Nhảy đến nội dung

Báo hiếu

  BÁO HIẾU( LỄ VU LAN )

        Vu lan theo nghĩa tiếng Việt là “đến cõi không”, nhớ đến người đã khuất, là người thân của người theo đạo Phật (Phật tử). Vu –lan theo nghĩa tiếng hán –phạn có nghĩa là (                Sa. Ullambana ) ,có nghĩa là Lễ Báo Hiếu.

        Vu –lan là từ viết tắt của Vu-lan-bồn, cũng được gọi là Ô-lam-bà-noa là cách phiên âm Phạn- Hán từ danh từ ullambana.Ullambana có gốc từ động từ ud- lamb, nghĩa là “treo (ngược) lên”. Các nhà sư Trung Quốc cũng dùng  từ Đảo Huyền, nghĩa là treo ngược lên cho từ Vu- lan hoặc dùng từ Giải Đảo Huyền , được các nhà sư Trung Quốc lấy từ câu Dân chi duyệt chi do giải Đảo Huyền giả: chỉ sự giải thoát cho kẻ ở cảnh giới địa ngục.

      Như vậy Vu –lan  là lễ( mùa )Báo Hiếu. mặc nhiên báo hiếu là phải liên hệ đến “cõi không”

Nghĩa Vu-lan. Như vậy ,từ Vu-lan không phải nghĩa tiếng Việt, nhưng suy qua Tiếng Việt cũng có ý nghĩa vậy . Vu- lan có nghãi là Báo- Hiếu.

      Báo hiếu là đền đáp công ơn của cha mẹ., cha mẹ là người sinh ra ta bằng thân xác, cùng với sự sống của Đấng Tạo Hóa. Nuôi nấng dạy dỗ, trong suốt một thời gian dài, từ lúc tượng thai trong lòng chín tháng mười ngày đến lúc sinh nở. Sinh ra đỏ hỏn, nhỏ bé, yếu ớt, nếu không có cha mẹ,những người mang trách nhiệm là cha mẹ, săn sóc, thì làm sao ta được thành người.Một quá trình thật dài và vô cùng vất vả gian nan..Xét về phương diện hữu hình, thì cha mẹ chính là chúa của ta, bởi vì không còn điều gì cao cả thuộc phương diện hữu hình hơn cha mẹ của ta được.

Suy về lý lẽ đó, nên chi, người chưa nhận biết Thiên Chúa thì họ thờ ông bà ,cha mẹ. Gọi là đạo ông bà, hay bên lương.. Lương có nghĩa là họ chỉ biết tới lương thiện trong cuộc sống nầy, lương là lương tâm nghĩa là chỉ biết sống theo điều lương tâm mách bảo mà thôi. Ngoài lương tâm ra họ không được mặc khải điều gì khác.

Khi Đạo Phật được truyền bá sang Việt Nam, họ được mở ra cho biết thêm một đạo lương tâm, từ bi hỷ xả, do Đức Phật ngộ ra, lập nên một đường lối có phương pháp,có học thuyết.Từ đó tư tưởng của Phật được truyền bá, nhưng đạo Phật không phải là tôn giáo mặc khải. Nghĩa là do con người lập nên, không do từ trên ban xuống, không đến từ Thiên Chúa. Nhưng là tôn giáo hướng thiện và từ bi, đặt nơi lương tâm con người lòng khao khát cái thiện.Tuy nhiên , mọi tư tưởng của Phật giáo nhằm giúp con người đạt đến cõi siêu linh, niết bàn. Đức Phật Thích Ca là vị Phật tổ sáng lập nên đạo Phật, vì vậy Đức Phật cũng chỉ là con người và được sinh ra từ con người. Vì vậy Phật giáo cũng chỉ hướng đến với một con người tu tập thành Phật( Phật có nghĩa là chẳng phải là người, có ý nói sống khác người bình thường.) và tất nhiên theo quy luật con người của Phật cũng phải hướng đến Thượng Đế,Đấng sinh thành vạn vật. đó là Thiên Chúa vô biên, Đấng Tối Cao, vì Phật cũng phải tin là có trời, đất, vũ trụ càn khôn.Nhưng Phật không được Thiên Chúa mặc khải những mầu nhiệm từ trời. Dù vậy, có thể nói đạo Phật là một mầu nhiệm phổ quát của thiên Chúa, vì Phật vẫn là sự giới hạn của con người, có nghĩa là Phật cũng do Trời mà thành và từ nơi con người hướng đến điều chân, thiện, mỹ, còn Đạo Thiên Chúa từ trời mà đến.sự thật nầy không thể phủ nhận. Sự xuất hiện của Phật là do từ nơi con người, không do từ bên trên, mà do từ lòng thành tự nhiên đạt đến một mức độ hoàn hảo mà thành, gọi là giác ngộ, tự nhận ra do ý thức tự nhiên mà thành, như “hữu xạ tự nhiên hương”, không có Đấng che chở và hướng dẫn. Vì vậy, tu thành Phật và tu theo Phật là cả một quá trình không đơn giản. Tự tâm cần phải có một sự phấn đấu cam go.

Từ đó khi đã ngộ đạo, hành đạo và đắc đạo, thì Phật xuất linh hồn đến nơi cực lạc, siêu nhiên, đó là luật tự nhiên, luật nhân quả mà thành. Có nghĩa là gieo nhân nào,gặt quả ấy. Rõ ràng, Phật vẫn còn ở nơi giới hạn nhất định trong vũ trụ.

Con người tự nhiên được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, vì vậy, con người đều có tánh linh,sự linh thiêng của linh hồn bất tử. Vì vậy khi ngộ đạo, Đức Phật suy tưởng một triết lý thật thâm sâu là từ bi, hỷ xả, muốn vậy con người phải từ bỏ chính mình, có nghĩa là tư tưởng của Đức Phật cũng đi tìm điều chân, thiện, mỹ, tư tưởng nầy cũng nằm trong đường lối của Thiên Chúa.Vì mọi sự thiện hảo đều trở về một nguồn cội. Đó là Thiên  Chúa.

Thiên Chúa truyền dạy cho con người phải thảo kính cha mẹ, điều răn thứ 4, trong sách Xuất Hành cũng day rằng : “ Ngươi phải thảo kính cha mẹ ngươi, để được đất và trường thọ” (Xh 20,12). Đó là giới răn thứ nhất dành cho con người, như vậy, trong vũ trụ không gì quí hơn cha mẹ, ông bà. Xem sách Giảng viên (Huấn Đạo) (chương 3, câu 1- 18). Như vậy, từ khởi nguyên Thiên Chúa đã dạy con người phải hiếu kính cha mẹ,đấng sinh thành, dưỡng dục chúng ta. Vì không ai sinh ra mà không do bởi cha mẹ. Vì vậy, sự hiếu thảo của Thiên Chúa giáo thì khác hơn so với đạo Phật, bởi Thiên Chúa là Đấng Thánh tuyệt đối. Ngài đứng trên muôn loài vì Ngài là Đấng Tạo Thành. Nên chi cha mẹ cũng chỉ là con người, không thể vượt trên Thiên Chúa, vì vậy, Thiên Chúa giáo không có thờ lạy tổ tiên, ông bà ,cha mẹ, chỉ tôn kính chứ không tôn thờ. Vì vậy, người ta dễ ngộ nhận là theo đạo Công giáo bỏ ông, bỏ bà, như vậy là không đúng. Vì Thiên Chúa giáo là chân lý, nên mọi sự đều qui về sự thật.

Nguồn gốc của hiếu là nhân :

Người sống phải có nhân, phải biết nhân, vì người chính là nhân, nhân là gốc, là trung tâm của vũ trụ càn khôn. Con người sống thiếu nhân thì không còn là con người nữa.

Cha mẹ đối với con cái cũng do lòng nhân mà ra, vì lòng nhân là cơ bản là cốt lõi của sự sống.(lòng nhân giữa tình đồng loại). lòng nhân vượt trên tình đồng loại là lòng nhân đối với đấng sinh thành. Lòng nhân đối với cha mẹ thì phải ở một mức độ cao hơn, điều ấy thật hợp lý,hợp tình.Đó là sự báo hiếu, báo hiếu là dùng lòng nhân của con cái đối với cha mẹ. Đó cũng là luật công  bằng, vì khi ta không báo hiếu với cha mẹ, nghĩa là không dùng lòng nhân đối với cha mẹ, thì coi như ta lỗi phép công bằng đối với cha mẹ. Bởi lẽ không ai cho ta vay nhiều như cha mẹ, nên chi ta không mắc nợ ai nhiều bằng cha mẹ. Vì vậy, đòi chúng ta phải báo hiếu là chúng ta trả lẽ công bằng cho người đã cho ta vay.

Như vậy, báo hiếu có nghĩa là “tình đáp tình”, tình mà chúng ta đáp cho cha mẹ chính là lòng nhân của chúng ta, tùy mức độ,tùy khả năng. Vì trên cuộc sống trần gian không có mối quan hệ nào thâm sâu và gần gũi bằng cha mẹ. Từ khởi nguyên Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ và liên kết lại, đó là cha mẹ. Cha mẹ là gốc của xã hội loài người, là lòng nhân, có nghĩa là trung tâm của sự sống. Và vì thế, Thiên Chúa đã nói : “ Ta muốn lòng nhân, chứ không cần của lễ” (                ). Thật vậy, lòng nhân là của lễ quí giá nhất đối với Thiên Chúa, như vậy lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa chính là lòng NHÂN. Vì Thiên Chúa là chủ tể của vạn vật, trên vạn vật, mọi sự đều do Ngài mà thành, nên chi Ngài chỉ muốn tạo vật có lòng nhân và đối xử với nhau bằng lòng nhân. Lòng nhân là gốc của vạn vật, là sự sống của muôn loài.Vì nếu không có lòng nhân thì tạo vật không có sự sống. Lòng  nhân đích thực là Bác Ái của Kitô giáo.

Như vậy Kitô không phải là đạo thờ ơ với ông bà, cha mẹ, mà là đạo của lòng nhân, có nghĩa là đạo hiếu theo đúng lòng nhân. Lòng nhân còn đứng trên qui luật. Đó chính là Thiên Chúa đã làm Người và trở nên hy lễ cứu chuộc cho muôn dân. Đó là lòng nhân vĩ đại nhất và không có gì so sánh được. Vì thế, từ Thiên Chúa vô hình, Người đã trở nên hữu hình, để đồng hành với nhân loại lỗi lầm. Như vậy, lòng nhân của Thiên Chúa vượt trội trên tất cả. Bởi vì lòng nhân giữa con người với nhau là quí lắm rồi, như Đức Phật đã dùng lòng nhân đối với đồng loại, nhân thế và đã trở thành Phật để dẫn dắt chúng sinh vào đúng lòng nhân của mình. Như vậy, tư tưởng và triết lý của Đức Phật chính là lòng “nhân”, nhưng là lòng nhân giữa con người với nhau (nhân đối nhân), thì không thể sánh được lòng nhân của Thiên Chúa( Thần đối nhân ).

Từ ý nghĩa sâu xa và chân thật đó Đức Giêsu đã nói: “ Ai yêu cha mến mẹ hơn Thầy, thì không đáng thuộc về Thầy…” ( Mt 10, 37a). Bởi vì Thiên Chúa là Thần, nhân đối với nhân thì bằng nhau, nhưng nhân đối với Thần thì phải hơn nhân đối với nhân..Xem ra câu nói ấy, làm cho người môn đệ của Đức Kitô phải bất hiếu với cha mẹ mình hay sao? Xin thưa hoàn toàn không bất hiếu, bởi lẽ như đã nói ở trên, báo hiếu là lòng nhân của con người đối với con người, cha mẹ dù có gắn bó thân thiết thì cũng là con người.( nhân đối nhân), thì phải khác với nhân đối với Thần. Vì vậy câu nói của Chúa Giêsu hoàn toàn hợp lý. Qua câu nói ấy , Chúa Giêsu muốn mặc khải cho biết Thiên Tính của Người .Đạo Phật hướng dẫn thờ kính tổ tiên, ông bà ,cha mẹ thì có nghĩa là nhân đối nhân.

Như vậy, sự báo hiếu, ở mỗi tôn giáo có cách biểu lộ khác nhau, nhưng ý nghĩa không khác nhau. Ngày lễ Vu-lan ,thì phật tử đến chùa để cúng lạy ,lễ bái cầu siêu cho cha mẹ mình, theo nghi thức của đạo Phật. Còn người Công giáo thì được Giáo Hội dành cho tron một tháng 11 dương lịch  và ngày mùng 3 âm lịch để tưởng đến ông bà , cha mẹ. Đặc biệt là ngày 02 dương lịch, để cầu cho ch mẹ, ông bà.

Tuy hình thức phụng tự khác nhau, nhưng ý nghĩa và mục đích cuả sự báo hiếu thì không khác nhau. Bởi vì mọi tín ngưỡng đều phát xuất từ “lòng nhân” và qui hướng về lòng nhân.

Để nhắc nhở và tạo điều kiện theo sự sắp xếp phù hợp của thời tiết cùng với tín ngưỡng để lưu truyền lại cho thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước, thưc hiện nghĩa cử của lòng báo hiếu là lòng nhân đới với bậc sinh thành là điều hợp lẽ để tạo nên nhân sinh quan cần thiết cho nhân loại.

Vì không tôn kính cha mẹ và không tín ngưỡng ,vô thần, thì kết cục của con người sẽ đi về đâu?!!!. Vì “sóng trước đổ đâu, thì sóng sau đổ đấy”.

Truyền Thuyết Lễ Vu-lan :

Nhà sư Mục Kiền Liên, là nhà tu hành đắc đạo, khi tu thành chánh quả, thì trở thành Bồ Tát. Bồ Tát Mục Kiền Liên, có tuệ năng phi thường , được nhìn thấy xuyên suốt. một ngày nọ khi nhớ đến thân mẫu của mình đã ly trần. Đang bị giam cầm trong địa ngục, đói khát khổ đau, Mục Kiền Liên xin với Đức Phật cho mình xuống địa ngục thăm mẹ. Khi xuống thăm thấy mẹ đói khát, thì cho mẹ ăn cơm, nhưng mẹ của Mục Kiền Liên cũng như những người dưới địa ngục không ăn được cơm, vì cơm vừa đưa đến miệng thì lập tức biến thành lửa. Mục Kiền Liên xin với Đức Phật có giải pháp cứu độ. Lập tức Đức Phật bảo Mục Kiền Liên Niệm thần chú là kinh Ullambana có nghĩa là kinh Vu-lan, ngay lập tức mẹ của Mục Kiền Liên ăn được cơm. Từ đó, Đức Phật cũng cho tất chúng sinh cũng phải cầu nguyện cho cha mẹ mình bằng kinh Vu-lan và ngày Lễ Vu-lan ra đời ngày rằm tháng bảy hằng năm./.

31/08/2012 (rằm tháng bảy năm nhâm thìn )

P.Trần Đình Phan Tiến