạm" vào cuộc đời họ bằng sự hiện diện, bằng sự tôn trọng, bằng ánh mắt cảm thông. Một cái bắt tay chân thành, một lời hỏi thăm ân cần, một sự kiên nhẫn lắng nghe đôi khi có giá trị chữa lành lớn hơn cả vật chất. Khi chúng ta dám vượt qua sự ngại ngần để đến gần một người đang đau khổ, chính là lúc chúng ta đang để cho bàn tay của Chúa Giêsu được nối dài qua cánh tay của chúng ta. Đừng sợ bị "lây nhiễm" sự phiền toái, nhưng hãy tin rằng tình yêu có sức mạnh lây lan mạnh mẽ hơn sự dữ.

Lạy Chúa Giêsu, Đấng đầy lòng trắc ẩn, xin hãy chữa lành bệnh phong trong tâm hồn chúng con. Xin chạm vào trái tim chai đá của chúng con để biến nó thành trái tim biết rung cảm. Xin cho chúng con, sau khi đã được Chúa thanh tẩy và yêu thương, cũng biết trở nên cánh tay nối dài của Chúa, dám bước đến và chạm vào những vết thương của anh chị em chung quanh, để xoa dịu, ủi an và mang tin vui Lòng Thương Xót đến cho mọi người. Amen.

LỜI NGUYỆN TÍN HỮU

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Đấng không bao giờ xa lánh những con người khốn cùng, nhưng luôn chạnh lòng thương và muốn chữa lành tất cả. Tin tưởng vào tình yêu cứu độ của Chúa, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin:

1.          Cầu cho Hội Thánh: Xin cho các Mục tử và mọi thành phần Dân Chúa luôn mang trong mình trái tim chạnh lòng thương của Đức Kitô, biết can đảm vượt qua những rào cản của định kiến để đến với những người bị bỏ rơi, những người nghèo khổ và tội lỗi, mang đến cho họ sự chữa lành và niềm hy vọng.

2.          Cầu cho những người đang đau khổ: Xin cho những ai đang phải gánh chịu nỗi đau của bệnh tật thể xác, hay nỗi cô đơn, mặc cảm trong tâm hồn, đặc biệt là những người bị xã hội xa lánh, nhận ra được bàn tay yêu thương của Chúa đang chạm đến họ qua sự quan tâm, chăm sóc của cộng đoàn.

3.          Cầu cho các y bác sĩ và nhân viên y tế: Xin Chúa ban sức mạnh và lòng nhiệt thành cho những ai đang phục vụ các bệnh nhân, đặc biệt là những người chăm sóc các bệnh nhân phong và các bệnh truyền nhiễm, để họ luôn nhìn thấy hình ảnh Chúa Kitô nơi những người đau yếu mà tận tình phục vụ.

4.          Cầu cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta: Xin cho mỗi người chúng ta biết ý thức về những căn bệnh thiêng liêng của chính mình, siêng năng chạy đến với Bí tích Hòa Giải để được Chúa chữa lành, và biết sống bao dung, đón nhận nhau trong tình bác ái huynh đệ.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã không ngại chạm vào người phong hủi để phục hồi sự sống cho anh. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện và giúp chúng con luôn biết tin tưởng vào quyền năng chữa lành của Chúa, đồng thời biết trở nên khí cụ bình an của Chúa cho trần gian. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời


 

Tháng 3: LÒNG THƯƠNG XÓT VÀ TỘI LỖI (MÙA CHAY)

·              Chủ đề: Không ai bị kết án nếu biết chạy đến với Chúa.

·              Tin Mừng: Gioan 8, 1-11 (Người phụ nữ ngoại tình).

·              Định hướng: Chúa ghét tội nhưng yêu thương tội nhân. Nhấn mạnh vào câu: "Tôi cũng không lên án chị đâu. Thôi chị về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa."

 

CHỦ ĐỀ BÀI GIẢNG: KHÔNG AI BỊ KẾT ÁN NẾU BIẾT CHẠY ĐẾN VỚI CHÚA

DẪN VÀO THÁNH LỄ

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

Chúng ta đang bước đi trong những ngày tháng linh thiêng của Mùa Chay thánh, một hành trình của sự trở về, của việc nhìn sâu vào nội tâm và đối diện với sự thật trần trụi về con người yếu đuối của mình. Trong bầu khí trầm lắng này, Lời Chúa hôm nay vang lên như một tia sáng chói lọi chiếu rọi vào những góc khuất tối tăm nhất của tâm hồn chúng ta. Chúng ta được mời gọi chứng kiến một cuộc gặp gỡ đầy kịch tính giữa tội lỗi của con người và Lòng Thương Xót hải hà của Thiên Chúa. Câu chuyện về người phụ nữ ngoại tình không chỉ là một sự kiện quá khứ, mà là tấm gương phản chiếu chính cuộc đời của mỗi người chúng ta. Có những lúc chúng ta là người phụ nữ ấy, bị vạch trần trong sự xấu hổ và sợ hãi. Có những lúc chúng ta lại là đám đông giận dữ, tay lăm le hòn đá xét đoán để ném vào người khác. Nhưng trên hết, hôm nay chúng ta được mời gọi để chiêm ngắm Đức Giêsu, Đấng là hiện thân của Lòng Thương Xót, Đấng duy nhất có quyền kết án nhưng lại chọn con đường tha thứ. Với tâm tình khiêm nhu, nhận biết mình cần đến ơn tha thứ của Chúa, chúng ta hãy thành tâm sám hối để xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh.

BÀI TIN MỪNG: Gioan 8, 1-11

(Đọc bài Tin Mừng theo quy định phụng vụ)

BÀI GIẢNG

Kính thưa quý ông bà và anh chị em,

Bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay mở ra trong một bầu khí đầy căng thẳng và ngột ngạt tại khu vực Đền Thờ. Sau một đêm cầu nguyện trên núi Ô-liu, Đức Giêsu trở lại giảng dạy cho dân chúng. Khung cảnh trang nghiêm và bình an ấy bỗng chốc bị phá vỡ bởi sự xuất hiện ồn ào, hung hãn của các kinh sư và người Pharisêu. Họ lôi đến trước mặt Chúa một người phụ nữ, một con người đang run rẩy vì sợ hãi và xấu hổ tột cùng. Chị ta bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Không có chỗ cho sự chối cãi, bằng chứng đã quá rõ ràng. Đám đông ấy không chỉ mang đến một tội nhân, họ mang đến một sự thách thức, một cái bẫy chết người được giăng ra không chỉ dành cho người phụ nữ, mà còn dành cho chính Đức Giêsu. "Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà này. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?".

Câu hỏi này chứa đựng một sự nham hiểm ghê gớm. Nếu Đức Giêsu bảo tha cho chị ta, Ngài sẽ bị cáo buộc là chống lại Lật Môsê, nền tảng của Do Thái giáo, và do đó là kẻ phạm thượng. Ngược lại, nếu Ngài đồng ý ném đá chị ta, Ngài sẽ mâu thuẫn với chính lời rao giảng của mình về tình yêu thương, lòng thương xót của Thiên Chúa, và đồng thời cũng vi phạm luật pháp Rôma, vì thời đó chỉ chính quyền Rôma mới có quyền thi hành án tử hình. Dường như không có lối thoát. Đối với những kẻ tố cáo, người phụ nữ này không còn là một con người có phẩm giá, có cảm xúc, mà chỉ là một công cụ, một quân cờ trên bàn cờ chính trị và tôn giáo để họ triệt hạ đối thủ. Sự tàn nhẫn của chủ nghĩa lề luật cứng nhắc, khi tách rời khỏi lòng nhân ái, đã biến những người được coi là đạo đức nhất trở thành những kẻ vô cảm nhất. Họ nhân danh Thiên Chúa để đòi mạng sống của một con người, trong khi quên mất rằng Thiên Chúa là Đấng bảo vệ sự sống.

Trước sự hung hãn và cái bẫy tinh vi đó, phản ứng của Đức Giêsu thật lạ lùng và bất ngờ. Ngài không tranh luận, không đối đầu trực diện, cũng không vội vàng đưa ra một phán quyết pháp lý. Ngài cúi xuống và lấy ngón tay viết trên đất. Một sự im lặng bao trùm, chỉ còn tiếng ồn ào của đám đông đang dần lắng xuống vì tò mò và khó hiểu. Hành động này của Chúa có ý nghĩa gì? Có nhiều cách giải thích khác nhau. Có người cho rằng Ngài đang viết lại những điều răn của Chúa Cha, khẳng định Ngài là Đấng ban Lề Luật mới. Có người, như Thánh Giêrônimô, lại cho rằng Ngài đang viết ra tội lỗi của chính những kẻ đang đứng đó tố cáo. Nhưng dù Ngài viết gì đi nữa, hành động cúi xuống và im lặng đó là một khoảng lặng cần thiết, một sự "hãm phanh" đối với cơn giận dữ đang bừng bừng của đám đông. Sự im lặng của Thiên Chúa đôi khi mạnh mẽ hơn bất kỳ lời nói nào. Nó buộc con người phải dừng lại, phải suy nghĩ, và phải đối diện với chính lương tâm của mình thay vì chỉ chăm chăm nhìn vào lỗi lầm của người khác.

Nhưng họ không buông tha. Họ tiếp tục gặng hỏi, thúc ép Ngài phải đưa ra câu trả lời. Và rồi, Đức Giêsu ngẩng lên. Ánh mắt Ngài không nhìn vào người phụ nữ đang khiếp sợ, mà nhìn thẳng vào những kẻ đang tự cho mình là công chính. Ngài nói một câu, chỉ một câu thôi, nhưng có sức mạnh như một tia sét đánh tan mọi sự giả hình: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi". Câu nói này không hề phủ nhận Lề Luật Môsê. Ngài không nói "Đừng ném đá". Ngài chỉ đặt ra một điều kiện tiên quyết cho người thi hành án: sự vô tội.

Đây là một đòn giáng mạnh vào lương tâm của những kẻ tố cáo. Đức Giêsu đã chuyển hướng vấn đề từ việc xét xử một cá nhân sang việc tự xét xử của cả một cộng đồng. Ngài buộc họ phải nhìn vào tấm gương phản chiếu linh hồn mình. Ai dám tự vỗ ngực xưng tên rằng mình hoàn toàn trong sạch? Ai dám khẳng định mình chưa bao giờ phạm tội, dù là trong tư tưởng, lời nói hay việc làm? Tội lỗi không chỉ là hành động ngoại tình bị bắt quả tang. Tội lỗi còn là sự kiêu ngạo, sự ghen ghét, sự tham lam, sự dửng dưng trước nỗi đau của người khác. Tội lỗi còn là việc dùng Lề Luật của Chúa để giết chết con người thay vì cứu sống họ.

Lời của Chúa như một lưỡi gươm sắc bén đâm thấu tâm can. Và kết quả là một cảnh tượng bi hài nhưng cũng đầy tính nhân văn: "Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi". Tại sao lại bắt đầu từ những người lớn tuổi? Có lẽ vì họ sống lâu hơn, trải nghiệm nhiều hơn, và do đó, danh sách tội lỗi và sự thấu hiểu về sự yếu đuối của con người trong họ cũng dài hơn, sâu sắc hơn những người trẻ tuổi đang hăng máu. Những hòn đá trên tay họ, vốn được chuẩn bị để ném vào người phụ nữ tội lỗi, giờ đây trở nên nặng trĩu. Chúng không còn là công cụ của công lý nữa, mà trở thành bằng chứng cho sự giả hình của chính họ. Họ lặng lẽ rút lui, từng người một, để lại một khoảng trống mênh mông. Sự rút lui này là một sự thừa nhận thất bại của sự tự mãn, nhưng đồng thời, cũng có thể là khởi đầu cho một sự sám hối chân thành nếu họ biết suy ngẫm về bài học vừa nhận được.

Và rồi, chỉ còn lại hai người: Đức Giêsu và người phụ nữ. Thánh Augustinô đã mô tả khoảnh khắc này bằng một câu Latinh tuyệt đẹp: "Miseria et Misericordia" - Sự Khốn Cùng và Lòng Thương Xót đối diện nhau. Đám đông ồn ào đã tan biến, những lời buộc tội đã tắt lịm. Chỉ còn lại sự thinh lặng thánh thiêng, nơi mà tội lỗi trần trụi đối diện với Tình Yêu tinh ròng. Người phụ nữ, lúc này đây, có lẽ vẫn chưa hết bàng hoàng. Chị ta vừa thoát khỏi cái chết trong gang tấc. Chị ta đứng đó, chờ đợi một phán quyết cuối cùng từ người đàn ông duy nhất có đủ tư cách để ném hòn đá đầu tiên, vì Ngài là Đấng hoàn toàn vô tội.

Đức Giêsu ngẩng lên lần nữa và nói với chị: "Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?". Ngài gọi chị là "Này chị", một cách xưng hô đầy trân trọng, trả lại cho chị phẩm giá con người mà đám đông kia đã tước đoạt. Ngài không nhìn chị như một "con đàn bà ngoại tình", mà như một con người, một người con của Thiên Chúa đang bị tổn thương sâu sắc bởi tội lỗi của chính mình và sự tàn nhẫn của người đời. Câu trả lời lí nhí, run rẩy của chị: "Thưa ông, không có ai cả", là sự xác nhận rằng sự phán xét của loài người đã sụp đổ trước sự thật của Thiên Chúa.

Và rồi, lời tuyên bố quan trọng nhất, là đỉnh cao của Tin Mừng hôm nay và là nguồn hy vọng cho tất cả chúng ta, được vang lên từ môi miệng Đấng Cứu Thế: "Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu". Chúng ta cần hiểu cho đúng lời này. "Không lên án" không có nghĩa là Đức Giêsu coi thường tội lỗi, hay cho rằng việc ngoại tình là không quan trọng. Không, tội lỗi vẫn là tội lỗi, là sự xúc phạm đến Thiên Chúa và phá vỡ các mối tương quan. Nhưng Đức Giêsu đến thế gian không phải để kết án, mà là để cứu chuộc. Ngài không đồng hóa tội nhân với tội lỗi của họ. Ngài nhìn thấy nơi người phụ nữ này một khả năng được cứu chuộc, một tương lai còn ở phía trước, chứ không chỉ là một quá khứ đen tối cần phải bị trừng phạt. Sự "không lên án" của Chúa là một hành động của ân sủng, một món quà nhưng không mà người phụ nữ không hề xứng đáng nhận được, nhưng lại được trao ban một cách quảng đại.

Tuy nhiên, Lòng Thương Xót của Chúa không phải là một sự dung túng dễ dãi. Nó luôn đi kèm với một lời mời gọi, một mệnh lệnh dứt khoát để thay đổi cuộc sống: "Thôi chị về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa". Đây là điều kiện của sự tha thứ, hay đúng hơn, là hoa trái tất yếu của việc đón nhận Lòng Thương Xót. Ân sủng của Chúa không để chúng ta yên vị trong vũng bùn tội lỗi. Ân sủng ấy nâng chúng ta dậy, chữa lành vết thương, và trao cho chúng ta sức mạnh để bước đi trên con đường mới. Lời dặn "đừng phạm tội nữa" không phải là một gánh nặng lề luật mới đè lên vai chị, mà là một lời giải phóng. Chúa đang nói với chị: "Chị đã được tự do khỏi án chết, giờ đây hãy sống xứng đáng với sự tự do đó. Đừng quay lại con đường cũ, đừng để tội lỗi nô lệ hóa chị một lần nữa". Sự tha thứ đích thực luôn hướng tới sự hoán cải. Lòng Thương Xót mà không dẫn đến sự thay đổi thì chỉ là một sự an ủi giả tạo.

Kính thưa cộng đoàn, câu chuyện của người phụ nữ ngoại tình không chỉ là chuyện của hai ngàn năm trước. Nó đang diễn ra mỗi ngày trong cuộc sống của chúng ta, đặc biệt là trong Mùa Chay này. Chúng ta thường dễ dàng đóng vai những người Pharisêu, cầm sẵn những hòn đá xét đoán trong tay. Chúng ta dễ dàng nhìn thấy cái rác trong mắt anh em mà không thấy cái xà trong mắt mình. Chúng ta lên án, chỉ trích, bàn tán về lỗi lầm của người khác, đôi khi nhân danh sự thật, nhân danh công lý, hay thậm chí nhân danh Chúa. Những hòn đá ngày nay có thể không phải là đá thật, mà là những lời nói cay nghiệt, những dòng bình luận ác ý trên mạng xã hội, sự tẩy chay, cô lập người khác. Mỗi lần chúng ta làm như vậy, chúng ta đang quên mất rằng mình cũng là tội nhân, cũng đang cần đến Lòng Thương Xót của Chúa mỗi ngày. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy buông những hòn đá đó xuống. Trước khi xét đoán ai, hãy nhìn lại chính mình. Hãy nhớ rằng chỉ có Thiên Chúa mới là Thẩm Phán tối cao và công minh, và ngay cả Ngài cũng chọn Lòng Thương Xót hơn là hy lễ.

Ngược lại, cũng có những lúc chúng ta chính là người phụ nữ kia. Chúng ta bị vạch trần, bị bắt quả tang trong những yếu đuối, lầm lỗi của mình. Có thể không ai biết, nhưng lương tâm chúng ta biết, và Thiên Chúa biết. Chúng ta cảm thấy xấu hổ, sợ hãi, mặc cảm. Chúng ta sợ bị người khác phát hiện, sợ bị kết án, và đôi khi, chúng ta tự kết án chính mình, cho rằng mình không còn xứng đáng được tha thứ, không còn cơ hội để làm lại cuộc đời. Chúng ta trốn chạy Thiên Chúa, trốn chạy Giáo Hội vì sợ đối diện với ánh sáng sự thật.

Nhưng sứ điệp của Tin Mừng hôm nay khẳng định mạnh mẽ: "Không ai bị kết án nếu biết chạy đến với Chúa". Dù tội lỗi của chúng ta có đỏ như son, Chúa cũng có thể làm cho trắng như tuyết. Không có tội nào lớn hơn Lòng Thương Xót của Chúa, miễn là chúng ta khiêm tốn nhận lỗi và chạy đến với Ngài. Tòa Giải Tội chính là nơi cuộc gặp gỡ giữa "Sự Khốn Cùng và Lòng Thương Xót" diễn ra một cách cụ thể và sống động nhất. Ở đó, linh mục, thay mặt Đức Kitô, không ngồi để kết án, mà để lắng nghe, để chữa lành và để thốt lên lời tha thứ của Thiên Chúa: "Thầy cũng không kết án con. Hãy đi bình an và đừng phạm tội nữa".

Chúa ghét tội lỗi, nhưng Ngài yêu thương tội nhân. Ngài ghét tội lỗi vì nó phá hủy con người mà Ngài đã tạo dựng theo hình ảnh Ngài. Nhưng Ngài yêu thương tội nhân đến nỗi đã hy sinh mạng sống mình trên Thập Giá để cứu chuộc họ. Sự im lặng của Chúa khi cúi xuống viết trên đất là sự im lặng của một tình yêu kiên nhẫn, chờ đợi con người sám hối. Ánh mắt nhân từ của Ngài nhìn người phụ nữ là ánh mắt phục hồi phẩm giá. Lời tha thứ của Ngài là sức mạnh tái sinh.

Trong những ngày còn lại của Mùa Chay, chúng ta hãy can đảm bước ra khỏi đám đông ồn ào của thế gian, bước ra khỏi sự tự mãn của bản thân, để đến và đứng một mình trước mặt Chúa Giêsu. Hãy mang đến cho Ngài tất cả những gánh nặng, những vết thương, những tội lỗi kín ẩn nhất của chúng ta. Đừng sợ hãi. Ngài không chờ đợi chúng ta với những hòn đá trên tay, mà với đôi tay dang rộng trên Thập Giá. Hãy để Lòng Thương Xót của Ngài chạm vào tâm hồn chúng ta, chữa lành và biến đổi chúng ta. Và khi đã cảm nghiệm được sự ngọt ngào của ơn tha thứ, chúng ta cũng hãy biết sống bao dung, nhân ái hơn với những người anh chị em xung quanh mình, những người cũng đang vật lộn với sự yếu đuối của kiếp người. Ước gì lời của Chúa: "Tôi cũng không lên án chị đâu. Thôi chị về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa", trở thành nguồn sức mạnh giúp chúng ta canh tân đời sống mỗi ngày, để hân hoan đón mừng mầu nhiệm Vượt Qua sắp tới. Amen.

LỜI NGUYỆN TÍN HỮU

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu Kitô là hiện thân của Lòng Thương Xót Chúa Cha, Đấng không đến để kết án nhưng để cứu chuộc thế gian. Tin tưởng vào tình yêu bao dung của Người, chúng ta cùng dâng lên những lời nguyện xin tha thiết:

1.          Chúng ta hãy cầu xin cho Hội Thánh, luôn là hiện thân sống động của Lòng Thương Xót Chúa giữa trần gian. Xin cho các vị mục tử luôn biết dùng tấm lòng bao dung và nhân ái để đón nhận, chữa lành những tâm hồn lầm lạc, giúp họ tìm lại được phẩm giá làm con Thiên Chúa qua Bí tích Hòa Giải.

2.          Chúng ta hãy cầu xin cho các nhà lãnh đạo quốc gia và những người nắm giữ quyền lập pháp, hành pháp. Xin cho họ luôn biết đề cao công lý đi đôi với lòng nhân đạo, tôn trọng phẩm giá của mọi con người, kể cả những người lầm lỗi, để xây dựng một xã hội công bằng và bác ái hơn.

3.          Chúng ta hãy cầu xin cho những ai đang sống trong mặc cảm tội lỗi, những người bị xã hội lên án, loại trừ. Xin cho họ cảm nhận được ánh mắt yêu thương và lời tha thứ của Chúa Giêsu, để họ có đủ can đảm đứng dậy, từ bỏ con đường cũ và bắt đầu lại một cuộc sống mới trong ân sủng.

4.          Chúng ta hãy cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta trong Mùa Chay thánh này. Xin cho mỗi người chúng ta biết khiêm tốn nhận ra sự yếu đuối của chính mình, từ bỏ thói quen xét đoán người khác, và biết chạy đến với Lòng Thương Xót Chúa để được thanh tẩy và đổi mới.

Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Cha không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn họ ăn năn sám hối và được sống. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện và ban ơn trợ giúp để chúng con luôn biết sống xứng đáng là con cái của Sự Sáng và Tình Yêu. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.


 

 

Tháng 4: CHIẾN THẮNG CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT (MÙA PHỤC SINH)

·              Chủ đề: Bình an cho anh em - Vết thương trở thành nguồn ân sủng.

·              Tin Mừng: Gioan 20, 19-31 (Chúa Phục Sinh hiện ra với Tôma).

·              Định hướng: Tháng của Lễ Kính Lòng Chúa Thương Xót. Các vết thương của Chúa không biến mất sau Phục sinh, mà trở thành "cửa ngõ" để Tôma và nhân loại chạm vào tình yêu cứu độ.

CHỦ ĐỀ BÀI GIẢNG: BÌNH AN CHO ANH EM - VẾT THƯƠNG TRỞ THÀNH NGUỒN ÂN SỦNG

Thời gian: Tháng 4 - Mùa Phục Sinh (Chúa Nhật Kính Lòng Chúa Thương Xót) Tin Mừng: Ga 20, 19-31

DẪN VÀO THÁNH LỄ

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

Trong bầu khí hân hoan của Mùa Phục Sinh, hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội long trọng cử hành Lễ Kính Lòng Chúa Thương Xót. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta trở lại căn phòng Tiệc Ly năm xưa, nơi các môn đệ đang đóng kín cửa vì sợ hãi, để chứng kiến cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa Đấng Phục Sinh và những tâm hồn đang hoang mang.

Chúa Giêsu đã đến, không phải để trách mắng sự hèn nhát hay cứng lòng tin, nhưng để trao ban bình an và cho các ông xem những vết thương của Người. Những vết thương ở tay, chân và cạnh sườn – dấu tích của cuộc khổ nạn – giờ đây không còn rỉ máu đau thương, nhưng đã trở thành những "cửa ngõ" của ân sủng, nơi dòng suối Lòng Thương Xót tuôn trào để chữa lành và thánh hóa nhân loại. Đặc biệt qua hình ảnh thánh Tôma, chúng ta thấy được sự kiên nhẫn vô biên của Thiên Chúa, Đấng sẵn sàng cho con người chạm vào nỗi đau của Ngài để biến đổi sự nghi nan thành đức tin kiên vững.

Hiệp dâng Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa Giêsu Phục Sinh thổi hơi Bình an của Ngài vào tâm hồn mỗi người. Xin cho chúng ta, dù đang mang trong mình những vết thương của tội lỗi, của thất bại hay khổ đau, biết can đảm chạy đến với Lòng Thương Xót Chúa. Nguyện xin Máu và Nước từ Thánh Tâm Chúa rửa sạch và chữa lành chúng ta, để chúng ta cũng trở thành những chứng nhân của lòng thương xót giữa đời thường.

Với tâm tình thống hối và tin yêu, giờ đây chúng ta cùng thành tâm sám hối để xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh.

BÀI TIN MỪNG: Ga 20, 19-31

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan.

Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em!" Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."

Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tôma, cũng gọi là Điđymô, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến. Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tôma đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin." Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." Rồi Người bảo ông Tôma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." Ông Tôma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" Đức Giêsu bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"

Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người.

Đó là Lời Chúa.

BÀI GIẢNG

Kính thưa quý ông bà và anh chị em, trong bầu khí linh thiêng và tràn ngập ánh sáng của Mùa Phục Sinh, Lời Chúa hôm nay dẫn đưa chúng ta bước vào một khung cảnh vừa quen thuộc vừa đầy kịch tính của căn phòng Tiệc Ly. Đó là buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, khi bóng tối của sự sợ hãi đang bao trùm lên tâm trí các môn đệ. Những cánh cửa đóng kín không chỉ là rào cản vật lý để ngăn cách họ với thế giới bên ngoài đầy thù địch, mà còn là hình ảnh biểu tượng cho những tâm hồn đang khép lại vì thất vọng, vì mặc cảm tội lỗi và vì sự hoang mang tột độ sau cái chết của Thầy mình. Chính trong bối cảnh ngột ngạt của sự sợ hãi và bế tắc ấy, Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện đến. Ngài không cần gõ cửa, không cần ai mở khóa, Ngài đi xuyên qua những rào cản vật chất và cả những rào cản tâm lý để đứng giữa các ông. Lời đầu tiên vang lên từ Đấng đã chiến thắng tử thần không phải là một lời trách móc, không phải là sự hạch sách về việc tại sao các ông đã bỏ chạy, đã chối Thầy hay đã ẩn nấp, mà là một lời chúc đầy ân sủng: "Bình an cho anh em".

Lời chào "Bình an" hay "Shalom" trong truyền thống Do Thái không chỉ đơn thuần là lời xã giao hay sự vắng bóng của chiến tranh. Trong miệng của Đấng Phục Sinh, lời này mang một sức nặng thần học và cứu độ sâu sắc. Đó là sự bình an của một cuộc hòa giải trọn vẹn giữa Thiên Chúa và nhân loại, sự bình an được mua bằng giá máu trên thập giá. Khi Chúa Giêsu ban bình an, Ngài đang tái lập lại trật tự đã bị phá vỡ bởi tội lỗi, Ngài đang chữa lành những tâm hồn tan nát của các môn đệ. Nhưng điều đáng kinh ngạc hơn cả là ngay sau lời chúc bình an ấy, Chúa Giêsu đã làm một hành động mà thoạt nhìn có vẻ nghịch lý: Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Tại sao Đấng Phục Sinh, trong thân xác vinh hiển sáng láng, lại vẫn giữ lại những vết sẹo của cuộc khổ hình? Tại sao Thiên Chúa toàn năng không xóa bỏ những dấu vết đau thương ấy để thân xác Ngài trở nên hoàn hảo không tì vết theo con mắt phàm trần? Đây chính là mấu chốt của mầu nhiệm Lòng Thương Xót mà chúng ta suy niệm hôm nay: Vết thương không biến mất, nhưng trở thành nguồn ân sủng.

Những vết thương trên thân thể Chúa Giêsu Phục Sinh mang một ý nghĩa hoàn toàn mới. Trước đây, trên đồi Canvê, chúng là những vết thương hở miệng, rỉ máu, là dấu hiệu của sự thất bại, của đau đớn và cái chết. Nhưng giờ đây, trên thân thể phục sinh, chúng trở thành những dấu ấn của tình yêu chiến thắng, là bằng chứng vĩnh cửu về cái giá mà Thiên Chúa đã trả để chuộc lấy con người. Chúa Giêsu giữ lại những vết thương ấy như muốn nói với các môn đệ và với tất cả chúng ta rằng: "Hãy nhìn xem, Thầy là Đấng đã chết, nhưng nay Thầy đang sống. Tình yêu của Thầy là có thật, và những vết thương này là chứng tích không thể phai mờ". Các vết thương ấy giờ đây không còn gây đau đớn cho Chúa nữa, mà trở thành những ô cửa sổ, những "cửa ngõ" để ánh sáng Lòng Thương Xót chiếu soi vào thế gian. Từ cạnh sườn bị đâm thâu, Máu và Nước đã tuôn trào như suối nguồn cứu độ, rửa sạch tội lỗi và ban sự sống đời đời. Việc Chúa cho các môn đệ xem vết thương không phải để khoe khoang chiến tích, mà để mời gọi các ông chạm vào hiện thực của tình yêu cứu độ, để xác nhận rằng Đấng đang đứng trước mặt họ chính là Thầy Giêsu đã chịu đóng đinh, không phải là một bóng ma hay ảo ảnh.

Trong bối cảnh ấy, câu chuyện về thánh Tôma nổi lên như một đại diện tiêu biểu cho hành trình đức tin của con người mọi thời đại, đặc biệt là con người trong thế giới duy lý hôm nay. Tôma vắng mặt trong lần hiện ra đầu tiên. Chúng ta không biết ông đi đâu, có lẽ ông đang lang thang trong nỗi thất vọng ê chề, hoặc có lẽ ông là người can đảm nhất dám bước ra ngoài để nghe ngóng tình hình. Nhưng khi trở về và nghe các bạn đồng môn reo vui: "Chúng tôi đã được thấy Chúa", phản ứng của Tôma thật gay gắt và dứt khoát: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin". Chúng ta thường vội vã gắn cho Tôma cái mác "kẻ cứng lòng", nhưng nếu nhìn sâu hơn, có lẽ Tôma chỉ đang nói lên khát vọng sâu thẳm của con người: khát vọng về một sự thật trần trụi, một bằng chứng hữu hình. Tôma không muốn tin vào một bóng ma, ông muốn tin vào một con người có xương có thịt, và quan trọng nhất, ông muốn tìm lại đúng Thầy Giêsu đã chịu đóng đinh. Đối với Tôma, dấu hiệu nhận diện Đấng Messiah không phải là hào quang chói lọi, mà là những vết thương. Ông muốn chắc chắn rằng Đấng Phục Sinh cũng chính là Đấng đã chịu khổ nạn vì yêu thương.

Và Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, đã không từ chối thách thức của Tôma. Tám ngày sau, Chúa Giêsu trở lại. Có thể nói, lần hiện ra này là dành riêng cho Tôma. Ngài đi thẳng đến chỗ người môn đệ đang hoài nghi và lặp lại chính xác những điều kiện mà Tôma đã đưa ra: "Đặt ngón tay vào đây... đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy". Chúa Giêsu không trách mắng Tôma vì sự đòi hỏi táo bạo ấy, trái lại, Ngài hạ mình xuống để đáp ứng nhu cầu được thấy, được chạm của con người. Đây là tột đỉnh của Lòng Thương Xót: Thiên Chúa chấp nhận để con người "kiểm tra" tình yêu của mình. Ngài mở rộng vết thương nơi cạnh sườn, mời gọi Tôma không chỉ chạm vào da thịt, mà chạm vào chính trái tim của Thiên Chúa. Trong khoảnh khắc ấy, Tôma không chỉ chạm vào một vết sẹo vật lý, mà ông đã chạm vào đại dương của Lòng Thương Xót. Sự cứng cỏi của ông tan chảy, lý trí kiêu hãnh của ông khuất phục, và từ đôi môi của người môn đệ hoài nghi ấy đã bật lên lời tuyên xưng đức tin hoàn hảo nhất trong Tân Ước: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!".

Từ vết thương của Chúa, ân sủng đã tuôn trào chữa lành vết thương lòng của Tôma. Vết thương của sự nghi ngờ, của sự cô đơn và tách biệt nơi Tôma đã được chữa lành nhờ việc chạm vào vết thương tình yêu của Chúa. Đây là một bài học thiêng liêng sâu sắc cho mỗi chúng ta. Trong cuộc sống, ai trong chúng ta cũng mang trên mình những vết thương. Có những vết thương thể xác, nhưng cũng có vô vàn những vết thương tâm hồn: vết thương do tội lỗi, do sự phản bội, do thất bại, do sự ghẻ lạnh của người thân, hay những tổn thương sâu sắc từ quá khứ. Chúng ta thường có xu hướng che giấu những vết thương ấy, giống như các môn đệ đóng kín cửa phòng. Chúng ta sợ người khác nhìn thấy sự yếu đuối, sợ bị phán xét, hoặc sợ phải đối diện với nỗi đau. Chúng ta xây dựng những bức tường phòng vệ, đeo lên mình những chiếc mặt nạ của sự mạnh mẽ giả tạo, nhưng bên trong lại đang rỉ máu và mưng mủ.

Sứ điệp Lòng Chúa Thương Xót hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm mang những vết thương của mình đến gặp gỡ những vết thương của Chúa Giêsu. Chỉ có vết thương của Thiên Chúa mới có quyền năng chữa lành vết thương của con người. Khi chúng ta dâng lên Chúa nỗi đau của mình, kết hiệp nó với cuộc khổ nạn của Ngài, thì điều kỳ diệu sẽ xảy ra: đau khổ không bị xóa bỏ hoàn toàn, nhưng nó được biến đổi. Vết thương của chúng ta, thay vì là hố sâu của tuyệt vọng, sẽ trở thành nguồn suối của ân sủng. Một người đã từng trải qua đau khổ và được Chúa chữa lành sẽ trở thành một người có khả năng cảm thông và yêu thương sâu sắc hơn. Giống như Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn mang thương tích để minh chứng tình yêu, những vết sẹo trong cuộc đời chúng ta, khi được ánh sáng Phục Sinh chiếu rọi, sẽ trở thành dấu chứng của việc chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương và cứu vớt. Chúng ta trở thành những "lương y bị thương" (wounded healers) – những người dùng chính kinh nghiệm đau thương đã được chữa lành của mình để an ủi và nâng đỡ anh chị em đồng loại.

Hơn thế nữa, việc Chúa Giêsu cho phép Tôma chạm vào vết thương còn là một lời mời gọi chúng ta hãy chạm vào những "vết thương" của Chúa Kitô đang hiện diện trong thế giới hôm nay. Chúa Kitô vẫn đang chịu đau khổ nơi những người nghèo đói, bệnh tật, bị bỏ rơi, bị gạt ra bên lề xã hội. Thân thể mầu nhiệm của Chúa vẫn đang rỉ máu ở những nơi chiến tranh, hận thù và bất công ngự trị. Lòng sùng kính Lòng Chúa Thương Xót không thể chỉ dừng lại ở việc đọc kinh hay chiêm ngắm ảnh tượng, mà phải thúc đẩy chúng ta "xỏ ngón tay" và "đặt bàn tay" vào những nỗi đau của nhân loại. Mỗi khi chúng ta an ủi một người đang buồn sầu, giúp đỡ một người đang túng thiếu, tha thứ cho một người xúc phạm đến mình, là chúng ta đang chạm vào vết thương của Chúa và để cho dòng suối Lòng Thương Xót tuôn chảy qua đôi tay của chúng ta.

"Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em". Sau khi chữa lành đức tin cho các môn đệ, Chúa Giêsu trao cho các ông một sứ mạng. Sứ mạng đó là mang bình an và sự tha thứ đến cho thế giới. Ngài thổi hơi và ban Thánh Thần để các ông có quyền tha tội. Lòng Thương Xót không phải là một kho báu để giữ riêng, mà là một ngọn lửa cần được lan tỏa. Thế giới ngày nay đang khao khát bình an và lòng thương xót hơn bao giờ hết. Chúng ta thấy nhan nhản những xung đột, chia rẽ, những vết thương tâm lý trầm trọng trong các gia đình và giới trẻ. Con người ngày nay giống như Tôma, đầy nghi hoặc và đòi hỏi bằng chứng. Họ sẽ không tin vào một Thiên Chúa của lý thuyết suông, họ chỉ tin khi nhìn thấy những "dấu đinh" của tình yêu hy sinh nơi đời sống của các Kitô hữu. Họ cần thấy chúng ta, những môn đệ của Chúa, biết yêu thương, biết tha thứ và biết chấp nhận chịu thiệt thòi vì người khác. Chính cuộc sống bác ái và bao dung của chúng ta sẽ là bằng chứng sống động nhất để thế giới nhận ra Chúa Phục Sinh đang hiện diện.

Mùa Phục Sinh nhắc nhở chúng ta rằng tiếng nói cuối cùng không thuộc về cái chết, đau khổ hay tội lỗi, mà thuộc về Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chiến thắng của Chúa Giêsu là chiến thắng của Lòng Thương Xót trên sự cứng lòng, của Ánh Sáng trên bóng tối. Khi chúng ta chiêm ngắm bức linh ảnh Lòng Chúa Thương Xót với hai luồng sáng đỏ và trắng, chúng ta hãy nhớ rằng đó là dòng máu và nước tuôn ra từ vết thương trái tim Chúa – vết thương đã mở toang để đón nhận tất cả chúng ta vào ẩn náu. Đừng sợ hãi, dù tội lỗi chúng ta có đỏ như son, Lòng Thương Xót Chúa cũng sẽ tẩy trắng như tuyết. Dù quá khứ chúng ta có đầy rẫy những vết sẹo, Chúa vẫn có thể làm cho chúng trổ sinh hoa trái thánh thiện.

Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa. Xin cho con, giống như thánh Tôma, biết tìm kiếm Chúa không phải bằng những phép lạ ngoạn mục, mà bằng cách chạm vào tình yêu hy sinh của Chúa. Xin biến đổi những vết thương trong tâm hồn con thành nguồn suối ân sủng, để con không còn sống cho chính mình, mà sống để loan truyền Lòng Thương Xót của Chúa cho anh chị em. Xin cho con, khi chạm vào nỗi đau của tha nhân, biết xoa dịu họ bằng chính sự dịu dàng mà con đã nhận được từ nơi Ngài. Và xin cho lời chúc "Bình an cho anh em" của Chúa luôn vang vọng và ở lại trong tâm hồn chúng con, để chúng con trở thành khí cụ bình an của Chúa giữa một thế giới đầy bất an và biến động này. Amen.

LỜI NGUYỆN TÍN HỮU

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Đấng đã làm cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết để ban niềm hy vọng và sự sống mới cho nhân loại. Trong niềm hân hoan mừng Chúa Phục Sinh và tin tưởng vào tình yêu chữa lành của Người, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin:

1.          "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Đức Giáo Hoàng, các Giám mục và Linh mục trên toàn thế giới. Xin cho các ngài luôn là những hiện thân sống động của Lòng Chúa Thương Xót, biết dùng sự bao dung và tình phụ tử để băng bó những vết thương của đoàn chiên, và can đảm loan báo Tin Mừng Bình An đến tận cùng trái đất.

2.          "Bình an cho anh em." Thế giới hôm nay vẫn đang rỉ máu vì chiến tranh, bạo lực và sự hận thù. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các nhà lãnh đạo quốc gia và mọi dân tộc, biết mở lòng đón nhận bình an của Chúa Phục Sinh, để cùng nhau hàn gắn những chia rẽ, xây dựng một nền văn minh tình thương và tôn trọng sự sống.

3.          "Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang hoang mang, nghi nan về đức tin, hoặc đang thất vọng vì những đau khổ trong cuộc đời. Xin Lòng Thương Xót Chúa chạm đến tâm hồn họ, biến những vết thương lòng thành cửa ngõ ân sủng, để họ nhận ra Chúa luôn hiện diện, yêu thương và đồng hành cùng họ.

4.          "Phúc thay những người không thấy mà tin." Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta, đặc biệt trong tháng Kính Lòng Chúa Thương Xót này. Xin cho mỗi người biết noi gương thánh Tôma, tuyên xưng Chúa là "Chúa của con và Thiên Chúa của con", và biết thể hiện niềm tin ấy qua những hành động bác ái cụ thể đối với nững anh chị em nghèo khổ và bệnh tật chung quanh mình.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, Chúa đã cho thánh Tôma chạm vào các vết thương thánh để củng cố đức tin cho ông. Xin thương nhận những ước nguyện chúng con vừa dâng, và xin giúp chúng con luôn biết chạy đến nương ẩn nơi Lòng Thương Xót Chúa, để được chữa lành và tìm thấy sự bình an đích thực. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.


 

Giai Đoạn 2: SỐNG VÀ CẢM NGHIỆM LÒNG THƯƠNG XÓT

Tháng 5: Mẹ Maria - Mẹ của Lòng Thương Xót

·              Chủ đề: Sự nhạy bén của trái tim người Mẹ.

·              Tin Mừng: Gioan 2, 1-11 (Tiệc cưới Cana).

·              Định hướng: Học nơi Mẹ Maria ánh mắt quan sát đầy thương xót để nhận ra sự thiếu thốn của người khác trước khi họ mở lời xin, và đem nhu cầu đó đến với Chúa.

 

SỰ NHẠY BÉN CỦA TRÁI TIM NGƯỜI MẸ

DẪN VÀO THÁNH LỄ

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

Hôm nay, trong bầu khí linh thiêng và ấm áp của những ngày tháng Năm – tháng Hoa dâng kính Đức Mẹ, chúng ta quy tụ về đây để cùng chiêm ngắm dung nhan tuyệt mỹ của Mẹ Maria, không chỉ là vẻ đẹp bên ngoài mà là vẻ đẹp của một tâm hồn trắc ẩn, một trái tim dạt dào Lòng Thương Xót.

Chủ đề phụng vụ của chúng ta hôm nay mời gọi mỗi người suy ngẫm về "Sự nhạy bén của trái tim người Mẹ". Giữa cuộc đời đầy rẫy những lo toan, ồn ào và vội vã, đôi khi chúng ta trở nên vô cảm trước nỗi đau hay sự thiếu thốn của người bên cạnh. Nhưng Mẹ Maria thì khác. Mẹ có một đôi mắt biết nhìn, một đôi tai biết lắng nghe và một trái tim biết rung cảm trước khi con cái kịp mở lời kêu xin.

Trong bài Tin Mừng hôm nay về tiệc cưới Cana, chúng ta sẽ thấy Mẹ không chờ đợi người ta đến van nài, nhưng Mẹ đã tự mình nhận ra sự thiếu hụt – "Họ hết rượu rồi" – và âm thầm mang nỗi niềm đó đến với Chúa Giêsu. Mẹ dạy chúng ta bài học về sự tế nhị của đức ái và sức mạnh của lời cầu bầu đầy tin tưởng.

Giờ đây, để xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh, chúng ta hãy thành tâm sám hối về những lần chúng ta đã thờ ơ trước nhu cầu của anh chị em, những lần chúng ta thiếu sự nhạy bén của tình yêu thương, và xin Chúa, qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria, ban xuống trên chúng ta lòng thương xót hải hà của Ngài.

BÀI TIN MỪNG: Gioan 2, 1-11

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, có tiệc cưới tại Cana miền Galilê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự. Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: "Họ hết rượu rồi." Đức Giêsu đáp: "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và con? Giờ của con chưa đến." Thân mẫu Người nói với gia nhân: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo."

Ở đó có sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm lít nước. Đức Giêsu bảo họ: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi!" Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: "Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc." Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết, ông mới gọi tân lang lại và nói: "Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ."

Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.

Đó là Lời Chúa.

BÀI GIẢNG

Kính thưa quý ông bà và anh chị em thân mến,

Chúng ta đang sống trong những ngày tháng Năm rực rỡ sắc hoa, tháng mà lòng đạo đức bình dân của người Kitô hữu hướng về Mẹ Maria với tất cả lòng yêu mến và sùng kính. Khi chiêm ngắm Mẹ, chúng ta thường nghĩ đến những tước hiệu cao sang như Nữ Vương Thiên Đàng, Mẹ Thiên Chúa, hay Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Những tước hiệu ấy thật xứng hợp và cao quý. Tuy nhiên, Bài Tin Mừng hôm nay tại tiệc cưới Cana lại họa lên chân dung Mẹ Maria rất đỗi gần gũi, rất đỗi đời thường, nhưng lại chứa đựng một chiều sâu thần học và nhân bản vô cùng to lớn: đó là hình ảnh của một người Mẹ với sự nhạy bén phi thường của con tim, một người Mẹ của Lòng Thương Xót, luôn đi trước một bước trước những nhu cầu của con cái mình. Câu chuyện tại Cana không chỉ là câu chuyện về phép lạ nước hóa rượu, mà còn là câu chuyện về ánh mắt của Mẹ, một ánh mắt thấu suốt và đầy ắp tình thương.

Hãy thử hình dung khung cảnh của một đám cưới Do Thái thời bấy giờ. Đó là một sự kiện cộng đồng lớn, kéo dài nhiều ngày, nơi mà niềm vui, tiếng cười, âm nhạc và rượu nồng hòa quyện vào nhau. Trong văn hóa Do Thái, tiệc cưới là hình ảnh trần thế rõ nét nhất để diễn tả niềm vui của Nước Trời, và rượu là biểu tượng không thể thiếu của niềm vui ấy. Thiếu rượu không chỉ là một sự cố ẩm thực, nó là một thảm họa về danh dự, là dấu chấm hết cho niềm vui, và là nỗi xấu hổ ê chề sẽ đeo bám đôi tân hôn suốt cả cuộc đời. Giữa đám đông ồn ào, náo nhiệt ấy, có lẽ ai cũng đang mải mê ăn uống, chúc tụng, và tận hưởng niềm vui riêng của mình. Các môn đệ có thể đang bỡ ngỡ với khung cảnh mới lạ, khách khứa đang say sưa với những câu chuyện phiếm. Nhưng có một người, dù hòa mình vào niềm vui chung, vẫn giữ được một sự tỉnh thức lạ thường, đó là Mẹ Maria. Mẹ hiện diện ở đó không chỉ như một khách mời, mà như một người thân, và hơn hết, như một người Mẹ.

Sự nhạy bén của trái tim người Mẹ bắt đầu từ chính ánh mắt quan sát. Mẹ Maria không nhìn bữa tiệc bằng ánh mắt soi mói, đánh giá xem món ăn có ngon không, trang trí có đẹp không hay gia chủ có giàu có không. Mẹ nhìn bằng ánh mắt của lòng thương xót. Chính vì nhìn bằng trái tim, Mẹ đã nhận ra điều mà ngay cả ông quản tiệc – người có trách nhiệm chính – cũng chưa kịp nhận ra, và ngay cả đôi tân hôn cũng chưa hay biết: "Họ hết rượu rồi". Đây là chi tiết đắt giá nhất của bản văn Tin Mừng hôm nay. Thông thường, người ta chỉ kêu cứu khi sự cố đã xảy ra, khi nỗi đau đã ập đến. Nhưng Mẹ Maria đã nhìn thấy đám mây đen của sự xấu hổ đang kéo đến trên đầu đôi tân hôn khi bầu trời vẫn còn đang quang đãng. Sự nhạy bén này không đến từ sự tò mò, mà đến từ sự quan tâm sâu sắc. Chỉ những ai yêu thương đủ nhiều, quan tâm đủ sâu mới có thể cảm nhận được sự thiếu thốn của người khác khi nó còn chưa bộc lộ ra bên ngoài. Mẹ đã thấy cái "thiếu" giữa cái "đầy", thấy nỗi lo âu tiềm ẩn giữa tiếng cười giòn giã.

Điều đáng suy ngẫm hơn nữa là cách Mẹ xử lý thông tin ấy. Khi phát hiện ra sự cố "hết rượu", Mẹ không ngồi lê đôi mách, không thì thầm to nhỏ với những người xung quanh để chê bai sự thiếu chu đáo của gia chủ. Mẹ cũng không chạy đến trách móc đôi tân hôn hay làm ầm ĩ với người quản tiệc. Phản ứng của con người thường tình khi thấy sai sót của người khác là phê phán, là chỉ trích, hoặc tệ hơn là hả hê. Nhưng phản ứng của Mẹ Maria là phản ứng của Lòng Thương Xót: bao dung, kín đáo và tìm cách khắc phục. Mẹ đã chọn cách giải quyết tuyệt vời nhất: đem vấn đề đó đến với Chúa Giêsu. Mẹ đến bên Con của mình và nói một câu ngắn gọn, nhẹ nhàng nhưng đầy sức nặng: "Họ hết rượu rồi".

Lời nói này của Mẹ không phải là một mệnh lệnh, cũng chẳng phải là một lời van xin bi lụy. Đó là một lời trình bày, một sự phó thác trọn vẹn. Mẹ không bảo Chúa Giêsu phải làm gì, Mẹ không hiến kế rằng Con hãy làm phép lạ hay Con hãy sai người đi mua rượu. Mẹ chỉ đơn giản đặt nhu cầu của người khác vào trái tim của Thiên Chúa và để Ngài tự do hành động theo thánh ý Ngài. Đây chính là mẫu mực của lời cầu nguyện. Cầu nguyện, theo gương Mẹ Maria, không phải là nài ép Chúa làm theo ý mình, mà là tin tưởng đem trọn vẹn nỗi niềm, sự thiếu thốn của mình và của tha nhân đặt vào tay Chúa, tin rằng Chúa biết rõ nhất điều gì là tốt đẹp và Ngài sẽ ra tay đúng lúc. Sự nhạy bén của Mẹ đã dẫn đến hành động cầu bầu, và hành động cầu bầu ấy dựa trên nền tảng của đức tin tuyệt đối.

Khi nghe câu trả lời của Chúa Giêsu: "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và con? Giờ của con chưa đến", thoạt nghe có vẻ như một lời từ chối, thậm chí là một sự xa cách. Nhưng với sự nhạy cảm của một người Mẹ và sự thấu hiểu của một tín hữu đầu tiên, Mẹ Maria hiểu rằng Chúa Giêsu không từ chối lòng thương xót. Câu nói ấy có thể là một lời nhắc nhở về sứ vụ Messia của Ngài không lệ thuộc vào tình cảm gia đình trần thế, nhưng Mẹ hiểu trái tim của Con Mẹ. Mẹ biết rằng Lòng Thương Xót của Chúa không thể làm ngơ trước nỗi đau của con người. Vì thế, Mẹ đã quay sang nói với các gia nhân một lời trăng trối, lời mà Giáo Hội vẫn xem là lời khuyên cuối cùng của Mẹ được ghi lại trong Kinh Thánh: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo".

Lời dặn dò này là chìa khóa mở ra cánh cửa của phép lạ. Sự nhạy bén của Mẹ không chỉ dừng lại ở việc thấy nhu cầu và cầu xin Chúa, mà còn là sự cộng tác tích cực để phép lạ có thể xảy ra. Mẹ đã chuẩn bị tâm thế cho các gia nhân, hướng họ về phía Đức Kitô. Mẹ không làm thay Chúa, Mẹ cũng không làm thay các gia nhân, nhưng Mẹ là nhịp cầu nối liền sự bất lực của con người với quyền năng của Thiên Chúa. Nếu không có sự nhạy bén và sự can thiệp kịp thời của Mẹ, tiệc cưới Cana có lẽ đã kết thúc trong nỗi buồn tủi. Nhưng nhờ Mẹ, nước lã đã hóa thành rượu ngon, nỗi lo âu hóa thành niềm vui vỡ òa, và danh dự của đôi tân hôn được bảo toàn trọn vẹn.

Kính thưa cộng đoàn, câu chuyện Cana không chỉ là chuyện của hai ngàn năm trước, mà là chuyện của mỗi chúng ta, của từng gia đình và của cả cộng đoàn giáo xứ hôm nay. Chúng ta được mời gọi học nơi Mẹ Maria sự nhạy bén của trái tim. Trong cuộc sống gia đình, người vợ, người mẹ, người chồng, người cha có nhận ra những lúc "hết rượu" của gia đình mình không? "Rượu" ở đây có thể không phải là thứ rượu vật chất, mà là rượu của tình yêu thương, rượu của sự kiên nhẫn, rượu của lòng chung thủy, hay rượu của niềm tin. Có những lúc gia đình chúng ta cạn kiệt niềm vui, vợ chồng nhìn nhau bằng ánh mắt lạnh lùng, cha mẹ con cái không còn tìm được tiếng nói chung, bầu khí gia đình trở nên ngột ngạt như những chum đá rỗng tuếch.

Nếu chúng ta có trái tim nhạy bén như Mẹ, chúng ta sẽ nhận ra những vết rạn nứt đó khi nó mới chỉ là những vết xước nhỏ. Chúng ta sẽ thấy nỗi buồn trong mắt người bạn đời trước khi họ than thở. Chúng ta sẽ nghe thấy tiếng kêu cứu thầm lặng của con cái trước khi chúng sa ngã. Và quan trọng hơn, khi thấy gia đình mình hay gia đình người khác "hết rượu", chúng ta làm gì? Chúng ta có đem chuyện đó ra để bàn tán, để chê bai không? Hay chúng ta biết kín đáo chạy đến với Chúa, quỳ gối xuống và thầm thĩ: "Lạy Chúa, gia đình con, gia đình họ hết rượu tình yêu rồi"? Học nơi Mẹ là học cách bao bọc sự yếu đuối của người khác bằng sự tế nhị, và tìm cách chữa lành nó bằng quyền năng của Chúa.

Không chỉ trong gia đình, mà còn trong đời sống cộng đoàn và xã hội, sự nhạy bén của trái tim người Mẹ càng trở nên cần thiết. Xung quanh chúng ta có biết bao người đang "hết rượu" của hy vọng, đang sống trong sự cô đơn, nghèo túng và bị bỏ rơi. Có những người già neo đơn mong chờ một lời hỏi thăm, có những người bệnh tật cần một bàn tay nâng đỡ, có những người trẻ đang lạc lối cần một ánh mắt cảm thông thay vì phán xét. Đôi khi chúng ta đi lướt qua họ hằng ngày, nhưng chúng ta không thấy, bởi vì mắt chúng ta dán chặt vào màn hình điện thoại, hay tâm trí chúng ta đang mải toan tính cho lợi ích riêng mình. Chúng ta cần xin Mẹ Maria cho chúng ta mượn đôi mắt của Mẹ, để nhìn thấy Chúa Giêsu đang hiện diện nơi những người bé mọn, để nhận ra sự thiếu thốn của họ mà ra tay giúp đỡ trước khi họ phải ngửa tay xin.

Sự nhạy bén của Lòng Thương Xót còn đòi hỏi chúng ta phải bước ra khỏi vùng an toàn của mình. Mẹ Maria tại Cana có thể đã chọn cách ngồi yên vị như một khách mời danh dự, thưởng thức bữa tiệc và mặc kệ mọi chuyện cho gia chủ lo liệu. Nhưng Mẹ đã "vào cuộc". Sự nhạy bén thật sự luôn dẫn đến hành động. Lòng thương xót không chỉ là một cảm xúc rung động trong tim, mà phải là đôi tay dang rộng và đôi chân lên đường. Mẹ đã đứng lên, đi tìm Chúa, đi tìm gia nhân, và kết nối họ lại với nhau. Người Kitô hữu cũng được mời gọi trở thành những "người trung gian" của ân sủng như thế. Chúng ta không làm được phép lạ, nhưng chúng ta có thể chuẩn bị những "chum nước" là sự hy sinh, là công sức, là lời cầu nguyện, để Chúa biến đổi chúng thành rượu ngon cho đời.

Một khía cạnh sâu sắc khác mà chúng ta cần chiêm nghiệm, đó là vai trò của Mẹ Maria trong việc đưa dẫn đức tin. Tin Mừng kết thúc bằng câu: "Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này... và các môn đệ đã tin vào Người". Nhờ sự can thiệp của Mẹ, vinh quang của Chúa được tỏ hiện và đức tin của các môn đệ được củng cố. Mẹ không bao giờ giữ lại vinh quang cho mình. Khi nước đã hóa rượu, Mẹ lùi vào bóng tối, để Chúa Giêsu và tân lang được tỏa sáng. Sự nhạy bén của Mẹ không nhằm mục đích để Mẹ được khen ngợi là người tài giỏi, tháo vát, mà mục đích cuối cùng là để Chúa được vinh danh và con người được hạnh phúc. Trong các hoạt động tông đồ, bác ái của chúng ta cũng vậy, hãy học nơi Mẹ sự khiêm tốn thẳm sâu này. Hãy làm mọi sự với trái tim nhạy bén của tình yêu, và khi việc tốt đã hoàn thành, hãy âm thầm lùi lại để Chúa được lớn lên trong tâm hồn anh chị em mình.

Trở lại với câu nói của Mẹ: "Họ hết rượu rồi". Có lẽ trong chính cuộc đời mỗi người chúng ta, cũng có những lúc chúng ta cảm thấy mình cạn kiệt. Cạn kiệt sức khỏe, cạn kiệt niềm tin, cạn kiệt nhiệt huyết tông đồ. Những lúc ấy, hãy nhớ rằng chúng ta có một người Mẹ luôn dõi theo. Mẹ thấy hết, Mẹ hiểu hết. Mẹ đang ở bên cạnh tòa Chúa, thì thầm cho tên của từng người trong chúng ta: "Lạy Chúa, con của con đang hết rượu sức mạnh rồi, xin ban thêm sức cho nó". Niềm tin vào sự quan phòng và tình mẫu tử của Mẹ Maria là nguồn an ủi lớn lao nhất cho người tín hữu trên bước đường lữ thứ trần gian. Chúng ta không bao giờ cô độc trong những khó khăn, thử thách của cuộc đời.

Hơn nữa, Mẹ Maria còn dạy chúng ta bài học về sự tin tưởng vào "Giờ của Chúa". Dù Chúa Giêsu nói "Giờ của con chưa đến", nhưng trước đức tin và tình yêu của Mẹ, Ngài đã đôn giờ ấy lên, hay nói đúng hơn, giờ của Chúa đã được thực hiện qua sự cộng tác của con người. Điều này cho thấy sức mạnh của lời cầu nguyện kiên trì và tín thác. Đôi khi chúng ta cầu nguyện mà chưa thấy Chúa nhận lời, chúng ta dễ nản lòng. Nhưng Mẹ dạy chúng ta cứ kiên nhẫn, cứ chuẩn bị "nước", cứ làm theo lời Người dạy, rồi phép lạ sẽ đến theo cách thức và thời điểm mà Chúa muốn, thường là tốt đẹp hơn gấp ngàn lần điều chúng ta mong đợi. Rượu ngon nhất lại là rượu được đãi sau cùng, ân sủng Chúa ban luôn dư tràn và vượt quá sự mong cầu của con người.

Trong xã hội hiện đại, khi chủ nghĩa cá nhân lên ngôi, con người có xu hướng "đèn nhà ai nấy rạng", sự vô cảm đang dần trở thành một căn bệnh đáng sợ. Chúng ta sợ liên lụy, sợ phiền phức nên thường nhắm mắt làm ngơ. Hình ảnh Mẹ Maria tại Cana là liều thuốc giải độc cho căn bệnh vô cảm ấy. Mẹ dạy chúng ta rằng sự thánh thiện không nằm ở việc tách mình ra khỏi thế gian để giữ mình trong sạch, mà là dấn thân vào giữa những lo toan của thế gian để mang lại niềm vui và sự bình an. Một trái tim biết chạnh lòng thương là dấu chỉ rõ nét nhất của một người môn đệ Đức Kitô, và là đứa con thảo của Mẹ Maria.

Kính thưa cộng đoàn, khi chúng ta chiêm ngắm Mẹ Maria – Mẹ của Lòng Thương Xót, chúng ta hãy xin Mẹ uốn nắn trái tim chúng ta nên giống trái tim Mẹ. Xin Mẹ ban cho chúng ta đôi mắt sáng để nhận ra Chúa trong tha nhân, đôi tai thính để nghe được tiếng than van thầm kín của những người đau khổ, và một đôi tay nhanh nhẹn để sẵn sàng phục vụ. Ước gì mỗi người chúng ta, khi trở về gia đình hay môi trường làm việc, đều trở thành những "Maria khác", biết quan sát tinh tế và yêu thương chân thành.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã thấy sự bối rối của đôi tân hôn tại Cana và đã ra tay cứu giúp. Xin Mẹ cũng ghé mắt nhân từ nhìn đến hoàn cảnh của mỗi người, mỗi gia đình trong giáo xứ chúng con hôm nay. Có những gia đình đang thiếu rượu bình an, có những tâm hồn đang khô cạn rượu đức tin. Xin Mẹ hãy nói với Chúa Giêsu về nhu cầu của chúng con, và xin dạy chúng con biết vâng nghe lời Chúa: "Người bảo gì, các con cứ việc làm theo", để cuộc đời tẻ nhạt như nước lã của chúng con được biến đổi thành rượu nồng nàn của ân sủng thánh thiêng.

Nguyện xin Mẹ Maria, Mẹ của Lòng Thương Xót, đồng hành với chúng con trong suốt tháng Hoa này và mọi ngày trong suốt cuộc đời, giúp chúng con luôn sống với một trái tim nhạy bén, đầy ắp tình yêu thương, để làm vinh danh Chúa và đem lại hạnh phúc cho mọi người xung quanh. Amen.

LỜI NGUYỆN TÍN HỮU

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót đã ban cho chúng ta một người Mẹ tuyệt vời là Đức Trinh Nữ Maria. Học nơi Mẹ sự nhạy bén của trái tim trước những nhu cầu của tha nhân, chúng ta hãy cùng dâng lên Chúa những lời nguyện xin tha thiết:

1.          "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo." Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị Mục tử trong Hội Thánh, luôn biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa, đồng thời có trái tim nhạy cảm của người mục tử nhân lành, để nhận ra và xoa dịu những vết thương của đoàn chiên, nhất là những con chiên đang lạc lối và đau khổ.

2.          "Họ hết rượu rồi." Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các nhà lãnh đạo các quốc gia và những người có trách nhiệm trong xã hội. Xin cho họ có cái nhìn thấu suốt về nỗi thống khổ của người nghèo, người bị bỏ rơi, để họ đưa ra những chính sách công bằng và bác ái, mang lại "rượu" của sự ấm no và hạnh phúc cho mọi người dân.

3.          Tháng Năm là tháng dâng kính Mẹ. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các bà mẹ trong giáo xứ và trên toàn thế giới. Xin cho các ngài luôn noi gương Mẹ Maria, sống hy sinh, nhẫn nại và đầy tình mẫu tử, để gia đình luôn là tổ ấm đầy ắp niềm vui và bình an, nơi đức tin được trổ sinh hoa trái.

4.          Cộng đoàn chúng ta đang quy tụ nơi đây. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mỗi người trong cộng đoàn, biết mở rộng tâm hồn để nhận ra những thiếu thốn của anh chị em xung quanh. Xin cho chúng ta biết chạy đến với Mẹ trong mọi gian nan, và sẵn sàng trở thành cánh tay nối dài của Chúa, mang tình thương đến cho những ai đang "cạn rượu" trong cuộc đời.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã làm phép lạ tại Cana qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria để đem lại niềm vui cho con người. Xin thương nhận những lời nguyện


 

Tháng 6: TRÁI TIM CHÚA GIÊSU - ĐẠI DƯƠNG THƯƠNG XÓT

·              Chủ đề: Mời gọi hãy đến và nghỉ ngơi.

·              Tin Mừng: Mát-thêu 11, 28-30 (Tất cả hãy đến với Ta).

·              Định hướng: Tháng Kính Thánh Tâm. LCTX không chỉ là tha thứ, mà còn là chốn nương nương, an ủi cho những tâm hồn gánh nặng lo âu giữa cuộc đời.

MỜI GỌI HÃY ĐẾN VÀ NGHỈ NGƠI

DẪN VÀO THÁNH LỄ

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

Hôm nay, trong bầu khí thiêng liêng của Tháng Sáu – tháng được Giáo hội dành riêng để tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta quy tụ về đây để chiêm ngắm một "Đại Dương Thương Xót" vô tận. Giữa một thế giới đầy biến động, ồn ào và áp lực, tâm hồn con người dường như ngày càng trở nên mệt mỏi và nặng gánh lo âu. Chúng ta chạy đua với thời gian, vật lộn với cơm áo gạo tiền, và đôi khi, gồng mình gánh chịu cả những vết thương tâm hồn không ai hay biết.

Trong bối cảnh ấy, Lời Chúa hôm nay vang lên như một dòng suối mát lành giữa sa mạc khô cằn: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng". Chúa Giêsu không chỉ mời gọi chúng ta đến để xin ơn, mà Ngài mời chúng ta đến để "nghỉ ngơi". Thánh Tâm Ngài không chỉ là nơi ban phát lòng thương xót tha thứ tội lỗi, mà còn là chốn nương náu an toàn, là bến bờ bình yên cho những con thuyền đời đang chao đảo.

Hiệp dâng Thánh lễ này, chúng ta hãy trút bỏ mọi gánh nặng ưu phiền, đặt tất cả vào Trái Tim đầy yêu thương của Chúa. Xin cho mỗi người chúng ta cảm nghiệm được sự nghỉ ngơi đích thực trong Chúa, để rồi từ đó, chúng ta lại tìm thấy sức mạnh bước tiếp trên hành trình đức tin.

Mời cộng đoàn đứng, chúng ta cùng hân hoan bước vào Thánh lễ.

TIN MỪNG

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mát-thêu (Mt 11, 28-30)

Khi ấy, Chúa Giêsu cất tiếng nói rằng: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của tôi thì êm ái, và gánh của tôi thì nhẹ nhàng".

Đó là Lời Chúa.

BÀI GIẢNG

Trong guồng quay không ngừng nghỉ của cuộc sống hiện đại, có một căn bệnh âm thầm nhưng lan rộng, không chừa một ai, từ người giàu sang đến kẻ nghèo hèn, từ bậc trí thức đến người lao động chân tay, đó là sự mệt mỏi. Sự mệt mỏi này không đơn thuần là sự rã rời của cơ bắp sau một ngày lao động, mà là sự kiệt quệ của tâm hồn, sự nặng trĩu của cõi lòng khi phải đối diện với quá nhiều áp lực, kỳ vọng và cả những nỗi đau không tên. Chúng ta sống trong một thời đại mà sự bận rộn được coi là thước đo của thành công, và sự nghỉ ngơi đôi khi bị đánh đồng với sự lười biếng hoặc tụt hậu. Giữa cơn lốc xoáy đó, hình ảnh Trái Tim Chúa Giêsu trong tháng Sáu này hiện lên không phải như một biểu tượng xa vời, mà như một bến đỗ, một lời mời gọi khẩn thiết và dịu dàng nhất mà nhân loại từng được nghe: "Tất cả hãy đến với Ta".

Lời mời gọi ấy không dành riêng cho những người thánh thiện, những người đạo đức hay những người đã hoàn hảo. Chúa Giêsu không nói: "Hỡi những ai đang mạnh mẽ, những ai đang thành công, hãy đến để Ta chúc mừng". Không, Ngài hướng ánh mắt về phía những người đang "vất vả mang gánh nặng nề". Đó là những người đang oằn mình dưới sức nặng của cuộc sống mưu sinh, những người cha người mẹ đang lo lắng cho tương lai con cái, những người trẻ đang hoang mang giữa ngã ba đường sự nghiệp, những bệnh nhân đang chiến đấu với đau đớn thể xác, và cả những tội nhân đang bị lương tâm dày vò. Trong ánh mắt của Chúa Giêsu, không có gánh nặng nào là vô nghĩa, và không có nỗi đau nào bị bỏ rơi. Ngài nhìn thấy tất cả, thấu suốt tất cả, và quan trọng hơn, Ngài muốn chia sẻ tất cả. Khi Ngài nói "Hãy đến cùng tôi", đó là lời mời gọi bước vào một mối tương quan cá vị, nơi mà con người không còn phải đơn độc chiến đấu với số phận của mình nữa.

Tháng Sáu, tháng Kính Thánh Tâm Chúa, là thời điểm Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm "Đại dương Thương Xót". Lòng Thương Xót Chúa thường được chúng ta hiểu chủ yếu qua khía cạnh tha thứ tội lỗi. Điều đó đúng, nhưng chưa đủ. Lòng Thương Xót, xuất phát từ Thánh Tâm Chúa Giêsu, còn mang một chiều kích khác, sâu lắng và gần gũi hơn: đó là sự thấu cảm và nâng đỡ. Trái Tim Chúa không chỉ là tòa án của lòng bao dung xóa bỏ án phạt, mà còn là "chốn nương nương", là mái nhà, là chiếc gối êm ái cho những đầu óc đang căng thẳng. Hãy tưởng tượng về một người đi bộ đường dài giữa sa mạc nắng cháy, Lòng Thương Xót Chúa chính là bóng râm của cây đại thụ và dòng nước mát. Người ấy không cần phải làm gì cả, chỉ cần bước vào bóng râm đó, thả lỏng cơ thể và đón nhận sự che chở. Đó chính là ý nghĩa của việc "đến và nghỉ ngơi" trong Thánh Tâm Chúa.

Nhưng tại sao chúng ta lại mệt mỏi đến thế? Phải chăng vì gánh nặng cơm áo gạo tiền? Chắc chắn là có. Nhưng nếu nhìn sâu vào tâm hồn, chúng ta sẽ thấy có những gánh nặng khác còn nặng nề hơn nhiều. Đó là gánh nặng của sự kiêu ngạo, gánh nặng của tham vọng muốn kiểm soát mọi thứ, gánh nặng của sự so sánh mình với người khác, và gánh nặng của việc không thể tha thứ cho chính mình. Chúng ta mệt mỏi vì chúng ta cứ cố gắng tự mình vác lấy tất cả, chúng ta muốn chứng tỏ mình mạnh mẽ, mình tự chủ. Chúng ta sợ sự yếu đuối, sợ phải nhờ vả. Và chính trong sự "tự lực" đầy kiêu hãnh đó, chúng ta kiệt sức. Chúa Giêsu thấu hiểu điều này sâu sắc, nên Ngài đưa ra một phương thuốc, một bí quyết để được nghỉ ngơi thực sự: "Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường".

Thật lạ lùng! Đang khi chúng ta mệt mỏi, Chúa không bảo chúng ta vứt bỏ mọi thứ để đi ngủ, mà Ngài bảo hãy "học". Học sự hiền hậu và khiêm nhường. Tại sao sự khiêm nhường lại liên quan đến việc nghỉ ngơi? Bởi vì người khiêm nhường là người biết giới hạn của mình. Người khiêm nhường biết mình không phải là Thiên Chúa, không thể giải quyết mọi vấn đề của thế gian, và do đó, họ biết buông bỏ những lo lắng vượt quá tầm tay để phó thác cho Chúa. Sự kiêu ngạo làm chúng ta căng thẳng vì chúng ta luôn phải gồng mình giữ gìn hình ảnh, nhưng sự khiêm nhường giúp chúng ta thư giãn vì chúng ta chấp nhận con người thật của mình trước mặt Chúa. Khi học được bài học từ Trái Tim khiêm nhường của Chúa, chúng ta sẽ thấy gánh nặng của sự sĩ diện, của lòng đố kỵ, của sự tham lam rơi xuống, và tâm hồn chúng ta bắt đầu tìm thấy sự bình an.

Hơn thế nữa, Chúa Giêsu đưa ra một nghịch lý: "Hãy mang lấy ách của tôi". Trong văn hóa nông nghiệp thời Chúa Giêsu, cái ách là dụng cụ bằng gỗ đặt lên vai bò để kéo cày. Ách là biểu tượng của sự nô dịch, của sự vất vả và ràng buộc. Người đang mệt mỏi cần sự tự do, tại sao Chúa lại trao thêm một cái ách? Bí mật nằm ở chỗ: "Ách của tôi thì êm ái, và gánh của tôi thì nhẹ nhàng". Cái ách của Chúa Giêsu không được làm bằng gỗ cứng của luật lệ hà khắc hay sự trừng phạt, mà được đẽo gọt bằng tình yêu. Khi chúng ta mang ách của Chúa, nghĩa là chúng ta chấp nhận đi cùng một nhịp bước với Ngài, cùng nhìn về một hướng với Ngài. Hình ảnh hai con bò cùng mang một cái ách gợi lên sự chia sẻ: con này gánh đỡ cho con kia. Khi Chúa mời chúng ta mang ách của Ngài, thực ra là Ngài đang ghé vai vào gánh vác cuộc đời của chúng ta. Chúng ta không còn vác gánh nặng một mình, mà có Chúa vác cùng. Gánh nặng có thể vẫn còn đó – bệnh tật vẫn còn, khó khăn kinh tế vẫn còn – nhưng sức nặng đã thay đổi, vì giờ đây, Đấng vác chính là Thiên Chúa, và phần chúng ta chỉ là bước đi nhẹ nhàng bên cạnh Ngài.

Trái Tim Chúa Giêsu là nơi hội tụ của mọi nỗi đau khổ nhân loại và cũng là lò lửa của tình yêu thần linh. Khi chiêm ngắm Thánh Tâm Chúa, chúng ta thấy một trái tim bị đâm thâu, bị vòng gai quấn quanh. Điều đó nhắc nhở chúng ta rằng, Chúa Giêsu không phải là một vị thần dửng dưng ngồi trên toà cao nhìn xuống nỗi khổ của con người. Ngài đã xuống thế, đã mang lấy xác phàm, đã trải qua sự mệt mỏi của những hành trình rao giảng, sự thất vọng khi bị môn đệ phản bội, nỗi đau đớn tột cùng trên thập giá. Ngài hiểu "gánh nặng" là gì theo nghĩa đen và nghĩa bóng. Vì thế, lời mời gọi "Hãy đến cùng Ta" là lời của một người bạn đồng cảm, một người đã từng đi qua thung lũng tối tăm và biết đường dẫn đến ánh sáng. Ngài không chỉ ban ơn, Ngài ban chính sự hiện diện của Ngài. Sự nghỉ ngơi trong Chúa không phải là sự trốn tránh trách nhiệm hay sự lãng quên thực tại, mà là tìm lại được nguồn sức mạnh nội tâm để quay trở lại đối diện với thực tại bằng một tâm thế mới – tâm thế của sự bình an và tin tưởng.

Hãy nhìn vào thực tế đời sống đức tin của chúng ta. Nhiều khi chúng ta đến nhà thờ, đọc kinh, dâng lễ nhưng lòng vẫn nặng trĩu. Phải chăng vì chúng ta chưa thực sự "đến với Chúa" mà chỉ đến với một nghi thức? Chúng ta mang gánh nặng lo âu vào nhà thờ, rồi lại mang nguyên vẹn gánh nặng ấy ra về, thậm chí còn nặng hơn vì thêm nỗi lo "chưa đọc đủ kinh, chưa làm đủ việc đạo đức". Chúa không muốn tôn giáo trở thành một gánh nặng thêm vào đôi vai vốn đã trĩu nặng của chúng ta. Ngài muốn mối tương quan với Ngài là nguồn suối giải khát. Đến với Thánh Tâm Chúa là để được yêu thương, để được Ngài ôm lấy những vụn vỡ của tâm hồn. Trong bí tích Thánh Thể, nơi nhà chầu thầm lặng, Trái Tim Chúa vẫn đang đập những nhịp đập chờ đợi. Đó là nơi nghỉ ngơi tuyệt hảo nhất. Chỉ cần dăm ba phút thinh lặng trước Thánh Thể, trút bỏ mọi mặt nạ, mọi phòng vệ, thầm thĩ với Chúa: "Lạy Chúa, con mệt quá, xin Chúa hãy lo liệu cho con", chúng ta sẽ thấy một luồng sức mạnh vô hình tuôn đổ vào tâm hồn. Đó là sự nghỉ ngơi trong Đại Dương Thương Xót.

Đại dương ấy mênh mông vô tận. Những con sóng của đời đời xô đẩy chúng ta vào bờ bến của lo âu, nhưng Đại dương Thương Xót của Chúa lại cuốn chúng ta ra khơi vào sự bình an sâu thẳm. Ở đó, tội lỗi được nhấn chìm, sự sợ hãi bị tan biến. Chúng ta cần xác tín rằng, lòng thương xót của Chúa lớn hơn mọi gánh nặng của chúng ta. Không có gì làm Chúa mệt mỏi khi phải tha thứ cho chúng ta, chỉ có chúng ta mệt mỏi khi cầu xin sự tha thứ của Ngài mà thôi. Thánh Tâm Chúa là chốn nương náu cho những tâm hồn lầm lạc tìm đường về, là bệnh viện cho những tâm hồn thương tích, là mái ấm cho những kẻ cô đơn. Đừng để mặc cảm tội lỗi ngăn cản chúng ta đến với sự nghỉ ngơi này. Ma quỷ thường thì thầm vào tai chúng ta rằng: "Ngươi quá dơ bẩn, ngươi không xứng đáng được nghỉ ngơi bên Chúa". Nhưng tiếng Chúa lại vang lên: "Hỡi ai vất vả... hãy đến". Ngài gọi "tất cả", không loại trừ một ai.

Nghỉ ngơi trong Chúa còn mang một ý nghĩa nữa, đó là sự tái tạo để hiến thân. Khi chúng ta đã được nạp đầy năng lượng từ Trái Tim Chúa, chúng ta không giữ sự bình an đó cho riêng mình. Chúng ta được mời gọi trở thành cánh tay nối dài của Thánh Tâm Chúa, trở thành "chốn nghỉ ngơi" cho anh chị em mình. Xung quanh chúng ta có biết bao người đang kiệt sức: người vợ cần sự chia sẻ của người chồng, người con cần sự thấu hiểu của cha mẹ, người đồng nghiệp cần một lời động viên, người nghèo khổ cần một bàn tay giúp đỡ. Nếu chúng ta đã nếm cảm sự ngọt ngào của ách Chúa, chúng ta cũng hãy làm cho ách của người khác trở nên nhẹ nhàng hơn bằng sự hiền hậu và khiêm nhường của mình. Một nụ cười, một sự lắng nghe, một cử chỉ tha thứ – tất cả đều có thể là "nơi nghỉ ngơi" mà chúng ta mang đến cho tha nhân, phản chiếu lại tình yêu của Thánh Tâm Chúa.

Trong tháng Sáu này, mỗi khi nhìn lên ảnh tượng Thánh Tâm Chúa Giêsu, với ngọn lửa tình yêu bùng cháy và vết thương rỉ máu, chúng ta hãy nhớ rằng đó là bằng chứng của một tình yêu đã đi đến cùng. Tình yêu ấy không đòi hỏi chúng ta phải làm những điều vĩ đại, phi thường. Tình yêu ấy chỉ xin chúng ta một điều: Hãy tin tưởng và phó thác. Hãy cho phép Chúa được yêu thương chúng ta. Hãy cho phép Chúa được gánh vác cùng chúng ta. Sự thánh thiện không nằm ở việc chúng ta gồng mình chịu đựng đau khổ một mình, mà nằm ở việc chúng ta biết chạy đến nép mình vào ngực Chúa như thánh Gioan Tông đồ trong bữa tiệc ly, để nghe nhịp đập của Trái Tim Ngài, và để tìm thấy sự bình yên giữa giông tố cuộc đời.

Cuộc đời là một chuyến hành trình dài, và ai trong chúng ta cũng là những lữ khách bụi đường đầy mệt nhọc. Có những lúc đôi chân muốn quỵ ngã, có những lúc đức tin bị chao đảo bởi những thử thách khắc nghiệt. Những lúc ấy, xin hãy nhớ lại lời mời gọi tha thiết hôm nay: "Tất cả hãy đến với Ta". Đừng tìm sự nghỉ ngơi nơi rượu chè, nơi những thú vui chóng qua, hay nơi sự trả thù, oán giận. Những thứ đó chỉ là liều thuốc giảm đau tạm thời và để lại những tác dụng phụ đau đớn hơn. Chỉ có trong Thiên Chúa, tâm hồn chúng ta mới được nghỉ ngơi yên hàn, như Thánh Augustinô đã từng thốt lên sau bao năm tháng kiếm tìm lạc lối: "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, và tâm hồn con mãi khắc khoải khôn nguôi cho tới khi được nghỉ yên trong Chúa".

Xin Thánh Tâm Chúa Giêsu, Đại Dương của Lòng Thương Xót, rửa sạch mọi bụi bặm trần gian đang bám trên linh hồn chúng ta. Xin dòng nước từ cạnh sườn Chúa tưới mát những tâm hồn khô cằn, xoa dịu những vết thương đang rỉ máu. Và xin cho mỗi người chúng ta, sau khi đã được nghỉ ngơi bồi dưỡng nơi Bàn tiệc Lời Chúa và Bàn tiệc Thánh Thể hôm nay, sẽ trở nên những sứ giả của bình an, mang sự dịu dàng của Chúa đến cho một thế giới đang quá đỗi mệt mỏi và thiếu vắng tình thương. Chúng ta hãy phó thác mọi lo toan cho Chúa, hãy nhắm mắt lại trong đức tin và thầm thì: "Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa. Xin hãy là chốn nghỉ ngơi của con hôm nay và mãi mãi". Amen.

LỜI NGUYỆN TÍN HỮU

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu có Trái Tim hiền hậu và khiêm nhường, luôn mở rộng để đón nhận tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề. Với tâm tình tin tưởng và phó thác vào Đại Dương Thương Xót của Ngài, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin:

1.          "Hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi." Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị Mục tử trong Hội Thánh, đặc biệt là Đức Giáo Hoàng và các Giám mục, Linh mục. Xin cho các ngài luôn kín múc được nguồn sức mạnh từ Thánh Tâm Chúa, để giữa bao áp lực của sứ vụ, các ngài vẫn luôn giữ được sự hiền hậu, khiêm nhường, trở thành hình ảnh sống động của Chúa Giêsu - vị Mục Tử nhân lành cho đoàn chiên.

2.          "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi." Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang đau khổ về thể xác cũng như tinh thần, những người đang thất nghiệp, nợ nần, những gia đình đang rạn nứt và những ai đang tuyệt vọng. Xin cho họ tìm thấy nơi Thánh Tâm Chúa sự ủi an đích thực, và gặp được những tấm lòng hảo tâm biết chia sẻ gánh nặng với họ trong cuộc sống hằng ngày.

3.          "Vì ách của tôi thì êm ái, và gánh của tôi thì nhẹ nhàng." Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu đang sống trong một thế giới đầy cám dỗ và thử thách. Xin cho họ biết khôn ngoan chọn lựa ách của Chúa – là giới răn yêu thương – thay vì chọn ách của thế gian là danh vọng và khoái lạc, để tâm hồn họ luôn tìm được sự thanh thản và bình an sâu thẳm.

4.          "Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng." Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta, đặc biệt trong tháng kính Thánh Tâm này. Xin cho mỗi người biết siêng năng chạy đến với Bí tích Thánh Thể và Hòa Giải, để được Chúa chữa lành và bồi dưỡng; đồng thời biết trở nên khí cụ bình an, mang tình thương của Chúa đến xoa dịu những nỗi đau của anh chị em xung quanh.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa là nguồn mạch mọi sự an ủi và là chốn nghỉ ngơi vĩnh cửu. Xin thương nhận những lời nguyện cầu chúng con dâng lên, và xin uốn nắn trái tim chúng con nên giống Trái Tim Chúa, để chúng con biết yêu thương và gánh vác cho nhau trên đường lữ thứ trần gian. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

Cộng đoàn: Amen.


 

Tháng 7: LÒNG TÍN THÁC - CHÌA KHÓA MỞ CỬA LÒNG THƯƠNG XÓT

·              Chủ đề: "Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa".

·              Tin Mừng: Mát-thêu 14, 22-33 (Phêrô đi trên mặt nước).

·              Định hướng: Khi sóng gió cuộc đời nổi lên, LCTX nâng đỡ chúng ta, miễn là chúng ta dám tin tưởng nắm lấy tay Ngài thay vì nhìn vào bão tố.

CHỦ ĐỀ BÀI GIẢNG: "LẠY CHÚA GIÊSU, CON TÍN THÁC VÀO CHÚA"

DẪN VÀO THÁNH LỄ

Hôm nay, trong bầu khí linh thiêng của những ngày tháng Bảy, chúng ta quy tụ về đây để cùng nhau chiêm ngắm và tôn vinh Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa. Chủ đề suy niệm của chúng ta trong tháng này là "Lòng Tín Thác - Chìa khóa mở cửa Lòng Thương Xót". Giữa muôn vàn sóng gió của cuộc đời, giữa những bão tố của lo âu và sợ hãi, lời mời gọi "tín thác" vang lên như một chiếc neo chắc chắn giữ cho con thuyền tâm hồn chúng ta được bình an.

Bài Tin Mừng mà chúng ta sắp lắng nghe thuật lại biến cố thánh Phêrô đi trên mặt nước. Hình ảnh Phêrô chới với giữa biển khơi dậy sóng chính là hình ảnh của mỗi người chúng ta trong hành trình đức tin. Có những lúc chúng ta can đảm bước đi, nhưng cũng có những khi chúng ta sợ hãi và chìm xuống. Nhưng chính trong khoảnh khắc chới với ấy, bàn tay uy quyền và đầy yêu thương của Chúa Giêsu luôn sẵn sàng đưa ra để nắm lấy chúng ta, miễn là chúng ta biết thốt lên lời kêu cầu: "Lạy Chúa, xin cứu con", và xác tín rằng: "Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa".

Hiệp dâng Thánh lễ này, chúng ta hãy dâng lên Chúa những gánh nặng, những bế tắc và những nỗi sợ hãi đang đè nặng tâm hồn. Xin cho chúng ta cảm nghiệm được sức mạnh của sự tín thác, để dù hoàn cảnh có tăm tối đến đâu, chúng ta vẫn luôn nhìn thấy ánh sáng từ Lòng Thương Xót Chúa. Giờ đây, với tâm tình sám hối và cậy trông, chúng ta hãy cùng bước vào Thánh lễ.

TIN MỪNG: Mát-thêu 14, 22-33

Khi ấy, Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình. Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió. Vào khoảng canh tư, Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: "Ma đấy!", và sợ hãi la lên. Đức Giêsu liền bảo các ông: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!" Ông Phêrô liền thưa với Người: "Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài." Đức Giêsu bảo: "Cứ đến!" Ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với!" Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: "Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?" Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: "Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!"

BÀI GIẢNG

Cuộc đời của mỗi con người chúng ta, xét cho cùng, giống như một chuyến hải hành. Có những ngày biển êm gió lặng, bầu trời trong xanh, con thuyền đời ta lướt nhẹ êm đềm. Nhưng cũng có những đêm đen kịt, gió rít gào, sóng biển cuộn trào, và chúng ta cảm thấy mình nhỏ bé, mong manh đến tội nghiệp trước sức mạnh hủy diệt của thiên nhiên, hay nói đúng hơn, là trước những biến cố nghiệt ngã của số phận. Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta bước lên con thuyền của các môn đệ, cùng các ông trải nghiệm một đêm kinh hoàng trên biển hồ Galilê, để rồi từ đó, chúng ta học được bài học quý giá nhất về Lòng Tín Thác – chiếc chìa khóa vàng mở ra cánh cửa Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.

Hãy hình dung khung cảnh ấy. Đó là khoảng canh tư, tức là lúc trời gần sáng, nhưng lại là thời điểm bóng tối dày đặc nhất và cái lạnh thấu xương nhất. Các môn đệ đang ở giữa biển khơi, con thuyền của họ "bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió". Họ là những ngư phủ lành nghề, quen thuộc với sóng nước, nhưng đêm nay, sự quen thuộc ấy dường như vô dụng. Sức người có hạn trước sức mạnh vô song của bão tố. Nỗi sợ hãi bắt đầu len lỏi, không chỉ là nỗi sợ về thể xác, về cái chết đang rình rập, mà còn là sự hoang mang về tinh thần. Chúa Giêsu đâu rồi? Tại sao Ngài lại bắt các ông xuống thuyền đi trước để rồi một mình các ông phải vật lộn với tử thần? Sự vắng mặt của Chúa trong lúc nguy khốn nhất thường là thử thách lớn nhất đối với đức tin của chúng ta. Chúng ta cũng thường tự hỏi như thế khi đối diện với căn bệnh nan y, với sự đổ vỡ trong gia đình, hay sự thất bại ê chề trong sự nghiệp: "Chúa ơi, Chúa ở đâu khi con đau khổ?"

Và rồi, giữa màn đêm mịt mùng ấy, Chúa Giêsu xuất hiện. Ngài đi trên mặt biển. Một hình ảnh vừa uy nghi vừa đáng sợ. Uy nghi vì Ngài chế ngự được sức mạnh của thiên nhiên, đạp lên sóng dữ như đi trên đất bằng. Nhưng đáng sợ vì trong tâm trí hoảng loạn của các môn đệ, họ nghĩ đó là "ma". Nỗi sợ hãi làm méo mó cái nhìn của con người. Khi tâm hồn chúng ta đầy ắp sự lo âu, chúng ta dễ dàng nhìn Thiên Chúa như một bóng ma, một sự đe dọa, hoặc một đấng xa lạ nào đó chứ không phải là người Cha nhân lành. Chúng ta la lên trong tuyệt vọng thay vì cầu nguyện trong tin yêu. Tiếng la thất thanh của các môn đệ hòa lẫn với tiếng gió gào thét tạo nên một bản giao hưởng của sự hỗn loạn.

Nhưng ngay lúc ấy, một giọng nói quen thuộc vang lên, cắt ngang sự sợ hãi: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!" Lời nói ấy không làm cho sóng gió ngừng ngay lập tức, nhưng nó mang lại một sự bình an nền tảng cho tâm hồn. Sự hiện diện của Chúa quan trọng hơn là việc sóng gió có ngừng hay không. Và ở đây, chúng ta thấy xuất hiện một nhân vật đại diện cho tất cả chúng ta với đầy đủ những cung bậc cảm xúc của kiếp người: Thánh Phêrô.

Phêrô, với tính cách bộc trực và đầy nhiệt huyết, đã đưa ra một lời đề nghị táo bạo, thậm chí có phần liều lĩnh: "Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài." Đây là một lời cầu xin lạ lùng. Ông không xin Chúa dẹp yên sóng gió ngay lập tức, ông cũng không xin Chúa lên thuyền ngay để mọi sự được an toàn. Ông xin được làm điều không thể: đi trên mặt nước. Trong thẳm sâu, Phêrô muốn chứng nghiệm quyền năng của Chúa và muốn chia sẻ quyền năng ấy. Ông muốn đến với Chúa, bất chấp khoảng cách là mặt biển đang gầm thét. Đây là hình ảnh tuyệt đẹp của lòng khao khát Thiên Chúa, muốn vượt qua mọi rào cản tự nhiên để chạm đến Siêu Nhiên.

Chúa Giêsu đáp lại ngắn gọn: "Cứ đến!" Một lời mời gọi, một mệnh lệnh, và cũng là một sự trao ban quyền năng. Phêrô bước ra khỏi thuyền. Hành động này mang tính biểu tượng rất cao. Con thuyền tượng trưng cho sự an toàn, cho những gì con người có thể kiểm soát, là nơi trú ẩn của lý trí và kinh nghiệm. Bước ra khỏi thuyền là bước vào vùng mạo hiểm, vùng của đức tin, nơi mà lý trí không còn chỗ dựa, chỉ còn lại sự tín thác hoàn toàn vào Lời của Chúa. Và phép lạ đã xảy ra: Phêrô đi trên mặt nước. Chừng nào mắt ông còn dán chặt vào Chúa Giêsu, chừng đó sóng nước dưới chân ông trở nên vững chãi như đá tảng. Đức tin làm cho điều không thể trở thành có thể. Sự tín thác là chiếc cầu nối liền sự yếu đuối của con người với quyền năng vô biên của Thiên Chúa.

Thế nhưng, câu chuyện không dừng lại ở đó. Tin Mừng kể tiếp: "Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên." Tại sao Phêrô chìm? Có phải vì sóng bỗng nhiên to hơn? Có phải vì gió bỗng nhiên mạnh hơn? Không, sóng gió vẫn thế. Điều thay đổi không phải là hoàn cảnh bên ngoài, mà là sự tập trung bên trong của Phêrô. Ông chìm vì ông đã dời ánh mắt khỏi Chúa Giêsu để nhìn vào cơn gió. Ông chìm vì ông bắt đầu toan tính bằng lý trí của con người: "Làm sao mình có thể đi trên nước được? Gió to thế này thì chết mất!". Khi nỗi sợ hãi chiếm chỗ của đức tin, trọng lực của tự nhiên – sức nặng của tội lỗi và sự yếu đuối – lập tức kéo ông xuống.

Kính thưa cộng đoàn, đây chính là bài học xương máu cho mỗi người chúng ta. Chúng ta chìm đắm trong đau khổ, trong tuyệt vọng, không phải vì gánh nặng cuộc đời quá lớn, mà vì chúng ta đã thôi nhìn vào Chúa. Chúng ta mải mê nhìn vào "cơn gió" của nợ nần, nhìn vào "con sóng" của bệnh tật, nhìn vào "bão tố" của những lời thị phi, chỉ trích. Chúng ta phân tích khó khăn, chúng ta đong đếm rủi ro, và càng nhìn vào khó khăn, chúng ta càng thấy mình nhỏ bé và bất lực. Quy luật của tâm linh rất rõ ràng: Bạn nhìn vào cái gì, cái đó sẽ chi phối bạn. Nhìn vào bão tố, bão tố sẽ nhấn chìm bạn. Nhìn vào Chúa Giêsu, Chúa Giêsu sẽ nâng đỡ bạn.

Sự tín thác không phải là một liều thuốc an thần khiến chúng ta quên đi thực tại phũ phàng. Tín thác cũng không có nghĩa là ngồi chờ sung rụng, không làm gì cả. Tín thác là một thái độ sống, một chọn lựa dứt khoát của ý chí. Tín thác là dám buông tay khỏi những điểm tựa trần gian để nắm lấy bàn tay vô hình của Thiên Chúa. Như thánh nữ Faustina đã cảm nghiệm và viết trong Nhật ký: "Càng khốn khó, con càng phải tín thác". Nghịch lý của đức tin là ở chỗ đó: khi mọi sự dường như sụp đổ, khi lý trí bảo rằng "hết cách rồi", thì đó lại là lúc đức tin phải lên tiếng mạnh mẽ nhất: "Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa".

Khi Phêrô bắt đầu chìm, phản xạ sinh tồn của ông đã bật ra một lời cầu nguyện ngắn gọn nhưng khẩn thiết nhất trong Tin Mừng: "Thưa Ngài, xin cứu con với!" Một tiếng kêu xé lòng. Không còn vẻ hiên ngang của lúc mới bước xuống thuyền, chỉ còn lại sự trần trụi của một thụ tạo đang đối diện với cái chết. Và phản ứng của Chúa Giêsu thật tuyệt vời: "Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông". Ngài không đợi Phêrô chìm hẳn rồi mới vớt. Ngài không đứng trên mặt nước để giảng giải luân lý hay trách móc: "Tại sao con kém cỏi thế?". Không, hành động đầu tiên của Lòng Thương Xót là cứu vớt. Cứu trước, dạy dỗ sau. Bàn tay Chúa nắm lấy bàn tay chới với của Phêrô là hình ảnh đẹp nhất về sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi kẻ chạy đến cùng Ngài, dù đức tin của kẻ ấy có mong manh như sợi chỉ.

Chúa Giêsu trách nhẹ Phêrô: "Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?". Lời trách này không mang vị chua chát của sự ruồng bỏ, mà là nỗi niềm xót xa của một người Thầy, người Cha. Ngài xót xa vì Phêrô đã tự làm khổ mình bằng sự hoài nghi. Hoài nghi là kẻ thù của bình an. Hoài nghi giống như một vết nứt trên con đê, ban đầu chỉ nhỏ thôi, nhưng nếu áp lực nước đủ lớn, nó sẽ phá vỡ cả con đê vững chãi. Sự tín thác trọn vẹn không chấp nhận sự hoài nghi. Tín thác là trao phó hoàn toàn, là ký một tấm séc trắng cho Thiên Chúa và để Ngài điền vào đó bất cứ con số nào Ngài muốn, bất cứ cách giải quyết nào Ngài chọn.

Tháng Bảy này, Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm Lòng Chúa Thương Xót với trọng tâm là sự tín thác. Tại sao tín thác lại là chìa khóa mở cửa Lòng Thương Xót? Thưa, vì Lòng Thương Xót của Chúa như một đại dương bao la, nhưng bình chứa của chúng ta lại là sự tín thác. Thánh nữ Faustina đã được Chúa dạy rằng: "Lòng Thương Xót của Ta không muốn gì hơn là được các linh hồn tin tưởng. Càng tin tưởng nhiều, càng nhận được nhiều". Nếu chúng ta mang đến biển cả một cái muỗng, chúng ta chỉ múc được một muỗng nước. Nếu chúng ta mang đến một cái xô, chúng ta múc được một xô. Nhưng nếu chúng ta mang đến một sự tín thác vô hạn, như dòng sông hòa vào biển cả, thì chúng ta sẽ được ngụp lặn trong ân sủng vô tận của Ngài.

Nhìn lại cuộc sống của chúng ta hôm nay, có quá nhiều "cơn gió ngược" đang thổi. Có những người đang đối diện với cơn bão kinh tế, nợ nần chồng chất, công việc bấp bênh, tương lai mờ mịt. Có những gia đình đang chao đảo trong cơn sóng dữ của sự bất hòa, ly tán, con cái hư hỏng, vợ chồng lạnh nhạt. Có những tâm hồn đang chìm dần trong vũng lầy của tội lỗi, của nghiện ngập, của mặc cảm không lối thoát. Và cũng có những người đang âm thầm chịu đựng cơn bão của bệnh tật, từng ngày từng giờ bị cơn đau thể xác giằng xé.

Trong những hoàn cảnh bi đát ấy, lời mời gọi của Chúa Giêsu hôm nay vẫn vang lên: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!". Chúa đang ở đó, ngay trong cơn bão của bạn, chứ không phải Ngài đang ngồi trên bờ quan sát. Ngài đang đi trên chính những con sóng đang định nuốt chửng bạn. Ngài muốn bạn làm một điều duy nhất: Hãy nắm lấy tay Ngài. Đừng nhìn vào hóa đơn nợ nần nữa, hãy nhìn vào Chúa Quan Phòng. Đừng nhìn vào tờ giấy xét nghiệm ung thư với nỗi tuyệt vọng, hãy nhìn vào Chúa Giêsu, Đấng Chữa Lành. Đừng nhìn vào quá khứ tội lỗi đen tối, hãy nhìn vào Ánh Sáng Phục Sinh.

"Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa" – Đó không phải là câu thần chú để mọi khó khăn biến mất ngay tức khắc. Đó là lời tuyên xưng để thay đổi thái độ của chúng ta trước khó khăn. Khi chúng ta tín thác, bão tố có thể vẫn còn đó, nhưng nó không còn sức mạnh để nhấn chìm chúng ta nữa, bởi vì chúng ta đã được neo vào Chúa. Khi Phêrô nắm tay Chúa và cùng Ngài bước lên thuyền, "gió lặng ngay". Sự bình an đích thực chỉ đến khi có Chúa hiện diện trong "con thuyền" cuộc đời, "con thuyền" gia đình chúng ta.

Chúng ta hãy tự hỏi mình: Đâu là điểm tựa của tôi lúc này? Tiền bạc? Quyền lực? Các mối quan hệ? Hay Lòng Thương Xót Chúa? Tất cả những điểm tựa trần gian đều có thể sụp đổ khi bão lớn ập đến, chỉ có cánh tay của Chúa là vĩnh cửu. Thánh Phêrô đã trải nghiệm sự thất bại của sự tự tin thái quá và sự chiến thắng của lời cầu xin khiêm hạ. Chúng ta cũng hãy bắt chước ngài. Đừng sợ thú nhận sự yếu đuối của mình. Đừng sợ kêu lên "Chúa ơi, cứu con!". Lòng Thương Xót Chúa bị thu hút bởi sự khốn cùng của con người. Chúng ta càng yếu đuối, chúng ta càng có tư cách để đón nhận Lòng Thương Xót, miễn là chúng ta khiêm tốn tín thác.

Có một câu chuyện kể rằng, khi một cô bé đi máy bay và gặp vùng nhiễu động mạnh, máy bay rung lắc dữ dội. Mọi người xung quanh la hét, hoảng loạn, bám chặt vào ghế. Nhưng cô bé vẫn thản nhiên tô màu bức tranh của mình. Khi máy bay hạ cánh an toàn, một hành khách hỏi: "Cháu không sợ sao?". Cô bé mỉm cười trả lời: "Dạ không, vì ba cháu là phi công đang lái chuyến bay này".

Kính thưa cộng đoàn, Cha của chúng ta là Đấng tạo dựng nên cả vũ trụ, là Đấng ra lệnh cho gió và biển phải tuân theo. Vậy tại sao chúng ta lại sợ hãi khi Ngài đang "cầm lái" cuộc đời chúng ta? Sự sợ hãi là dấu chỉ của việc chúng ta quên mất ai đang là Cha mình. Sự tín thác là phục hồi lại ký ức thiêng liêng đó. Chúng ta là con của Đấng Toàn Năng và Giàu Lòng Thương Xót.

Ước gì trong những ngày tháng Bảy này, mỗi khi chúng ta nhìn lên ảnh Lòng Chúa Thương Xót, thấy Chúa Giêsu đang bước đi, một tay giơ lên ban phép lành, một tay vạch ra trái tim phát xuất hai luồng sáng Đỏ và Trắng, chúng ta hãy nhớ lại hình ảnh Ngài đi trên mặt biển đến với các môn đệ. Ngài đang đến với chúng ta, xuyên qua mọi rào cản, xuyên qua mọi lo âu. Hãy tập thói quen thầm thĩ lời nguyện tắt này hàng trăm lần mỗi ngày, nhất là khi lòng bất an: "Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa". Hãy để lời kinh ấy trở thành nhịp thở, thành nhịp đập của trái tim.

Xin Chúa ban cho chúng ta đôi mắt đức tin của Phêrô khi ông nhìn thấy Chúa, xin ban cho chúng ta sự can đảm để bước ra khỏi vùng an toàn của sự ích kỷ và lo âu, và nhất là, xin ban cho chúng ta sự khôn ngoan để biết nắm chặt lấy bàn tay Chúa mỗi khi sắp chìm. Vì chỉ khi nắm lấy tay Ngài, chúng ta mới hiểu được rằng: Sóng gió cuộc đời không phải để nhấn chìm chúng ta, mà là để nâng chúng ta lên cao hơn, gần Chúa hơn, trong vòng tay của Lòng Thương Xót. Amen.

LỜI NGUYỆN TÍN HỮU

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Đấng luôn hiện diện để nâng đỡ và cứu vớt chúng ta giữa những sóng gió của cuộc đời. Với tâm tình tin tưởng và phó thác, chúng ta cùng dâng lên Ngài những lời nguyện xin tha thiết:

1.          "Đức Giêsu liền bảo các ông: Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!" - Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Đức Giáo Hoàng, các Giám mục và Linh mục. Xin cho các ngài luôn vững tin vào sự hiện diện của Chúa giữa những thách đố của thời đại, để trở thành những ngọn hải đăng đem lại bình an và niềm hy vọng cho đoàn chiên đang hoang mang giữa biển đời.

2.          "Thưa Ngài, xin cứu con với!" - Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang đau khổ vì chiến tranh, thiên tai, bệnh tật và nghèo đói. Xin Lòng Thương Xót Chúa, qua bàn tay chia sẻ của cộng đoàn nhân loại, nâng đỡ và giải thoát họ khỏi những cơn sóng dữ của tuyệt vọng, để họ cảm nhận được tình yêu Chúa vẫn luôn bao bọc chở che.

3.          "Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?" - Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người đang gặp khủng hoảng về đức tin, những ai đang chìm đắm trong sự hoài nghi và chán nản. Xin ánh sáng Lòng Thương Xót Chúa chiếu soi tâm hồn họ, giúp họ nhận ra Chúa là điểm tựa vững chắc duy nhất, để họ can đảm nắm lấy tay Ngài và tìm lại được sự bình an.

4.          "Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa" - Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta, đặc biệt trong tháng kính Lòng Chúa Thương Xót này. Xin cho mỗi người chúng ta biết biến những khó khăn, thử thách trong cuộc sống thành cơ hội để thực thi lòng tín thác, luôn biết chạy đến với Chúa và phó thác trọn vẹn cuộc đời mình trong vòng tay yêu thương của Ngài.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa là bến đỗ bình an cho tâm hồn chúng con. Xin thương nhận những ước nguyện chúng con vừa dâng lên. Xin gia tăng đức tin còn yếu kém của chúng con, để dù giữa phong ba bão táp, chúng con vẫn luôn vững tin vào tình thương cứu độ của Chúa, và hân hoan loan truyền danh Chúa cho mọi người. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

Cộng đoàn: Amen.


 

Tháng 8: LÒNG THƯƠNG XÓT NUÔI DƯỠNG SỰ SỐNG

·              Chủ đề: Chúa chạnh lòng thương vì họ bơ vơ vất vưởng.

·              Tin Mừng: Mát-thêu 14, 13-21 (Hóa bánh ra nhiều).

·              Định hướng: LCTX quan tâm đến cả nhu cầu thiêng liêng (Lời Chúa) và nhu cầu vật chất (bánh ăn) của con người. Chúng ta được mời gọi cộng tác từ những gì nhỏ bé mình có.

CHỦ ĐỀ BÀI GIẢNG: CHÚA CHẠNH LÒNG THƯƠNG VÌ HỌ BƠ VƠ VẤT VƯỞNG – LÒNG THƯƠNG XÓT NUÔI DƯỠNG SỰ SỐNG

DẪN VÀO THÁNH LỄ

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ, hôm nay chúng ta quy tụ về đây trong bầu khí thiêng liêng của tháng 8, tháng mà chúng ta đặc biệt suy tôn Lòng Thương Xót Chúa như nguồn mạch nuôi dưỡng sự sống. Giữa bao bộn bề, lo toan và cả những thiếu thốn của kiếp nhân sinh, chúng ta tìm về bên Chúa Giêsu, Đấng không chỉ là Thầy dạy chân lý mà còn là Mục Tử nhân lành. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta chiêm ngắm một Thiên Chúa biết "chạnh lòng thương". Ngài không dửng dưng trước cơn đói khát của con người, dù là cơn đói về thể xác hay cơn khát về tinh thần. Trong Thánh Lễ này, xin cho mỗi người chúng ta cảm nghiệm được ánh mắt xót thương của Chúa đang dõi theo mình, để rồi từ đó, chúng ta cũng biết mở lòng ra, cộng tác với Chúa bằng những gì nhỏ bé nhất mình có, để nuôi dưỡng sự sống cho anh chị em xung quanh. Hiệp cùng tâm tình ấy, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối, xin Chúa thương xót và thanh tẩy tâm hồn để xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh.

BÀI TIN MỪNG: Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mát-thêu (Mt 14, 13-21)

Khi ấy, nghe tin ông Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết, Đức Giêsu lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt. Nghe biết vậy, đông đảo dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người. Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy đại đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ.

Chiều đến, các môn đệ lại gần thưa với Người: "Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn". Đức Giêsu bảo: "Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn". Các ông đáp: "Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá!" Người bảo: "Đem lại đây cho Thầy!" Rồi sau khi truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ, Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho dân chúng. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.

BÀI GIẢNG

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ thân mến, trong hành trình đức tin của mỗi người Kitô hữu, hình ảnh Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ quyết định rất lớn đến cách chúng ta sống và cư xử với đồng loại. Nếu chúng ta tôn thờ một Thiên Chúa xa cách, lạnh lùng và chỉ ngự trị trên các tầng trời cao thẳm, đức tin của chúng ta sẽ dễ dàng rơi vào sự khô khan, duy luật. Nhưng Lời Chúa hôm nay, qua ngòi bút của Thánh sử Mát-thêu, đã phác họa cho chúng ta chân dung của một Thiên Chúa hoàn toàn khác. Đó là một Thiên Chúa có trái tim, một Thiên Chúa biết rung cảm, và trên hết, là một Thiên Chúa biết "chạnh lòng thương". Cụm từ "chạnh lòng thương" trong nguyên gốc Hy Lạp là "splagchnizomai", diễn tả một sự rung động từ sâu thẳm tâm can, một nỗi đau quặn thắt ruột gan khi chứng kiến nỗi khổ của người khác. Chúa Giêsu không chỉ nhìn thấy đám đông, Ngài cảm thấu nỗi bơ vơ, vất vưởng của họ. Ngài nhìn thấy ở họ hình ảnh của đàn chiên không người chăn dắt, lạc lõng giữa dòng đời đầy hiểm nguy và thiếu thốn. Chính lòng thương xót ấy đã trở thành động lực để Ngài hành động, không chỉ dừng lại ở việc giảng dạy Lời Chân Lý để nuôi dưỡng tâm hồn, mà còn quan tâm đến cả cái bụng đói cồn cào của họ khi chiều tà buông xuống nơi hoang địa.

Khung cảnh của bài Tin Mừng hôm nay mở ra một không gian đầy tính biểu tượng: "chỗ hoang vắng". Hoang địa trong Kinh Thánh thường là nơi của thử thách, của sự thiếu thốn và cô đơn, nhưng đồng thời cũng là nơi Thiên Chúa hẹn hò với dân Ngài, là nơi Israel xưa kia đã được nuôi dưỡng bằng Manna. Dân chúng đã bỏ lại nhà cửa, công việc, đi bộ từ các thành để theo Chúa Giêsu vào nơi hoang vắng ấy. Điều gì đã thúc đẩy họ? Chắc chắn không chỉ là sự tò mò. Đó là cơn khát khao một điều gì đó lớn lao hơn cơm bánh thường ngày, một cơn khát khao ý nghĩa sống, khát khao sự chữa lành và bình an mà họ tin rằng chỉ người đàn ông đến từ Nazareth này mới có thể trao ban. Họ đi tìm Lời Hằng Sống, họ đi tìm sự an ủi cho những tâm hồn đang tan nát. Và Chúa Giêsu, Đấng là hiện thân của Lòng Thương Xót Chúa Cha, đã không làm họ thất vọng. Ngài đã đón tiếp họ, chữa lành những kẻ ốm đau và giảng dạy cho họ nhiều điều. Ở đây, chúng ta thấy rõ định hướng của Lòng Thương Xót: trước hết là sự quan tâm đến nhu cầu thiêng liêng, đến sự sống của linh hồn. Chúa Giêsu biết rằng con người không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng con người cũng không thể sống nếu thiếu cơm bánh.

Khi chiều xuống, bóng tối và cái đói bắt đầu len lỏi vào đám đông. Đây là lúc sự giằng co giữa hai cách nhìn, hai thái độ sống được bộc lộ rõ nét: thái độ của các môn đệ và thái độ của Chúa Giêsu. Các môn đệ, những người thực tế và có lẽ cũng đang mệt mỏi, đã đưa ra một giải pháp rất hợp lý theo logic của con người: "Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn". Lời đề nghị này nghe qua có vẻ là sự quan tâm, nhưng thực chất ẩn chứa sự thoái thác trách nhiệm và sự bất lực. "Giải tán họ đi", "cho họ về đi" – đó là cách giải quyết vấn đề bằng sự loại bỏ, đẩy gánh nặng trở lại cho chính những người đang gặp khó khăn. Đó là tư duy "mạnh ai nấy lo", tư duy của sự sòng phẳng: ai có tiền thì mua được bánh, ai không có thì đành chịu. Các môn đệ nhìn thấy đám đông như một gánh nặng, một rắc rối cần phải giải quyết nhanh chóng để còn nghỉ ngơi. Họ nhìn vấn đề bằng con mắt của sự giới hạn, của sự thiếu thốn vật chất và của sự bất khả thi.

Thế nhưng, Chúa Giêsu đã phá vỡ logic tính toán ấy bằng một mệnh lệnh gây chấn động: "Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn". Câu nói này như một gáo nước lạnh dội vào sự toan tính của các môn đệ, nhưng đồng thời cũng là một lời mời gọi, một thách đố đầy yêu thương. Chúa Giêsu không chấp nhận giải pháp "giải tán". Ngài không muốn đám đông bơ vơ ấy phải tự bơi giữa dòng đời khi màn đêm buông xuống. Lòng Thương Xót không cho phép Ngài phủi tay. Ngài muốn các môn đệ, và qua đó là cả Giáo Hội sau này, phải học cách chịu trách nhiệm về sự sống của anh chị em mình. "Chính anh em hãy cho họ ăn" – lời mời gọi này vang vọng qua hai ngàn năm lịch sử, nhắc nhở chúng ta rằng Lòng Thương Xót không chỉ là cảm xúc xót xa trong lòng, mà phải biến thành hành động cụ thể. Đức tin không có hành động là đức tin chết. Chúng ta không thể nói mình yêu mến Chúa mà lại dửng dưng trước cái đói, cái nghèo, cái khổ của tha nhân. Chúa muốn chúng ta tham gia vào công trình nuôi dưỡng sự sống của Ngài, bắt đầu từ chính những gì chúng ta đang có, dù nó nhỏ bé và ít ỏi đến đâu.

Phản ứng của các môn đệ trước thách đố này là sự bối rối và trần tình về sự nghèo nàn của mình: "Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá!". Năm cái bánh và hai con cá cho năm ngàn người đàn ông, chưa kể đàn bà và trẻ con. Một tỉ lệ quá chênh lệch, một sự thiếu hụt khủng khiếp. Theo tính toán của con người, số lương thực ấy chẳng thấm vào đâu, giữ lại ăn riêng còn chưa đủ no, nói chi đến việc chia sẻ. Nhưng Chúa Giêsu không nhìn vào số lượng ít hay nhiều, Ngài nhìn vào tấm lòng dám trao ban. Ngài bảo: "Đem lại đây cho Thầy!". Đây chính là chìa khóa của phép lạ. Phép lạ không bắt đầu từ hư không, mà bắt đầu từ sự cộng tác khiêm tốn của con người. Chúa cần năm chiếc bánh và hai con cá ấy làm "vốn liếng" để thi thố quyền năng. Nếu cậu bé (như Tin Mừng Gioan kể lại) hoặc các môn đệ giữ khư khư phần ăn ít ỏi đó cho riêng mình vì sợ đói, thì phép lạ đã không xảy ra, và năm ngàn người kia sẽ phải ra về trong cơn đói lả. Nhưng khi cái "vỏn vẹn" ấy được đặt vào tay Chúa Giêsu, nó đã trở nên nguồn sung túc vô tận. Sự trao ban, dù nhỏ bé, khi kết hợp với quyền năng Thiên Chúa, sẽ có sức lan tỏa và nuôi dưỡng sự sống một cách kỳ diệu.

Cử chỉ của Chúa Giêsu sau đó mang đậm ý nghĩa Thánh Thể, báo trước Bí tích mà Ngài sẽ thiết lập trong Bữa Tiệc Ly. Ngài "cầm lấy", "ngước mắt lên trời", "dâng lời chúc tụng", "bẻ ra" và "trao cho". Đó là quy trình của tình yêu tự hiến. Bánh không được bẻ ra thì không thể chia sẻ; đời sống không được bẻ ra thì không thể trao ban. Chúa Giêsu đã nhận lấy sự đóng góp nhỏ bé của con người, thánh hóa nó bằng lời chúc tụng tạ ơn Chúa Cha, và rồi phân phát lại cho con người. Lương thực, khi được đặt trong mối tương quan với Thiên Chúa và được chia sẻ trong tình huynh đệ, sẽ không bao giờ vơi cạn. Ngược lại, nó còn dư thừa. "Ai nấy đều ăn và được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy". Sự dư đầy này là dấu chỉ của thời đại Messia, thời đại của ân sủng chan chứa. Con số mười hai giỏ đầy tượng trưng cho mười hai chi tộc Israel, tức là sự trọn vẹn của Dân Chúa, cho thấy Lòng Thương Xót của Thiên Chúa luôn dư dật, vượt quá mọi nhu cầu và mong đợi của con người.

Kính thưa ông bà anh chị em, sứ điệp Lời Chúa hôm nay đặc biệt ý nghĩa trong bối cảnh xã hội hiện đại, nơi mà khoảng cách giàu nghèo ngày càng doãng ra, và sự vô cảm đang dần trở thành một căn bệnh trầm kha. Chúng ta đang sống trong một thế giới mà lương thực vật chất không thiếu, thậm chí là thừa mứa đến mức lãng phí ở nhiều nơi, nhưng vẫn còn đó hàng triệu người đang chết đói hoặc suy dinh dưỡng. Và đáng sợ hơn, là cơn đói khát về tinh thần, về tình thương, về sự lắng nghe và thấu hiểu. Có biết bao người trẻ đang "bơ vơ vất vưởng" giữa dòng đời, lạc mất phương hướng, đói khát một lý tưởng sống. Có biết bao gia đình đang tan vỡ vì thiếu vắng "tấm bánh" của sự chia sẻ và tha thứ. Có biết bao người già cô đơn đang khao khát một lời hỏi thăm. Chúa Giêsu hôm nay vẫn đang nhìn thấy tất cả những nỗi niềm ấy và Ngài vẫn đang "chạnh lòng thương". Nhưng Ngài không còn hiện diện bằng xương bằng thịt để trực tiếp bẻ bánh như xưa, Ngài muốn dùng đôi tay của chúng ta, trái tim của chúng ta để tiếp tục phép lạ ấy.

Lời Chúa mời gọi chúng ta nhìn lại định hướng sống của mình: Lòng Thương Xót phải quan tâm đến cả nhu cầu thiêng liêng và vật chất. Chúng ta không thể chỉ rao giảng Tin Mừng cho người đói mà không cho họ ăn, đó là sự giả hình. Ngược lại, chúng ta cũng không thể chỉ làm công tác xã hội từ thiện mà quên đi việc nuôi dưỡng linh hồn họ bằng Lời Chúa, đó là sự thiếu sót. Một sự chăm sóc toàn diện con người, cả xác và hồn, mới là sự chăm sóc đích thực theo gương Giêsu. Có thể chúng ta sẽ tự biện hộ rằng: "Tôi cũng nghèo, tôi chẳng có gì, tài hèn sức mọn, làm sao lo cho người khác được?". Nhưng hãy nhớ lại năm chiếc bánh và hai con cá. Chúa không đòi hỏi chúng ta phải có kho lẫm đầy ắp mới bắt đầu chia sẻ. Ngài cần sự sẵn lòng của chúng ta ngay trong sự thiếu thốn của mình. Một lời động viên chân thành, một nụ cười khích lệ, một chút thời gian lắng nghe người đang buồn khổ, hay một sự giúp đỡ vật chất tuy nhỏ bé nhưng đúng lúc... tất cả đều là những "chiếc bánh" mà chúng ta có thể đặt vào tay Chúa.

Hơn nữa, bài Tin Mừng còn nhắc nhở chúng ta về vai trò trung gian của người môn đệ. Chúa trao bánh cho các môn đệ, và các môn đệ trao cho dân chúng. Chúng ta là những máng chuyển ơn thánh. Đừng để dòng chảy của lòng thương xót bị tắc nghẽn nơi chúng ta bởi sự ích kỷ hay toan tính. Khi chúng ta giữ lại, mọi thứ sẽ hư nát; nhưng khi chúng ta trao đi, sự sống được nhân lên. Phép lạ hóa bánh ra nhiều thực chất là phép lạ của sự chia sẻ. Khi mỗi người bớt đi một chút phần của mình để nghĩ đến người bên cạnh, thì không ai phải đói, và niềm vui sẽ được lấp đầy. Xã hội hôm nay cần lắm những phép lạ như thế – phép lạ của tình người, phép lạ của sự liên đới. Tháng 8 này, với chủ đề "Lòng Thương Xót nuôi dưỡng sự sống", là cơ hội để chúng ta xét mình: Tôi đã và đang nuôi dưỡng sự sống của ai? Sự hiện diện của tôi có mang lại niềm vui, sự no ấm và bình an cho gia đình, cho cộng đoàn hay không, hay tôi đang là nguyên nhân gây ra sự "đói khát" khổ đau cho người khác?

Chúng ta cũng không thể quên rằng, phép lạ hóa bánh ra nhiều hướng chúng ta về Bí tích Thánh Thể. Mỗi khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta được mời gọi đến bàn tiệc mà chính Chúa Giêsu là Tấm Bánh bẻ ra cho nhân loại. Ngài đã hiến trao chính Thân Mình Ngài để nuôi sống linh hồn chúng ta, để chúng ta không còn phải bơ vơ vất vưởng tìm kiếm những sự thỏa mãn chóng qua ở thế gian này. Đến với Thánh Thể, chúng ta được no thỏa trong tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Và khi ra về, chúng ta được sai đi để trở thành tấm bánh bẻ ra cho anh chị em mình. "Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an" – lời kết thúc Thánh Lễ thực chất là một lệnh truyền lên đường: Hãy đi và làm như Chúa đã làm. Hãy đi và biến cuộc đời mình thành lương thực nuôi dưỡng niềm hy vọng cho thế giới. Đừng sợ hãi vì sự nhỏ bé của mình, bởi lẽ trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, không có gì là vô ích, và không có sự hy sinh nào vì tình yêu mà lại trở nên uổng phí.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chạnh lòng thương đám đông dân chúng xưa kia, xin cũng hãy chạnh lòng thương đến chúng con hôm nay. Xin nuôi dưỡng chúng con bằng Lời Chúa và Thánh Thể, để chúng con được no đầy sức sống thần linh. Xin cũng mở rộng đôi tay và trái tim chúng con, để chúng con biết quảng đại chia sẻ những gì mình có, hầu cộng tác với Chúa trong công trình xoa dịu những nỗi đau và lấp đầy những cơn đói khát của nhân loại. Xin cho chúng con hiểu rằng, chỉ khi biết cho đi, chúng con mới thực sự nhận lãnh; và chỉ khi biết yêu thương, chúng con mới thực sự đang sống. Xin biến đổi những "năm chiếc bánh và hai con cá" nhỏ bé của cuộc đời chúng con thành nguồn ơn phúc bao la cho mọi người. Amen.

LỜI NGUYỆN TÍN HỮU

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Cha nhân từ, Đấng hằng chạnh lòng thương xót trước mọi nhu cầu của con cái. Tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Chúa, Đấng đã ban Bánh bởi trời để nuôi dưỡng nhân loại, chúng ta cùng tha thiết dâng lời nguyện xin:

1.          "Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn". Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị Mục tử trong Hội Thánh, luôn mang trong mình trái tim chạnh thương của Chúa Giêsu, biết quan tâm chăm sóc đoàn chiên cả về đời sống đức tin lẫn những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, để không một ai cảm thấy mình bị bỏ rơi giữa lòng Giáo Hội.

2.          Trên thế giới ngày nay vẫn còn biết bao người đang phải chịu cảnh đói nghèo, chiến tranh và bất công. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các nhà lãnh đạo quốc gia và các tổ chức quốc tế, biết nỗ lực kiến tạo hòa bình và phân phối tài nguyên công bằng, để mọi người dân đều được hưởng cơm no áo ấm và được sống xứng với phẩm giá con người.

3.          "Ở đây chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá". Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang gặp khó khăn, túng thiếu, những người đang thất vọng vì bệnh tật hay cô đơn, biết tin tưởng phó thác vào quyền năng Chúa, và xin cho có nhiều tấm lòng quảng đại biết sẵn sàng sẻ chia, để tình thương Chúa được lan tỏa đến những mảnh đời bất hạnh.

4.          Lòng Thương Xót nuôi dưỡng sự sống. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta, mỗi khi tham dự bàn tiệc Thánh Thể, được biến đổi nên những tấm bánh bẻ ra cho đời, biết nhạy bén trước nỗi đau của người khác và tích cực cộng tác với nhau trong các công việc bác ái, để làm chứng cho Lòng Thương Xót Chúa giữa lòng xã hội hôm nay.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Xin thương nhận những ước nguyện chúng con vừa dâng, và xin ban ơn trợ giúp để chúng con luôn biết sống yêu thương, chia sẻ và phục vụ như Chúa đã nêu gương. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.


 

Giai Đoạn 3: TRỞ THÀNH KHÍ CỤ CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

Tháng 9: Thực thi Lòng Thương Xót với tha nhân

·              Chủ đề: Ai là người thân cận của tôi?

·              Tin Mừng: Luca 10, 25-37 (Người Samari nhân hậu).

·              Định hướng: LCTX không phải là lý thuyết suông mà là hành động băng bó vết thương cho người bị bỏ rơi bên vệ đường cuộc sống.

CHỦ ĐỀ BÀI GIẢNG: AI LÀ NGƯỜI THÂN CẬN CỦA TÔI?

DẪN VÀO THÁNH LỄ

Hôm nay, trong bầu khí linh thiêng của ngày Chúa Nhật, cộng đoàn chúng ta quy tụ về đây để cùng nhau cử hành Mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm của tình yêu và sự hiến tế. Bước vào tháng 9, Giáo hội mời gọi chúng ta đặc biệt suy tư và sống mầu nhiệm Lòng Thương Xót, không chỉ như một ý niệm đạo đức, mà như một hành động cụ thể hướng về tha nhân.

Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta vẫn thường tự hỏi: "Tôi phải sống tốt với ai? Ai mới xứng đáng nhận được sự quan tâm của tôi?". Câu hỏi ấy cũng chính là thắc mắc của người thông luật trong bài Tin Mừng hôm nay: "Ai là người thân cận của tôi?". Chúa Giêsu, qua dụ ngôn người Samari nhân hậu, sẽ không đưa ra một định nghĩa khô khan, nhưng Người vẽ ra một con đường – con đường từ Giêrusalem xuống Giêricô, con đường của sự chạnh lòng thương và hành động băng bó vết thương.

Xin Chúa mở lòng trí chúng ta, để Lời Chúa hôm nay không chỉ dừng lại ở tai, nhưng thấm nhập vào tim và trổ sinh hoa trái nơi đôi tay biết phục vụ. Giờ đây, để xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh, chúng ta hãy thành tâm sám hối về những lần chúng ta đã vô cảm, đã đi qua bên kia đường trước nỗi đau của anh chị em mình.

TIN MỪNG (Luca 10, 25-37)

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có người thông luật kia đứng lên hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?". Người nói với ông: "Trong Lề Luật đã chép thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?". Ông trả lời: "Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi, và hãy yêu thương người thân cận như chính mình". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy thì sẽ được sống".

Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Nhưng ai là người thân cận của tôi?". Chúa Giêsu đáp: "Có một người từ Giêrusalem xuống Giêricô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Samari kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: 'Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác'. Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?". Người thông luật trả lời: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy". Chúa Giêsu bảo ông ta: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy".

Đó là Lời Chúa.

BÀI GIẢNG

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ thân mến, câu chuyện mà chúng ta vừa nghe, dụ ngôn về người Samari nhân hậu, có lẽ là một trong những trang Tin Mừng quen thuộc nhất, đẹp đẽ nhất và cũng thách đố nhất của Kitô giáo. Chúng ta đã nghe câu chuyện này từ khi còn là những đứa trẻ trong lớp giáo lý, chúng ta đã nghe giảng giải biết bao nhiêu lần, nhưng mỗi lần nghe lại, Lời Chúa vẫn như một lưỡi gươm sắc bén, xuyên thấu vào tận tâm can, bóc trần những lớp vỏ bọc của sự an toàn và vô cảm mà chúng ta thường khoác lên mình. Hôm nay, trong bối cảnh của tháng thực thi Lòng Thương Xót, chúng ta không dừng lại để phân tích câu chữ hay bối cảnh lịch sử một cách khô khan, nhưng chúng ta hãy để mình bước vào con đường từ Giêrusalem xuống Giêricô ấy, để thấy mình trong từng nhân vật, và để nghe tiếng Chúa mời gọi một cách khẩn thiết: "Hãy đi và làm như vậy".

Con đường từ Giêrusalem xuống Giêricô là một con đường dốc, hoang vu và đầy hiểm nguy, nó được ví như hình ảnh của dòng đời, nơi con người ta xuôi ngược mưu sinh. Trên con đường ấy, bi kịch đã xảy ra. Một người, không rõ tên tuổi, không rõ gốc gác, bị trấn lột, bị đánh nhừ tử và bị bỏ mặc nửa sống nửa chết. Người ấy đại diện cho tất cả những nạn nhân của sự ác, của bạo lực, của bất công và của sự dửng dưng trong thế giới hôm nay. Người ấy có thể là một người nghèo khổ bên vệ đường, một người bệnh tật không tiền thuốc thang, một người già cô đơn trong chính ngôi nhà của mình, hay một tâm hồn đang tan nát vì bị phản bội, bị ruồng bỏ. Người ấy nằm đó, im lặng, không còn sức để kêu cứu, chỉ còn biết chờ đợi vào lòng trắc ẩn của đồng loại. Và rồi, bi kịch của sự vô cảm bắt đầu diễn ra, không phải từ những kẻ cướp, mà từ những người được coi là đạo đức nhất.

Trước hết là một thầy tư tế. Ông ta là người phục vụ bàn thờ, người chuyên lo việc tế tự, người nắm giữ sự thánh thiêng. Ông ta đi qua, ông ta "thấy", nhưng rồi ông ta "tránh qua bên kia mà đi". Tại sao vậy? Có thể ông sợ ô uế theo luật lệ ngày xưa, nếu chạm vào xác chết thì không được dâng lễ. Có thể ông sợ đám cướp vẫn còn lẩn khuất đâu đó và ông sẽ là nạn nhân tiếp theo. Hoặc đơn giản, ông nghĩ đó không phải là việc của mình, ông còn bao nhiêu việc "đạo đức" quan trọng hơn phải làm ở đền thờ. Tiếp theo là một thầy Lêvi, cũng là người phục vụ trong đền thờ, cũng thuộc hàng ngũ những người được tuyển chọn. Ông cũng đến, cũng "thấy", và cũng "tránh qua bên kia mà đi". Cái "thấy" của hai vị chức sắc này là một cái thấy vô hồn, một cái thấy bị che khuất bởi những toan tính, những nỗi sợ hãi và sự ích kỷ. Họ giữ luật Chúa trên môi miệng, trong các nghi thức, nhưng họ đã để rơi mất cốt lõi của Lề Luật, đó là Lòng Thương Xót. Họ vội vã đến với Chúa trong đền thờ bằng đá, nhưng lại bỏ rơi hình ảnh sống động của Thiên Chúa đang quằn quại đau đớn bên vệ đường. Đây là một lời cảnh tỉnh đầy nghiêm khắc cho mỗi chúng ta, những người mang danh Kitô hữu, những người vẫn đi lễ, đọc kinh hàng ngày. Liệu chúng ta có đang dùng chính những việc đạo đức ấy làm tấm bình phong để che đậy sự vô cảm của mình trước nỗi đau của anh em? Liệu chúng ta có đang vội vã đi tìm Chúa ở những nơi cao sang, thánh thiêng mà quên mất Chúa đang chờ chúng ta nơi những người nghèo khổ, bé mọn?

Và rồi, điều bất ngờ nhất của dụ ngôn xuất hiện. Một người Samari. Đối với người Do Thái thời đó, người Samari là kẻ lai căng, là kẻ ngoại giáo, là "đồ chó má", là kẻ thù không đội trời chung. Đáng lẽ ra, người Samari này mới là người có lý do chính đáng nhất để bỏ đi, thậm chí để hả hê trước tai họa của kẻ thù. Nhưng không, Tin Mừng ghi lại một chuỗi những động từ diễn tả sự chuyển biến nội tâm và hành động quyết liệt của ông. Trước hết, ông "chạnh lòng thương". Đây không phải là một cảm xúc thương hại thoáng qua, mà trong nguyên ngữ Hy Lạp, nó diễn tả một sự quặn đau từ lục phủ ngũ tạng, một sự rung động tận đáy lòng như người mẹ trước nỗi đau của đứa con. Lòng thương xót bắt đầu từ trái tim biết rung cảm, biết đau với nỗi đau của người khác. Nếu không có sự chạnh lòng này, mọi hành động giúp đỡ chỉ là bố thí, là ban ơn, là làm cho xong chuyện.

Nhưng Lòng Thương Xót không được phép dừng lại ở cảm xúc. Chúa Giêsu định hướng cho chúng ta rất rõ ràng: Lòng Thương Xót không phải là lý thuyết suông, không phải là những lời nói hoa mỹ trên môi miệng, mà phải là hành động cụ thể, là "băng bó vết thương". Người Samari đã không đứng đó để thương khóc hay cầu nguyện cho nạn nhân rồi bỏ đi. Ông đã hành động. Ông "lại gần". Trong khi hai vị chức sắc tôn giáo "tránh xa", thì người ngoại giáo này lại "lại gần". Lại gần nghĩa là chấp nhận rủi ro, chấp nhận sự dơ bẩn, chấp nhận bước vào thế giới đau khổ của người khác. Ông "lấy dầu và rượu đổ lên vết thương và băng bó lại". Dầu để làm dịu cơn đau, rượu để sát trùng. Ông đã dùng những gì quý giá nhất mình mang theo để cứu chữa cho một người xa lạ. Ông không sợ máu me, không sợ lấm lem, đôi tay ông trực tiếp chạm vào da thịt lở loét của người bị nạn. Đây chính là hình ảnh đẹp nhất của Lòng Thương Xót: một sự tiếp chạm mang lại sự chữa lành.

Chưa hết, sự tận tụy của người Samari còn đi xa hơn nữa. Ông đặt nạn nhân lên lừa của mình, nghĩa là ông chấp nhận đi bộ. Ông đưa về quán trọ và tự tay săn sóc. Ông không đùn đẩy trách nhiệm cho chủ quán ngay lập tức, mà đã thức suốt đêm để canh chừng sự sống cho người ấy. Và sáng hôm sau, ông lấy tiền ra, hai quan tiền, tương đương với hai ngày lương, để trả trước và còn hứa sẽ trả thêm nếu có tốn kém. Lòng Thương Xót của ông là một sự hy sinh trọn vẹn: hy sinh thời gian, hy sinh công sức, hy sinh tiền bạc và hy sinh cả sự an toàn của bản thân. Ông không đòi hỏi sự đền đáp, ông cũng không cần biết người kia có biết ơn mình hay không. Ông làm vì tiếng gọi của lương tâm, vì ông nhìn thấy nơi người bị nạn một con người, một "người thân cận" cần được yêu thương.

Kính thưa cộng đoàn, câu hỏi của người thông luật: "Ai là người thân cận của tôi?" là một câu hỏi mang tính giới hạn. Ông ta muốn vẽ ra một vòng tròn: ai ở trong vòng tròn đó thì tôi yêu thương, ai ở ngoài thì tôi có quyền mặc kệ. Nhưng Chúa Giêsu, qua dụ ngôn này, đã lật ngược vấn đề. Ngài không trả lời "ai là người thân cận", mà Ngài hỏi lại: "Ai đã tỏ ra là người thân cận?". Chúa Giêsu muốn phá vỡ mọi rào cản, mọi biên giới của sắc tộc, tôn giáo, địa vị xã hội. Khái niệm "người thân cận" không được định nghĩa bằng huyết thống, bằng vị trí địa lý hay bằng sự tương đồng về niềm tin. "Người thân cận" được định nghĩa bằng Lòng Thương Xót. Khi tôi chạnh lòng thương và ra tay giúp đỡ một ai đó, chính lúc ấy, tôi trở thành người thân cận của họ. Người thân cận không phải là người ở gần tôi, mà là người tôi chủ động đến gần.

Trong tháng 9 này, Giáo hội mời gọi chúng ta thực thi Lòng Thương Xót với tha nhân, định hướng ấy nhắc nhở chúng ta rằng đức tin không có hành động là đức tin chết. Thế giới chúng ta đang sống hôm nay có quá nhiều những "người bị bỏ rơi bên vệ đường". Đó có thể không phải là người bị cướp đánh chảy máu, nhưng là những người đang chảy máu trong tâm hồn. Đó là người chồng, người vợ đang cô đơn trong chính cuộc hôn nhân của mình vì thiếu sự lắng nghe và thấu hiểu. Đó là những đứa con đang lạc lõng, nổi loạn vì thiếu sự quan tâm của cha mẹ. Đó là những người đồng nghiệp đang bị chèn ép, bị nói xấu, bị cô lập nơi công sở. Đó là những người nghèo khổ, những người bán vé số, những người vô gia cư mà chúng ta gặp hàng ngày nhưng thường ngó lơ. Đó là những người đang chìm đắm trong tệ nạn, trong tội lỗi, đang cần một bàn tay kéo họ lên chứ không phải một ánh mắt phán xét khinh miệt.

Chúng ta có sẵn sàng trở thành người Samari nhân hậu cho họ không? Hay chúng ta cũng giống như thầy tư tế và thầy Lêvi, viện cớ bận rộn, viện cớ "không phải việc của mình", viện cớ sợ phiền phức để "tránh qua bên kia mà đi"? Thực thi Lòng Thương Xót là chấp nhận bị làm phiền. Khi chúng ta đang vội vã, mà có người cần giúp đỡ, chúng ta có dám dừng lại không? Khi chúng ta đang muốn nghỉ ngơi, mà có người cần lắng nghe, chúng ta có dám hy sinh giấc ngủ không? Khi túi tiền chúng ta đang eo hẹp, mà gặp người túng thiếu hơn, chúng ta có dám sẻ chia không? "Băng bó vết thương" cho người khác đôi khi đòi hỏi chúng ta phải chịu dính máu, phải chịu thiệt thòi. Nhưng chính trong những lúc ấy, chúng ta đang họa lại hình ảnh của Đức Kitô.

Bởi lẽ, kính thưa cộng đoàn, người Samari nhân hậu đích thực trong dụ ngôn này chính là Đức Giêsu Kitô. Khi nhân loại chúng ta bị tội lỗi đánh nhừ tử, bị tước đoạt mất phẩm giá làm con Thiên Chúa, bị bỏ mặc bên lề của sự chết, thì Chúa Giêsu đã không "tránh qua bên kia". Ngài đã từ trời cao "lại gần" chúng ta. Ngài đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận con người. Ngài đã dùng chính Máu và Nước từ cạnh sườn Ngài như dầu và rượu để chữa lành vết thương tội lỗi cho chúng ta. Ngài đã vác chúng ta trên vai, đưa chúng ta vào "quán trọ" là Hội Thánh để được chăm sóc. Và Ngài đã trả cái giá đắt nhất, không phải là hai quan tiền, mà là chính mạng sống của Ngài trên Thập giá để cứu chuộc chúng ta. Mỗi người chúng ta, trước hết, là kẻ bị nạn được Chúa cứu. Chúng ta đã nhận được Lòng Thương Xót vô biên của Chúa, nên chúng ta không có quyền từ chối trao ban Lòng Thương Xót ấy cho anh em mình.

"Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy". Lời kết của bài Tin Mừng là một mệnh lệnh, một sự sai đi. Chúa không nói: "Ông hãy về suy nghĩ thêm", mà là "Hãy làm". Kitô giáo là đạo của hành động, đạo của tình yêu cụ thể. Trong thánh lễ này, khi chúng ta lên rước Mình Thánh Chúa, là chúng ta rước lấy Đấng là Lòng Thương Xót. Xin cho sự hiện diện của Chúa Giêsu Thánh Thể biến đổi trái tim xơ cứng của chúng ta thành trái tim bằng thịt, biết rung cảm, biết xót thương.

Trở về với cuộc sống thường ngày sau thánh lễ này, ước mong sao mỗi người chúng ta sẽ mang theo một cặp mắt mới – cặp mắt của người Samari, để nhìn thấy những nỗi đau ẩn giấu sau những nụ cười gượng gạo, để thấy những bàn tay đang chới với kêu cứu giữa dòng đời tấp nập. Và xin cho chúng ta có một đôi tay sẵn sàng "lấm lem", sẵn sàng cúi xuống để nâng đỡ, để băng bó, để xoa dịu. Đừng đợi đến khi giàu có mới cho đi, đừng đợi đến khi rảnh rỗi mới giúp đỡ. Ngay lúc này, ngay bên cạnh chúng ta, "người thân cận" đang chờ đợi chúng ta. Hãy nhớ rằng, vào ngày sau hết, Chúa sẽ không hỏi chúng ta đã đọc bao nhiêu kinh, đã đi bao nhiêu lễ, hay có chức vụ gì trong giáo xứ. Chúa chỉ hỏi một điều duy nhất: "Ta đói, con có cho ăn không? Ta khát, con có cho uống không? Ta trần truồng, con có cho mặc không? Ta bị thương tích, con có băng bó cho Ta không?".

Nguyện xin Chúa Giêsu, Người Samari Nhân Hậu tuyệt hảo, ban thêm sức mạnh và lòng can đảm cho chúng ta, để chúng ta dám sống mạo hiểm cho tình yêu, dám bước ra khỏi vùng an toàn của sự ích kỷ, để trở thành những cánh tay nối dài của Chúa, mang dầu thơm của tình thương và rượu nồng của niềm hy vọng đến xoa dịu những vết thương của nhân thế hôm nay. Amen.

LỜI NGUYỆN TÍN HỮU

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Người không bao giờ bỏ rơi con người trong cơn hoạn nạn, nhưng luôn sai Con Một là Đức Giêsu Kitô đến để băng bó và chữa lành vết thương cho nhân loại. Với tâm tình cảm mến và khát khao trở nên khí cụ tình thương của Chúa, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin:

1.          "Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi". Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh và mọi Kitô hữu. Xin cho các ngài luôn giữ được trái tim nhạy bén trước nỗi đau của đoàn chiên, không để những luật lệ hay nghi thức làm khô cằn lòng trắc ẩn, nhưng luôn sẵn sàng "lại gần" để ủi an và nâng đỡ những ai đang bị bỏ rơi bên lề xã hội.

o      Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

2.          "Nhưng một người Samari kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương". Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các nhà lãnh đạo quốc gia và những người có trách nhiệm trong xã hội. Xin Chúa khơi dậy nơi họ lương tâm ngay thẳng và lòng nhân ái, để họ luôn quan tâm đến người nghèo, người cô thế cô thân, và nỗ lực xây dựng một thế giới công bằng, bác ái, nơi không ai bị loại trừ.

o      Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

3.          "Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại". Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang đau khổ về thể xác cũng như tinh thần, những nạn nhân của chiến tranh, bạo lực, thiên tai và những người đang tuyệt vọng trong cuộc sống. Xin Chúa gửi đến cho họ những "người Samari nhân hậu" thời đại mới, để qua sự giúp đỡ tận tình của anh chị em, họ cảm nhận được tình yêu chữa lành của Thiên Chúa.

o      Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

4.          "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy". Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta trong tháng thực thi Lòng Thương Xót này. Xin cho mỗi người chúng ta biết vượt qua sự vô cảm, ích kỷ, dám hy sinh thời gian và vật chất để trở nên người thân cận của những ai đang cần giúp đỡ ngay trong gia đình và khu xóm của mình.

o      Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

Chủ tế: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã dạy chúng con rằng giới răn trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Xin nhậm lời chúng con cầu nguyện và ban Thánh Thần Tình Yêu biến đổi chúng


 

Tháng 10: Sứ mạng Loan báo Lòng Thương Xót (Tháng Truyền Giáo)

·              Chủ đề: Hãy có lòng thương xót như Cha anh em.

·              Tin Mừng: Luca 6, 36-38 (Đừng xét đoán, hãy cho đi).

·              Định hướng: Bản chất của truyền giáo là lan tỏa tình yêu thương. Người môn đệ là người phản chiếu sự bao dung của Thiên Chúa cho thế giới.

CHỦ ĐỀ BÀI GIẢNG: HÃY CÓ LÒNG THƯƠNG XÓT NHƯ CHA ANH EM

DẪN VÀO THÁNH LỄ

Hôm nay, trong bầu khí thiêng liêng của Tháng Mười – tháng Mân Côi và cũng là tháng đặc biệt cầu nguyện cho công cuộc Truyền Giáo của Giáo hội, chúng ta quy tụ về đây để cử hành mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm của Tình Yêu tột cùng. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta chiêm ngắm dung nhan đích thực của Thiên Chúa, một người Cha giàu lòng thương xót, và từ đó, khơi dậy trong mỗi người ý thức về căn tính của người môn đệ.

Trong một thế giới đang bị tổn thương bởi chia rẽ, hận thù và sự vô cảm, lời mời gọi "Hãy có lòng thương xót như Cha anh em" không chỉ là một mệnh lệnh luân lý, mà còn là chìa khóa để mở ra cánh cửa loan báo Tin Mừng. Sứ mạng truyền giáo không bắt đầu bằng những lý thuyết cao siêu, nhưng bắt đầu bằng một trái tim biết chạnh lòng thương, biết tha thứ và biết cho đi như Chúa đã làm cho chúng ta.

Hiệp ý trong Thánh lễ này, chúng ta xin Chúa uốn nắn trái tim chúng ta nên giống Trái Tim Chúa, để mỗi người trở thành một kênh thông chuyển lòng thương xót của Chúa đến cho anh chị em mình, nhất là những ai đang lầm lạc và đau khổ. Với tâm tình sám hối và khao khát đổi mới, chúng ta cùng thành tâm dâng lên Chúa những lầm lỗi thiếu sót của mình để xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh.

TIN MỪNG: Luca 6, 36-38

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Anh em hãy có lòng thương xót, như Cha anh em là Đấng thương xót. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị thiên hạ xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được thiên hạ tha thứ. Anh em hãy cho, thì sẽ được thiên hạ cho lại. Người ta sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì thiên hạ sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy."

Đó là Lời Chúa.

BÀI GIẢNG

Kính thưa quý ông bà và anh chị em,

Chúng ta đang sống trong những ngày tháng Mười, thời gian mà Giáo hội hoàn vũ hướng lòng về sứ mạng truyền giáo, sứ mạng làm cho Danh Chúa được cả sáng và Nước Chúa được trị đến. Khi nói đến truyền giáo, có lẽ hình ảnh đầu tiên hiện lên trong tâm trí chúng ta là những nhà thừa sai đi đến những vùng đất xa xôi, vượt qua rừng sâu núi thẳm để đem ánh sáng đức tin đến cho những người chưa nhận biết Chúa. Điều đó đúng, rất đúng và rất cần thiết. Nhưng Lời Chúa hôm nay, trong đoạn Tin Mừng ngắn gọn nhưng súc tích của thánh Luca, lại mở ra cho chúng ta một chiều kích khác, một "phương pháp" truyền giáo căn bản và cốt lõi nhất, đó chính là: Loan báo Lòng Thương Xót bằng chính đời sống của mình. Chúa Giêsu không đưa ra một chiến lược truyền thông, Ngài không vạch ra một kế hoạch chinh phục các dân tộc bằng quyền lực, nhưng Ngài mời gọi các môn đệ đi vào con đường của trái tim: "Anh em hãy có lòng thương xót, như Cha anh em là Đấng thương xót."

Lời mời gọi này đặt chúng ta đối diện với một thực tế nền tảng của đức tin Kitô giáo: Thiên Chúa là Cha, và bản chất của Người là Lòng Thương Xót. Chúng ta thường nghe nói Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, Đấng Sáng Tạo, Đấng Xét Xử công minh. Nhưng thánh Luca, người được mệnh danh là "thư ký của lòng hiền hậu Chúa Kitô", đã chọn một từ ngữ rất đắt giá để mô tả Thiên Chúa: "Cha anh em là Đấng thương xót". Trong ngôn ngữ gốc của Kinh Thánh, từ "thương xót" còn mang ý nghĩa của "lòng dạ", của sự "chạnh lòng" như tình cảm ruột thịt của người mẹ dành cho con. Như vậy, lòng thương xót không phải là một hành động nhất thời của Thiên Chúa, không phải là sự ban ơn bố thí của một ông chủ giàu có dành cho kẻ ăn mày, mà là sự rung động sâu xa của trái tim một người Cha khi thấy con cái mình lầm than. Chính vì Thiên Chúa là Cha, nên Người không thể không thương xót. Sự thương xót là "căn cước", là "ADN" của Thiên Chúa. Và Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, chính là hiện thân sống động, hữu hình của lòng thương xót vô hình đó.

Từ việc chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Chúa Giêsu dẫn chúng ta đến mệnh lệnh: "Hãy có lòng thương xót như Cha anh em." Chữ "như" ở đây vừa là một lời mời gọi nên thánh, vừa là một thách đố lớn lao cho phận người mỏng giòn của chúng ta. "Như Cha" nghĩa là lấy Chúa làm khuôn mẫu, làm chuẩn mực chứ không phải lấy những tiêu chuẩn của thế gian. Thế gian dạy chúng ta: "Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại", "Có qua có lại mới toại lòng nhau". Sự công bằng của thế gian là sự công bằng sòng phẳng, vay trả, mắt đền mắt, răng đền răng. Nhưng sự công bằng của Thiên Chúa, hay đúng hơn là sự công chính của Thiên Chúa, lại được mặc khải trọn vẹn nơi Lòng Thương Xót. Chúa muốn chúng ta vượt lên trên sự tính toán tầm thường để bước vào sự quảng đại thần linh. Sứ mạng truyền giáo của chúng ta bắt đầu từ chính nỗ lực họa lại dung nhan người Cha ấy trong cuộc sống thường ngày. Làm sao thế giới có thể tin vào một Thiên Chúa Tình Yêu nếu những kẻ mang danh là con cái Chúa lại sống hận thù, xét nét và cay nghiệt? Làm sao người ta có thể nhận ra Tin Mừng Bình An nếu cộng đoàn chúng ta vẫn còn đầy dẫy những sự chia rẽ và lên án lẫn nhau?

Để cụ thể hóa việc "sống lòng thương xót", Chúa Giêsu đưa ra hai mệnh lệnh phủ định và hai mệnh lệnh khẳng định, tạo nên một lộ trình tu đức rõ ràng. Trước hết là: "Đừng xét đoán" và "Đừng lên án". Tại sao Chúa lại cấm xét đoán? Phải chăng Chúa muốn chúng ta nhắm mắt làm ngơ trước sự xấu, sự ác? Thưa không. Chúa không cấm chúng ta nhận định phải trái, đúng sai. Lý trí Chúa ban là để phân định sự thật. Nhưng cái "xét đoán" mà Chúa cảnh giác ở đây là thái độ trịch thượng, tự cho mình quyền ngồi vào ghế thẩm phán để định đoạt giá trị và số phận của người khác. Khi chúng ta xét đoán anh em, chúng ta thường nhìn thấy cái rác trong mắt họ nhưng lại quên cái xà trong mắt mình. Sự xét đoán của con người thường phiến diện, dựa trên vẻ bề ngoài, dựa trên định kiến hoặc cảm xúc nhất thời. Chúng ta thấy hành vi, nhưng Chúa thấy cõi lòng. Chúng ta thấy tội lỗi, nhưng Chúa thấy nỗi đau và hoàn cảnh dẫn đến tội lỗi đó. Nguy hiểm hơn, khi xét đoán và lên án, chúng ta đang tiếm quyền của Thiên Chúa, Đấng duy nhất có quyền thẩm xét tâm can con người.

Hơn nữa, Chúa Giêsu còn đưa ra một quy luật tâm linh đáng sợ: "Anh em đong bằng đấu nào, thì thiên hạ sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy." Đây không phải là sự trả thù của Thiên Chúa, mà là hệ quả tất yếu của thái độ sống. Nếu chúng ta dùng cái đấu hẹp hòi, khắt khe, soi mói để đong đếm anh em, chúng ta tự giam mình trong sự hẹp hòi đó, và cuối cùng, chúng ta sẽ phải đối diện với sự công thẳng. Ngược lại, nếu chúng ta biết buông bỏ sự xét nét, biết nhìn người khác bằng ánh mắt cảm thông, chúng ta đang mở rộng dung lượng trái tim mình để đón nhận sự bao dung của Thiên Chúa. Trong công cuộc truyền giáo, thái độ xét đoán là rào cản lớn nhất ngăn chặn ân sủng. Một người tội lỗi, một người ngoại giáo, hay một người đang lạc xa đức tin, họ sẽ không bao giờ quay trở về nếu họ cảm thấy bị khinh miệt hay bị lên án. Họ chỉ trở về khi họ cảm nhận được sự chấp nhận, sự tôn trọng và tình thương vô điều kiện. Thánh Têrêsa Calcutta đã từng nói: "Nếu bạn bận xét đoán người ta, bạn sẽ không còn thời gian để yêu thương họ." Truyền giáo chính là dành thời gian để yêu thương thay vì phung phí thời gian vào việc lên án.

Tiếp nối hai mệnh lệnh phủ định, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta thực hiện hai hành động tích cực: "Hãy tha thứ" và "Hãy cho đi". Tha thứ là đỉnh cao của lòng thương xót. Tha thứ không có nghĩa là quên đi quá khứ hay phủ nhận nỗi đau. Tha thứ là một quyết định can đảm của ý chí, quyết định không để cho sự hận thù trói buộc mình và trói buộc người khác. Khi tha thứ, chúng ta giải phóng người xúc phạm khỏi món nợ tình cảm, và đồng thời giải phóng chính mình khỏi nhà tù của sự cay đắng. Chúa Giêsu hứa: "Tha thứ thì sẽ được thứ tha". Chúng ta đều là những tội nhân đã được Thiên Chúa tha thứ một món nợ khổng lồ bằng máu của Đức Kitô. Món nợ của anh em đối với chúng ta, dù lớn đến đâu, cũng chẳng thấm vào đâu so với món nợ chúng ta mắc với Chúa. Ý thức mình là kẻ được tha thứ sẽ giúp chúng ta dễ dàng tha thứ cho người khác. Một cộng đoàn truyền giáo phải là một cộng đoàn của sự hòa giải. Thế giới ngày nay đầy rẫy những xung đột, từ gia đình đến xã hội. Nếu người Kitô hữu biết sống mầu nhiệm tha thứ, đó sẽ là lời chứng hùng hồn nhất về sức mạnh của Tin Mừng.

Và cuối cùng, "Hãy cho đi". Lòng thương xót không chỉ dừng lại ở cảm xúc hay tha thứ trong lòng, mà phải được thể hiện qua hành động cụ thể là sự chia sẻ. "Hãy cho, thì sẽ được thiên hạ cho lại". Ở đây, Chúa dùng một hình ảnh rất sống động của thị trường lúa gạo thời xưa: "đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn". Người bán hàng rộng lượng không chỉ đong ngang mặt, mà còn dằn xuống cho gạo nén chặt, lắc cho gạo lấp đầy các khe hở, và đổ thêm cho đầy tràn ra ngoài. Đó là hình ảnh về sự hào phóng của Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ thua lòng quảng đại của con người. Khi chúng ta dám cho đi – cho đi thời gian, cho đi của cải, cho đi nụ cười, cho đi sự quan tâm – chúng ta đang làm trống đôi tay mình để Chúa có thể đổ đầy ân sủng vào đó. Ngược lại, nếu chúng ta nắm chặt bàn tay để giữ gìn, chúng ta chẳng giữ được gì và cũng không thể đón nhận được gì thêm.

Sứ mạng truyền giáo trong tháng Mười này nhắc nhở chúng ta rằng: Bản chất của truyền giáo là sự lan tỏa tình yêu thương. Chúng ta không thể loan báo về một Thiên Chúa Tình Yêu bằng một khuôn mặt cau có, một trái tim khép kín hay một bàn tay nắm chặt. Người ta có thể không nghe những gì chúng ta giảng, có thể tranh luận về những tín điều chúng ta tin, nhưng người ta không thể phủ nhận vẻ đẹp của một hành động bác ái, một lời nói dịu dàng, một sự tha thứ bao dung. Đó là ngôn ngữ chung của nhân loại, ngôn ngữ mà ai cũng có thể hiểu được – ngôn ngữ của Lòng Thương Xót.

Hãy nhìn vào gương của các thánh truyền giáo. Thánh Phanxicô Xaviê đã chinh phục Á Châu không chỉ bằng nhiệt huyết giảng dạy mà bằng sự chăm sóc tận tụy cho các bệnh nhân và người nghèo khổ. Mẹ Têrêsa Calcutta đã trở thành biểu tượng truyền giáo của thế kỷ 20 không phải bằng những bài diễn thuyết hùng hồn mà bằng việc cúi xuống ôm lấy những người hấp hối bên lề đường. Các ngài đã "cho đi" tất cả, đã "tha thứ" tất cả, và không "xét đoán" ai. Các ngài đã trở nên trong suốt để lòng thương xót của Chúa Cha chiếu qua các ngài mà đến với thế giới. Chúng ta cũng được mời gọi tiếp bước các ngài ngay trong môi trường sống hiện tại của mình.

Trong gia đình, lòng thương xót là sự kiên nhẫn trước những thiếu sót của người bạn đời, là sự bao dung trước sự bướng bỉnh của con cái, là sự hiếu kính và chăm sóc cha mẹ già yếu. Đừng biến gia đình thành tòa án nơi vợ chồng tố cáo lỗi lầm của nhau, nhưng hãy biến nó thành mái ấm của sự cảm thông. Trong giáo xứ, lòng thương xót là sự cộng tác, gạt bỏ những t hiềm khích cá nhân để cùng lo việc chung, là sự quan tâm đến những người bị bỏ rơi, những người khô khan nguội lạnh. Thay vì xầm xì bàn tán về đời tư của người khác, hãy cầu nguyện cho họ. Ngoài xã hội, lòng thương xót là sự trung thực trong làm ăn nhưng cũng đầy tình người đối với người lao động nghèo, là ánh mắt tôn trọng dành cho người phục vụ, là sự giúp đỡ kín đáo cho những mảnh đời bất hạnh.

Thưa anh chị em, Chúa Giêsu kết thúc bài huấn dụ bằng quy luật "Cái đấu". Cái đấu chúng ta dùng để đong cho người khác chính là cái đấu Chúa sẽ dùng để đong cho chúng ta. Nếu hôm nay chúng ta cảm thấy cuộc đời quá khắc nghiệt với mình, hãy thử nhìn lại xem "cái đấu" mình đang dùng với người khác có quá khắc nghiệt hay không? Nếu chúng ta khao khát lòng thương xót của Chúa, chúng ta phải trở thành máng chuyển thông lòng thương xót ấy. Không thể có một dòng sông nước ngọt chảy ra từ một nguồn nước mặn. Cũng vậy, không thể đón nhận lòng thương xót của Chúa vào một trái tim chai đá, dửng dưng.

Xin Chúa Thánh Thần, Đấng là Tình Yêu của Chúa Cha và Chúa Con, đốt lên trong lòng chúng ta ngọn lửa mến yêu nồng nàn. Xin cho mỗi người chúng ta, trong tháng Truyền Giáo này, dám can đảm bước ra khỏi "vùng an toàn" của sự ích kỷ, để đến với anh chị em mình bằng đôi tay rộng mở và trái tim bao dung. Để khi người khác nhìn vào cách chúng ta sống, cách chúng ta yêu thương, tha thứ và cho đi, họ có thể nhận ra bóng dáng của Cha trên trời – Đấng giàu lòng thương xót. Và khi đó, chính cuộc đời chúng ta đã là một bài giảng hùng hồn nhất về Tin Mừng Cứu Độ. Amen.

LỜI NGUYỆN TÍN HỮU

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Người hằng mong muốn mọi người nhận biết chân lý và được cứu độ. Trong tâm tình của tháng Truyền Giáo, và với khát khao trở nên chứng nhân của lòng thương xót Chúa, chúng ta cùng tha thiết dâng lời nguyện xin:

1.          "Anh em hãy có lòng thương xót như Cha anh em." Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh, hiền thê của Chúa Kitô. Xin cho các Mục tử và mọi thành phần Dân Chúa luôn sống và loan báo Tin Mừng bằng ngôn ngữ của tình yêu và lòng bao dung, để Giáo hội thực sự trở thành "bệnh viện dã chiến" chữa lành những vết thương của nhân loại.

Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

2.          "Sứ mạng của truyền giáo là lan tỏa tình yêu thương." Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các nhà thừa sai, những người đang dấn thân trên các cánh đồng truyền giáo đầy gian khổ. Xin Chúa ban cho các ngài sức mạnh, niềm vui và một trái tim rực lửa mến, để qua sự hiện diện đầy yêu thương của các ngài, nhiều người được nhận biết Thiên Chúa là Cha nhân hậu.

Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

3.          "Đừng xét đoán và đừng lên án." Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các nhà lãnh đạo quốc gia và cộng đồng xã hội. Xin cho họ biết kiến tạo hòa bình và công lý dựa trên sự tôn trọng phẩm giá con người, gạt bỏ những định kiến và hận thù, để xây dựng một thế giới huynh đệ, nơi mọi người biết cảm thông và nâng đỡ nhau.

Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

4.          "Anh em hãy tha thứ thì sẽ được thứ tha." Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang sống trong hận thù, chia rẽ, đặc biệt là các gia đình đang rạn nứt. Xin Lòng Thương Xót Chúa chạm đến trái tim họ, giúp họ can đảm buông bỏ sự tự ái để hàn gắn vết thương bằng sự tha thứ và đón nhận nhau.

Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

5.          "Hãy cho thì sẽ được thiên hạ cho lại." Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta. Xin cho mỗi người biết mở rộng lòng tay chia sẻ với những người nghèo khổ, bệnh tật và cô đơn, để qua những hành động bác ái cụ thể, chúng ta làm chứng cho Lòng Thương Xót Chúa giữa lòng đời hôm nay.

Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là Cha nhân từ, xin thương nhận những ước nguyện chân thành của đoàn con cái. Xin biến đổi trái tim chúng con nên giống Trái Tim Con Cha, để chúng con biết sống yêu thương, tha thứ và phục vụ, hầu làm cho Danh Cha cả sáng ở trần gian này. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Cộng đoàn: Amen.


 

Tháng 11: LÒNG THƯƠNG XÓT VÀ CÁNH CHUNG (THÁNG CÁC LINH HỒN)

·              Chủ đề: Thước đo cuối cùng là Tình Yêu.

·              Tin Mừng: Mát-thêu 25, 31-46 (Cuộc phán xét chung).

·              Định hướng: Vào ngày sau hết, chúng ta sẽ được xét xử dựa trên lòng thương xót mà ta đã dành cho những người bé mọn nhất.

 

CHỦ ĐỀ BÀI GIẢNG: THƯỚC ĐO CUỐI CÙNG LÀ TÌNH YÊU

DẪN VÀO THÁNH LỄ

Hôm nay, chúng ta quy tụ nơi đây trong bầu khí linh thiêng và trầm mặc của tháng Mười Một, tháng mà Giáo Hội dành riêng để tưởng nhớ và cầu nguyện cho các linh hồn. Giữa những ngày cuối cùng của năm phụng vụ, Lời Chúa mời gọi chúng ta hướng cái nhìn về Cánh Chung, về điểm đến cuối cùng của cuộc đời mỗi người. Đó không phải là một viễn cảnh đáng sợ để làm chúng ta run rẩy, mà là một khoảnh khắc của sự thật trần trụi, nơi mọi mặt nạ trần thế được gỡ bỏ, và giá trị đích thực của đời người được phơi bày.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu vẽ ra trước mắt chúng ta bức tranh về cuộc Phán Xét Chung. Tại đó, không có chỗ cho những danh vọng hão huyền hay những thành tích thế tục. Tại đó, Vị Thẩm Phán Tối Cao chỉ dùng một thước đo duy nhất để định đoạt số phận đời đời của mỗi người: đó là Lòng Thương Xót. Ngài sẽ không hỏi chúng ta đã nói gì, đã hứa gì, nhưng là chúng ta đã yêu thương như thế nào đối với những người bé mọn nhất.

Hiệp dâng Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các linh hồn đã qua đời được hưởng lòng thương xót Chúa. Đồng thời, xin cho mỗi người chúng ta biết sống tỉnh thức, biết nhận ra khuôn mặt của Chúa nơi những người nghèo khổ, bệnh tật và bị bỏ rơi chung quanh mình, để khi ngày sau hết đến, chúng ta được nghe lời chúc phúc ngọt ngào: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi."

Giờ đây, để xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh, chúng ta hãy thành tâm sám hối tội lỗi, đặc biệt là những lần chúng ta đã vô cảm, thờ ơ trước nỗi đau của anh chị em mình.

TIN MỪNG: Mát-thêu 25, 31-46

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mát-thêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái.

Bấy giờ Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: 'Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến hỏi han'.

Bấy giờ những người công chính thưa rằng: 'Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước, hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?'

Vua đáp lại: 'Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy'.

Rồi Người cũng sẽ phán cùng những kẻ ở bên trái rằng: 'Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên ma quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng'.

Bấy giờ những người ấy cũng thưa rằng: 'Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?'

Bấy giờ Người đáp lại: 'Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất này, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy'.

Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời".

Đó là Lời Chúa.

BÀI GIẢNG

Kính thưa quý ông bà và anh chị em,

Trong bầu khí trầm lắng của những ngày tháng Mười Một, khi những chiếc lá vàng rơi rụng nhắc nhở chúng ta về sự mong manh của kiếp người, và khi những nấm mộ ngoài nghĩa trang được thắp lên những ngọn nến lung linh của lòng hiếu thảo, Giáo Hội mời gọi chúng ta dừng lại để suy ngẫm về cùng đích của cuộc đời. Chúng ta đang sống trong một thế giới mà mọi thứ dường như đều được đo đếm bằng những con số, bằng hiệu suất, bằng lợi nhuận và danh tiếng. Con người ngày nay thường được đánh giá qua chiếc xe họ đi, ngôi nhà họ ở, chức vụ họ nắm giữ hay số tài sản họ sở hữu trong ngân hàng. Nhưng Lời Chúa hôm nay, qua dụ ngôn về cuộc phán xét chung đầy uy nghi và chấn động, đã đảo lộn hoàn toàn mọi thang giá trị của trần gian, đưa chúng ta đối diện với một sự thật cốt lõi, một chân lý vĩnh hằng: Vào buổi hoàng hôn của cuộc đời, chúng ta sẽ được xét xử dựa trên Tình Yêu.

Bài Tin Mừng theo thánh Mát-thêu mà chúng ta vừa nghe không phải là một câu chuyện cổ tích xa vời, cũng không phải là một lời đe dọa nhằm gieo rắc nỗi sợ hãi. Đó là một bức màn được vén lên, cho chúng ta thấy trước kịch bản của ngày cuối cùng, ngày mà mọi bí mật của tâm hồn sẽ được phơi bày dưới ánh sáng chói lòa của Thiên Chúa. Hình ảnh Vị Vua vinh hiển ngự trên ngai, tách biệt chiên và dê, mang một sức mạnh biểu tượng ghê gớm. Nó nhắc nhở chúng ta rằng, cuộc đời này tuy ngắn ngủi nhưng lại mang một sức nặng vĩnh cửu; rằng những lựa chọn của chúng ta trong từng khoảnh khắc hiện tại sẽ định hình số phận của chúng ta mãi mãi. Và điều đáng kinh ngạc nhất trong phiên tòa vĩ đại ấy không phải là sự uy nghiêm của Vị Thẩm Phán, mà là tiêu chuẩn để Ngài đưa ra phán quyết. Ngài không hỏi chúng ta đã đọc bao nhiêu cuốn sách đạo đức, đã tham dự bao nhiêu nghi lễ, hay đã giữ những chức vụ gì trong cộng đoàn. Ngài cũng không tra cứu xem chúng ta có bao nhiêu bằng cấp thần học hay đã làm được những công trình vĩ đại nào để lưu danh hậu thế. Câu hỏi duy nhất, thước đo duy nhất, lại nằm ở những việc làm rất đỗi bình thường, nhỏ bé, thậm chí là tầm thường trong mắt người đời: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, tiếp rước khách lạ, cho người trần truồng ăn mặc, thăm viếng kẻ ốm đau và người tù rạc.

Điều làm cho dụ ngôn này trở nên chấn động tâm can chính là sự ngạc nhiên của cả hai nhóm người: nhóm được chúc phúc và nhóm bị nguyền rủa. Cả hai đều đặt cùng một câu hỏi: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa...?" Sự ngạc nhiên này tiết lộ một mầu nhiệm sâu thẳm của đức tin Kitô giáo: sự ẩn mình của Thiên Chúa. Thiên Chúa không chỉ hiện diện trong những ngôi thánh đường nguy nga, trong những giờ kinh nguyện sốt sắng hay trong Bí tích Thánh Thể cực trọng. Ngài còn chọn ẩn mình trong những hình hài tiều tụy, rách rưới, đau khổ và bị loại trừ nhất của xã hội. Đây là mầu nhiệm Nhập Thể được kéo dài và mở rộng đến tận cùng. Đức Kitô đã tự đồng hóa mình không phải với những bậc vương giả quyền quý, mà với những kẻ bé mọn nhất. Ngài trở thành kẻ đói, kẻ khát, kẻ lưu vong, kẻ trần truồng, kẻ bệnh tật và tù tội. Vì thế, mọi hành động yêu thương hay chối từ mà chúng ta dành cho con người, đều là dành cho chính Thiên Chúa.

Hãy suy ngẫm về nhóm người được gọi là "những người công chính". Họ được chúc phúc không phải vì họ đã làm những điều phi thường, dời non lấp bể. Họ được chúc phúc vì họ đã có một trái tim biết rung cảm và một đôi tay biết hành động. Khi họ trao một chén nước lã, một manh áo cũ, hay một lời thăm hỏi ân cần, họ có thể chẳng hề nghĩ rằng mình đang phục vụ Chúa. Họ làm chỉ vì lòng trắc ẩn thôi thúc, vì thấy người anh em mình đau khổ thì không thể ngoảnh mặt làm ngơ. Chính cái tình yêu vô vị lợi, tự nhiên và chân thành ấy đã chạm đến trái tim của Thiên Chúa. Điều này dạy cho chúng ta rằng, tình yêu đích thực không cần phải to tính, không cần phải đợi đến khi có đủ điều kiện mới thực hiện. Tình yêu đích thực nằm ở khả năng nhìn thấy nỗi đau của người khác và sẵn sàng bước tới để xoa dịu, ngay cả khi không ai hay biết, ngay cả khi không nhận lại được lời cảm ơn nào. Thánh Gioan Thánh Giá đã từng nói một câu bất hủ: "Vào buổi chiều của cuộc đời, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu". Câu nói ấy hôm nay vang vọng lại trong lời phán quyết của Vua Tình Yêu: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc... Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn".

Ngược lại, hãy nhìn vào nhóm người "bị nguyền rủa". Bi kịch của họ nằm ở đâu? Có phải họ là những kẻ gian ác, giết người cướp của, hay phỉ báng Thiên Chúa không? Bài Tin Mừng không hề liệt kê những tội ác tày trời của họ. Tội của họ, đau đớn thay, lại là tội "không làm gì cả". Đó là tội của sự thiếu sót, tội của sự vô cảm và thờ ơ. Họ không đánh đập người ăn xin, họ chỉ đi qua mà không nhìn thấy. Họ không chế giễu người đói khát, họ chỉ bận rộn với những toan tính riêng tư của mình. Họ không xua đuổi người khách lạ, họ chỉ đóng chặt cánh cửa lòng mình lại. Họ sống trong một cái vỏ bọc an toàn, sạch sẽ, đạo đức theo kiểu giữ lề luật, nhưng trái tim họ đã nguội lạnh. Họ có thể vẫn đi lễ, vẫn đọc kinh, nhưng mắt họ đã mù lòa trước sự hiện diện của Chúa trong tha nhân. Đây là một lời cảnh tỉnh nghiêm khắc cho mỗi người chúng ta trong thế giới hiện đại hôm nay. Chúng ta đang sống trong một nền văn hóa của sự dửng dưng, nơi mà chiếc điện thoại thông minh, mạng xã hội và những thú vui cá nhân dễ dàng làm chúng ta xao lãng khỏi những con người bằng xương bằng thịt đang hiện diện ngay bên cạnh. Chúng ta dễ dàng rơi nước mắt trước một bộ phim cảm động, nhưng lại ráo hoảnh trước nỗi khổ của người hàng xóm. Chúng ta có thể hào phóng đóng góp cho những quỹ từ thiện xa xôi để lấy tiếng thơm, nhưng lại keo kiệt một nụ cười, một lời tha thứ cho người thân trong gia đình. Tội lớn nhất của thời đại này, có lẽ không phải là sự thù hận, mà là sự vô cảm. Vô cảm là cái chết của linh hồn trước khi cái chết của thân xác ập đến.

Thưa cộng đoàn, tháng Mười Một và bài Tin Mừng về cuộc phán xét chung đặt chúng ta trước một tấm gương lớn để soi lại chính mình. "Thước đo cuối cùng là Tình Yêu" - điều này có nghĩa là gì trong cuộc sống cụ thể của chúng ta hôm nay? Nó có nghĩa là đức tin không thể chỉ dừng lại ở những tín điều khô cứng hay những cảm xúc đạo đức nhất thời. Đức tin phải được diễn tả qua đôi tay và đôi chân. Một đức tin không có việc làm là một đức tin chết, như thánh Giacôbê đã khẳng định. Chúng ta không thể nói mình yêu mến Thiên Chúa, Đấng vô hình, nếu chúng ta không yêu thương người anh em hữu hình đang ở ngay bên cạnh. Và người "bé mọn nhất" mà Chúa nói đến hôm nay là ai? Có thể đó không chỉ là những người ăn xin ngoài phố chợ. Người bé mọn ấy có thể chính là người chồng, người vợ đang khao khát sự lắng nghe và cảm thông của bạn đời sau một ngày mệt nhọc. Người bé mọn ấy có thể là đứa con đang cần sự kiên nhẫn và dìu dắt của cha mẹ thay vì những lời quát mắng. Người bé mọn ấy có thể là người cha, người mẹ già nua lẩm cẩm, cần sự chăm sóc ân cần của con cái. Người bé mọn ấy có thể là một người đồng nghiệp đang bị cô lập, một người hàng xóm khó tính, hay thậm chí là một kẻ thù đang cần sự tha thứ. Chúa đang ẩn mình trong những con người đó, những con người làm phiền chúng ta, làm mất thời gian của chúng ta, làm đảo lộn kế hoạch của chúng ta. Mỗi lần chúng ta kiên nhẫn, bao dung, chia sẻ và tha thứ cho họ, là chúng ta đang tích lũy kho tàng trên trời, là chúng ta đang viết nên bản án phúc thẩm cho chính mình trong ngày sau hết.

Nhìn về các đẳng linh hồn nơi luyện ngục, chúng ta cũng thấy rõ hơn ý nghĩa của bài học này. Giáo lý Hội Thánh dạy rằng luyện ngục là nơi thanh luyện cuối cùng của tình yêu. Những linh hồn ở đó đã được cứu độ, nhưng tình yêu của họ dành cho Chúa và tha nhân khi còn sống chưa được trọn vẹn, còn vương vấn những ích kỷ, những bụi bặm của trần thế. Lửa luyện ngục chính là ngọn lửa của tình yêu Chúa, thiêu đốt mọi tàn tích của tội lỗi để linh hồn trở nên tinh ròng như vàng thử lửa. Khi chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn, chúng ta không chỉ làm một việc bác ái thiêng liêng lớn lao, mà còn được nhắc nhở rằng: hãy yêu thương ngay từ bây giờ, hãy thanh luyện trái tim ngay trong kiếp sống này, đừng đợi đến khi quá muộn. Mỗi hy sinh nhỏ bé, mỗi lời kinh nguyện, mỗi việc lành chúng ta làm để chỉ cho các linh hồn, cũng chính là cách chúng ta thực thi lòng thương xót mà Chúa Giêsu mời gọi trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là mầu nhiệm hiệp thông các thánh, nơi tình yêu vượt qua ranh giới của sự chết.

Cuộc sống trần gian là một hành trình chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ vĩ đại ấy. Chúng ta không biết ngày nào, giờ nào Chúa sẽ đến. Có thể là đêm nay, có thể là ngày mai, hoặc mười năm, hai mươi năm nữa. Nhưng điều chắc chắn là Ngài sẽ đến. Và khi Ngài đến, Ngài không tìm kiếm những ngôi nhà lầu xe hơi, Ngài không tìm kiếm những tấm huy chương hay bằng khen. Ngài tìm kiếm dấu ấn của Tình Yêu trong tâm hồn chúng ta. Ngài sẽ nhìn vào đôi tay chúng ta xem có chai sần vì phục vụ không, hay vẫn trắng trẻo vì chỉ biết giữ gìn cho riêng mình. Ngài sẽ nhìn vào đôi mắt chúng ta xem có còn vương lệ vì đã khóc thương người khác không, hay ráo hoảnh vì sự vô tâm. Chúa Giêsu, Vị Thẩm Phán nhân từ nhưng công thẳng, hôm nay đang trao cho chúng ta chìa khóa của Nước Trời. Chìa khóa ấy không được làm bằng vàng bạc, mà được đúc bằng lòng thương xót. Đừng để chiếc chìa khóa ấy bị rỉ sét vì sự lười biếng và ích kỷ.

Mỗi ngày sống là một trang sách mà chúng ta đang viết nên, và trang cuối cùng sẽ là bản tổng kết của mọi trang trước đó. Đừng để trang cuối cùng ấy là một sự hối tiếc muộn màng: "Giá như tôi đã yêu thương nhiều hơn". Hãy bắt đầu ngay hôm nay, ngay lúc này. Đừng chờ đợi một cơ hội lớn lao nào đó mới làm việc thiện, vì cuộc đời được dệt nên từ những điều nhỏ bé. Một nụ cười khích lệ, một cái bắt tay nồng ấm, một sự im lặng cảm thông, một sự giúp đỡ âm thầm... tất cả đều là những hạt giống của Nước Trời được gieo vào lòng đất nhân gian. Chúng ta hãy nhớ rằng, Thiên Chúa giàu lòng thương xót, nhưng Ngài cũng là Chân Lý. Ngài không thể phủ nhận chính mình. Nếu bản chất của Thiên Chúa là Tình Yêu (Deus Caritas Est), thì những ai muốn thuộc về Ngài, muốn ở lại trong Ngài muôn đời, không thể mang một bản chất nào khác ngoài Tình Yêu. Chúng ta không thể mang một trái tim đầy ghen ghét, hận thù, chia rẽ và dửng dưng vào Thiên Đàng, vì như thế Thiên Đàng sẽ không còn là Thiên Đàng nữa. Vì vậy, việc thực thi bác ái không chỉ là một mệnh lệnh đạo đức, mà là điều kiện sinh tử, là "vé thông hành" duy nhất để bước vào sự sống vĩnh cửu.

Trong tháng Cầu cho các linh hồn này, chúng ta hãy xin Chúa mở mắt đức tin cho chúng ta, để chúng ta nhận ra Chúa đang hiện diện dưới muôn ngàn khuôn mặt khổ đau của kiếp người. Xin Chúa đốt lên trong lòng chúng ta ngọn lửa của lòng mến, để thiêu rụi sự lạnh lùng và vô cảm. Xin cho chúng ta hiểu rằng, cuối cùng, tất cả sẽ qua đi: tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, sức khỏe... chỉ có Tình Yêu là ở lại. Và chính Tình Yêu đó sẽ là tiếng nói biện hộ mạnh mẽ nhất cho chúng ta trước toà Chúa. "Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết yêu thương, không


 

Tháng 12: MẦU NHIỆM NHẬP THỂ - QUÀ TẶNG LÒNG THƯƠNG XÓT

·              Chủ đề: Thiên Chúa viếng thăm dân Người.

·              Tin Mừng: Luca 1, 67-79 (Bài ca Benedictus - "Nhờ dạ đông thương xót của Chúa chúng ta...").

·              Định hướng: Giáng sinh là bằng chứng vĩ đại nhất của LCTX: Thiên Chúa không bỏ mặc con người trong bóng tối tử thần nhưng đã mang Ánh Sáng đến viếng thăm.

CHỦ ĐỀ BÀI GIẢNG THIÊN CHÚA VIẾNG THĂM DÂN NGƯỜI.

DẪN VÀO THÁNH LỄ

Hôm nay, khi chúng ta tụ họp tại đây, tâm hồn mỗi người đang hướng về một trong những mầu nhiệm cao cả và dịu dàng nhất của đức tin: Mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Cùng với Giáo Hội, chúng ta đang bước sâu vào Mùa Vọng – mùa của sự chờ đợi linh thánh, mùa của niềm hy vọng, và trên hết, là mùa chiêm ngắm quà tặng vĩ đại nhất mà Lòng Thương Xót Thiên Chúa đã ban tặng cho nhân loại.

Chủ đề xuyên suốt Thánh Lễ hôm nay gói gọn trong một mệnh đề đầy ý nghĩa: “Thiên Chúa viếng thăm dân Người.” Sự viếng thăm này không chỉ là một sự kiện lịch sử xảy ra hai ngàn năm trước tại Bê-lem, mà còn là một thực tại sống động, đang diễn ra trong từng khoảnh khắc đời sống của mỗi người chúng ta. Nó là lời khẳng định hùng hồn rằng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi tạo vật của Ngài; Ngài không để con người phải mò mẫm trong bóng tối của tội lỗi và sự chết, nhưng đã đích thân mang Ánh Sáng đến, chiếu rọi và sưởi ấm tâm hồn.

Chúng ta hãy dâng Thánh Lễ này lên Thiên Chúa Cha, qua Đức Giêsu Kitô, Con Một Ngài – Người Con đã trở nên giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi, để nhờ “dạ đông thương xót” của Ngài, chúng ta được giải thoát khỏi bóng đêm của sợ hãi và bước đi trên đường nẻo bình an. Xin cho Thánh Lễ này là lời tạ ơn chân thành và là lời cầu xin tha thiết để mỗi người chúng ta trở nên những chứng nhân sống động cho sự Viếng Thăm đầy Lòng Thương Xót ấy.

BÀI TIN MỪNG

Bài trích Tin Mừng theo Thánh Lu-ca:

Bấy giờ, ông Da-ca-ri-a, thân phụ Gio-an, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng:

“Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en, bởi Người đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta, từ dòng dõi vua Đa-vít, tôi tớ Người, như Người đã dùng miệng các vị ngôn sứ thời xưa mà phán hứa. Người đã cứu chúng ta thoát khỏi kẻ thù, thoát khỏi tay mọi người ghét bỏ ta. Người đã thực hiện lòng thương xót đối với cha ông chúng ta, và nhớ lại lời xưa Người đã thề với tổ phụ Áp-ra-ham, rằng sẽ cho chúng ta thoát khỏi tay địch thù, và không còn sợ hãi gì nữa, để chúng ta suốt đời phụng thờ Người trong sự thánh thiện, công chính, trước nhan Người.

“Phần ngươi, hỡi hài nhi, ngươi sẽ được gọi là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: ngươi sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, để dân Người biết rằng Thiên Chúa cứu độ là tha thứ cho chúng hết mọi tội khiên.

“Nhờ dạ đông thương xót của Chúa chúng ta, từ trời cao, Vầng Đông xuất hiện, chiếu soi những ai ngồi trong bóng tối và trong bóng tử thần, dẫn bước chúng ta trên đường nẻo bình an.”

Đó là Lời Chúa.

BÀI GIẢNG

Bài ca Benedictus của ông Da-ca-ri-a mà chúng ta vừa nghe vang lên trong Tin Mừng hôm nay không chỉ là lời ca ngợi vui mừng của một người cha vừa được tái lập khả năng nói, mà là một bản tuyên ngôn thần học sâu sắc, gói trọn lịch sử cứu độ và mở ra cho chúng ta ánh nhìn về mầu nhiệm Giáng Sinh sắp tới. Cụm từ trung tâm, lặp đi lặp lại và định hình toàn bộ ý nghĩa của mùa này, chính là: “Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người” và “Nhờ dạ đông thương xót của Chúa chúng ta.”

Chúng ta hãy dừng lại chiêm nghiệm về “dạ đông thương xót” này. Trong tiếng Hy Lạp, từ được dùng ở đây mang ý nghĩa không chỉ là lòng trắc ẩn, mà là cảm xúc sâu thẳm, xuất phát từ tận đáy lòng, từ bộ phận nội tạng. Đó là một tình yêu không chỉ bằng lý trí hay ý chí, mà bằng cả sự rung động, bằng cả tâm can của Thiên Chúa. Ngài thương xót không phải vì chúng ta xứng đáng, mà vì Ngài là Tình Yêu. Chính từ cái “dạ đông thương xót” vô tận ấy mà mọi công trình cứu độ đã được khai mở, và đỉnh cao của nó chính là mầu nhiệm Nhập Thể.

Mầu nhiệm Nhập Thể, sự kiện Con Thiên Chúa mặc lấy xác phàm, chính là bằng chứng vĩ đại nhất, không thể chối cãi, về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa đối với nhân loại. Thiên Chúa đã không gửi một thiên sứ, một lời nhắn nhủ từ xa, hay một sắc lệnh cưỡng chế. Ngài đã tự hạ mình đến mức cùng cực, tự mình bước vào lịch sử đầy rẫy khổ đau và giới hạn của chúng ta. Ngài đã “viếng thăm” – một động từ hàm chứa sự chủ động, sự quan tâm cá vị và hành động can thiệp trực tiếp.

Sự viếng thăm này có mục đích rõ ràng, như lời Da-ca-ri-a đã hát: đó là “chiếu soi những ai ngồi trong bóng tối và trong bóng tử thần.” Kể từ khi con người sa ngã, nhân loại đã sống trong một trạng thái gọi là “bóng tối tử thần.” Bóng tối ấy không chỉ là sự thiếu vắng ánh sáng vật lý, mà là sự thiếu vắng ơn thánh, là nỗi sợ hãi về sự hữu hạn, về sự hư vô sau cái chết, là sự nô lệ cho tội lỗi và sự dữ. Bóng tối đó là nơi tuyệt vọng ngự trị, nơi con người không còn khả năng tự mình tìm ra lối thoát hay đường nẻo bình an.

Chúa Giêsu đến, Ngài không chỉ là một ngọn nến le lói trong đêm đen, Ngài là Vầng Đông, là Ánh Sáng vĩnh cửu. Sự giáng sinh của Ngài xé toạc bức màn đen tối của sự chết, không phải bằng sức mạnh vũ bão, mà bằng sự yếu đuối của một hài nhi. Trong hang đá Bê-lem, trong cái máng cỏ đơn sơ, Lòng Thương Xót đã trở thành xác phàm. Sự viếng thăm của Thiên Chúa đã mang lại sự gần gũi đến mức không thể gần gũi hơn. Thiên Chúa của vũ trụ đã chọn ở giữa chúng ta, sống như chúng ta, để chúng ta có thể sống như Ngài.

Giáng Sinh, vì thế, không chỉ là lễ kỷ niệm ngày sinh nhật của Chúa, mà là lễ hội của Lòng Thương Xót. Nó là một lời mời gọi khẩn thiết đến mỗi người chúng ta: hãy để Vầng Đông ấy chiếu soi vào những góc khuất, những bóng tối trong tâm hồn mình. Có lẽ đó là bóng tối của sự nghi ngờ, của sự thù hận, của thói quen tội lỗi dai dẳng, hay của nỗi cô đơn vô vọng trong một thế giới quá đông đúc.

Thiên Chúa viếng thăm dân Người. Điều đó có ý nghĩa gì đối với chúng ta ngày hôm nay, những người đang sống trong thế kỷ hai mốt?

Thứ nhất, đó là lời mời gọi thay đổi tầm nhìn. Chúng ta thường nhìn thế giới qua lăng kính của sự công bằng và xứng đáng. Chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ hành động khi chúng ta cầu nguyện đủ, khi chúng ta xứng đáng nhận được. Nhưng Da-ca-ri-a đã dạy chúng ta điều ngược lại: Thiên Chúa hành động nhờ “dạ đông thương xót.” Ngài ban ơn trước khi chúng ta cầu xin, Ngài yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta còn là tội nhân. Nhận thức này giải phóng chúng ta khỏi áp lực phải tự cứu lấy mình, và thay vào đó, đặt niềm tin trọn vẹn vào sự tha thứ và cứu độ của Ngài.

Thứ hai, đó là lời mời gọi sống trong ánh sáng và bình an. Lòng Thương Xót của Chúa Giêsu không chỉ tha thứ tội lỗi, mà còn “dẫn bước chúng ta trên đường nẻo bình an.” Bình an đó không phải là sự vắng mặt của chiến tranh hay rắc rối, mà là sự hiện diện của Thiên Chúa ở trung tâm đời sống. Trong những tháng ngày cuối năm này, khi cuộc sống bộn bề với lo toan công việc, gia đình, hay những gánh nặng tài chính, chúng ta cần nhớ rằng sự Viếng Thăm của Chúa đã đặt một nền tảng bình an không gì lay chuyển được. Bình an ấy được tìm thấy khi chúng ta cam kết sống “trong sự thánh thiện, công chính, trước nhan Người,” như lời Da-ca-ri-a đã nói.

Thứ ba, và đây là điều quan trọng nhất: chúng ta được mời gọi trở thành nơi Chúa viếng thăm người khác. Khi chúng ta đã được Vầng Đông chiếu soi, chúng ta không thể giữ ánh sáng đó cho riêng mình. Lòng Thương Xót mà chúng ta nhận được phải được tuôn đổ ra. Mùa Vọng và Giáng Sinh không chỉ là mùa nhận quà, mà là mùa trở thành quà tặng.

Để đáp lại "dạ đông thương xót" của Chúa, chúng ta phải trở nên những dụng cụ của sự viếng thăm ấy. Chúng ta viếng thăm người bệnh tật và cô đơn; chúng ta viếng thăm những người đang bị giam hãm bởi tuyệt vọng hay nghiện ngập; chúng ta viếng thăm những người đang ngồi trong “bóng tử thần” của nghèo đói và bất công. Mỗi hành động bác ái, mỗi lời nói khích lệ, mỗi cử chỉ tha thứ chính là một lần Lòng Thương Xót của Thiên Chúa được thể hiện qua đôi tay, qua đôi mắt của chúng ta.

Hãy nhìn lại cuộc đời của Da-ca-ri-a. Ông đã câm lặng vì thiếu niềm tin, nhưng khi Lòng Thương Xót của Chúa đến đỉnh điểm với sự ra đời của Gio-an Tẩy Giả, miệng lưỡi ông được mở ra để cất lên lời ca ngợi. Sự im lặng của ông tan biến trong niềm vui của sự viếng thăm. Đó cũng là lời mời gọi cho chúng ta: hãy để tiếng nói của sự than vãn, của sự ích kỷ, của sự oán trách trong chúng ta được thay thế bằng bài ca ngợi khen và loan báo Lòng Thương Xót của Chúa.

Trong những ngày còn lại của Mùa Vọng, chúng ta hãy chuẩn bị không chỉ bằng việc trang trí nhà cửa, mà bằng việc trang hoàng tâm hồn. Hãy dọn sạch những rác rưởi của quá khứ, những đống đổ nát của hận thù, để làm một máng cỏ ấm áp và trong sạch cho Chúa Hài Đồng.

Chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta ơn can đảm để nhận ra sự Viếng Thăm của Ngài không chỉ trong những phép lạ lớn lao, mà còn trong những khoảnh khắc đời thường: trong tiếng chuông nhà thờ, trong nụ cười của một người xa lạ, trong sự tha thứ của người thân, và đặc biệt, trong Bí Tích Thánh Thể mà chúng ta sắp tham dự.

Xin Chúa Giêsu Kitô, Vầng Đông chiếu soi nhân loại, soi sáng cho chúng ta, dẫn chúng ta trên đường nẻo bình an, và biến mỗi người chúng ta thành ánh sáng nhỏ bé, phản chiếu Lòng Thương Xót vô biên của Ngài cho thế giới. Amen.

LỜI NGUYỆN TÍN HỮU

Chủ tế: Anh chị em thân mến, nhờ dạ đông thương xót của Chúa chúng ta, từ trời cao, Vầng Đông đã xuất hiện, viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Trong niềm hân hoan chờ đón Con Thiên Chúa giáng trần, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.

1.          Cầu cho Hội Thánh. Xin cho Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, Linh Mục và toàn thể Hội Thánh, luôn ý thức về hồng ân Nhập Thể là bằng chứng tột cùng của Lòng Thương Xót, để Giáo Hội trở nên máng cỏ thiêng liêng, nơi Lời Chúa được nuôi dưỡng và lan tỏa, dẫn dắt mọi người tìm thấy đường nẻo bình an. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

2.          Cầu cho các nhà lãnh đạo và hòa bình thế giới. Xin cho các nhà lãnh đạo trên thế giới biết lắng nghe Lời Chúa, từ bỏ mọi bóng tối của hận thù và xung đột, để họ hành động với lòng công chính và bác ái, kiến tạo một nền hòa bình đích thực cho nhân loại, nhất là tại những vùng đang chìm trong “bóng tử thần” của chiến tranh. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

3.          Cầu cho những người đang gặp khó khăn. Xin Chúa nhân lành ghé thăm và ủi an những người đang phải ngồi trong bóng tối của bệnh tật, nghèo đói, cô đơn, tuyệt vọng, hay đang chịu đựng hậu quả của thiên tai, dịch bệnh. Xin cho họ cảm nhận được sự gần gũi và yêu thương của Chúa qua những bàn tay giúp đỡ của cộng đoàn Kitô hữu. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

4.          Cầu cho việc hoán cải cá nhân. Xin cho mọi Kitô hữu trong Mùa Vọng này biết dọn lòng thật sốt sắng, thanh tẩy những góc khuất trong tâm hồn, để Lòng Thương Xót của Chúa được chiếu soi mạnh mẽ, giúp chúng ta can đảm sống đời thánh thiện, công chính, và trở nên chứng nhân của niềm hy vọng giữa thế gian. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

5.          Cầu cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta. Xin cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta biết thể hiện “dạ đông thương xót” của Chúa trong đời sống hằng ngày, bằng cách tha thứ cho nhau, phục vụ nhau, và cùng nhau chu toàn sứ mạng mở lối cho Chúa, để nhiều người nhận biết Chúa Cứu Độ là Đấng tha thứ mọi tội khiên. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

6.          Cầu cho các linh hồn đã qua đời. Xin Chúa đón nhận các linh hồn đã qua đời, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Thương Xót Chúa, vào nơi Ánh Sáng vĩnh cửu, để họ được chiêm ngưỡng dung nhan Chúa và hưởng phúc bình an muôn đời. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

Chủ tế: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Cha đã ban Con Một Cha đến viếng thăm chúng con và cứu chuộc chúng con nhờ lòng thương xót vô biên. Xin lắng nghe những lời chúng con nguyện xin và ban cho chúng con ơn biết sống xứng đáng với hồng ân Nhập Thể cao quý này. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.

 

Tác giả: