Nhảy đến nội dung

Hơn cả chặt chân, chặt tay, móc mắt - Sự gì, sự này hay sự kia

HƠN CẢ CHẶT TAY, CHẶT CHÂN, MÓC MẮT

(Thứ Năm sau Chúa Nhật VI TN – Gc 5,1-6; Mc 9,41-50)

Chúa Giêsu đã dùng thể văn “ngoa ngữ” khi nói: “thà buộc cối đá lớn vào cổ mà ném xuống biển còn hơn” để dạy chúng ta phải cẩn trọng với việc gây cớ vấp ngã hay làm dịp tội cho tha nhân. Và với thể văn ấy khi dạy chúng ta phải dứt khoát với những dịp tội khiến bản thân sa ngã Người nói: “thà chặt chân, chặt tay, móc mắt” đi còn hơn để chúng gây cớ khiến chúng ta phạm tội (x.Mc 9,42-47).

Xin được bỏ qua các cớ vấp ngã chúng ta có thể gây ra cho tha nhân đã bàn đến trong phần chia sẻ Lời Chúa ngày thứ Hai sau Chúa Nhật XXXII TN (https://gpbanmethuot.net/van-hoc-nghe-thuat/co-vap-nga-7573.html). Chúng ta cùng xét xem đôi điều về các dịp tội khiến bản thân mình sa ngã, cách riêng qua trường hợp nhiều người thuộc nhóm biệt phái và nhóm Xađốc mà Chúa Giêsu đã từng nghiêm khắc phê phán, sửa dạy.

1.Khúc ruột: Cha ông chúng ta nói: “đồng tiền dính liền khúc ruột”. Cái khúc ruột này đã là nguyên nhân khiến nhiều người trong nhóm Xađốc vốn thân chính quyền và tham lam lợi lộc nên không tin có sự sống đời sau. Tiền bạc, của cải đời này đã trở thành cớ vấp ngã khó vượt qua đối với họ. Chúa Giêsu khẳng định rằng người giàu có vào Nước Trời khó hơn cả con lạc đà chui qua lỗ kim (x.Lc 18,24-25). Khi cậy dựa vào tiền bạc, xem tiền của là hạnh phúc thật thì người giàu không cần đến hạnh phúc Nước Trời. Chặt chân, chặt tay khi chúng là cớ vấp phạm tuy là khó nhưng nhiều khi cũng có thể làm. Thế nhưng để cắt bỏ cái “khúc ruột” là tiền của khi nó là cớ vấp ngã thì không mấy dễ. Một hiện thực ở Việt Nam đó là khi giá đất đai tăng cao vùn vụt thì nó đã trở thành cớ làm cho rất, rất nhiều người vấp ngã.

2.Cái tôi: Đây là trường hợp nhiều người thuộc nhóm Biệt phái. Vì tự hào về công lao đạo đức của mình, dù cho có nhiều trường hợp chỉ là đạo đức hình thức bên ngoài, nhiều người biệt phái đã làm cho cái tôi của mình phình to ra. Họ đã khép lòng trước lời chân lý của Chúa Giêsu và trước cả những sự thật hiển nhiên trước mắt. Họ còn cố chấp trong sự cao ngạo của mình khiến nhiều lần Chúa Giêsu phải thở dài ngao ngán (x.Mc 8,12). Khi cái tôi là cái chức vị của hàng lãnh đạo tôn giáo lên cao thì nó sẽ trở thành cớ vấp ngã thật đáng sợ. Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận nói rằng nếu từ bỏ mọi sự mà không từ bỏ “cái tôi” thì với “cái tôi” phình to trong sự tự cao tự mãn thì người ta sẽ dần dần vơ vét, thu lại tất cả những gì đã từ bỏ mà có khi lại thu nhiều hơn.

Nhiều trường hợp vì dứt khoát với cớ vấp phạm người ta có thể “chặt chân, chặt tay”, nhưng từ bỏ “cái tôi” thì xem ra thật là quá khó. Cái tôi của chúng ta được ví như cái đầu của thân thể. Làm sao có thể “chặt cái đầu” của mình? Thế nhưng Chúa Giêsu đã từng minh nhiên đưa ra điều kiện để theo làm môn đệ của Người đó là từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo (x.Mt 8,34).

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

**************

SỰ GÌ – SỰ NÀY HAY SỰ KIA

(Mt 19,1-9; Mc 10,1-12)

Đã từng hỏi các em thiếu nhi trong một thánh lễ có cử hành bí tích hôn phối rằng: “Có phải Thiên Chúa “bắt” hai anh chị này cưới nhau không?”. Các em đồng thanh trả lời: “Dạ - Không”. Quan niệm dân gian một thời nghĩ rằng duyên phận đôi lứa là do ông trời, “ông tơ – bà nguyệt” xe định. Dĩ nhiên ngày nay chẳng còn ai nghĩ như vậy và nhất là dưới cái nhìn Kitô giáo thì hôn nhân là do chính hai người nam nữ trưởng thành trong ý thức và tự do quyết định “trao thân gửi phận” cho nhau. Vậy chúng ta hiểu thế nào về câu nói của Chúa Giêsu: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly?”

Khi nói câu này thì Chúa Giêsu tuyên bố rằng hôn nhân là định chế Thiên Chúa đã thiết lập ngay từ đầu lúc tạo dựng nên con người có phái tính. Định chế này có tính vĩnh viễn cho đến lúc một trong hai người qua đời. Tất cả những ai ý thức và tự do bước vào đời sống hôn nhân thì phải tuân giữ định chế này, nghĩa là phải giữ sự thủy chung với nhau trọn đời trong mọi cảnh huống của cuộc sống, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh tật cũng như lúc mạnh khỏe. Dù rằng nội hàm của sự thủy chung là trước sau như một, nhưng chung thủy với nhau không có nghĩa là không bao giờ sai lỗi mà là không được phép ly dị để tái hôn hay chia đàn xẻ nghé.

Tuy nhiên vấn đề đặt ra là có nhiều “sự này” hay “sự kia” không đúng  ý Thiên Chúa thì sao đây? Vấn đề thật là nhiêu khê cho các nhà thần học luân lý cũng như các chuyên gia Giáo luật Công giáo. Có thể nói Công giáo là tôn giáo rất chặt chẽ và cũng rất khắt khe về vấn đề ly dị tái hôn. Đã từng một thời người ta nhìn nhận thực tiễn rằng nhờ sự chặt chẽ trong luật lệ hôn nhân nên chuyện ly dị tái hôn trong Công giáo rất ít so với bà con lương dân hay anh chị em ngoài Công giáo. Tuy nhiên thời gian gần đây tỷ lệ % vụ ly dị tái hôn trong Công giáo có vẻ tăng nhiều, thậm chí có nơi gần bằng bà con khác tôn giáo và anh em lương dân.

Giáo hội đã nỗ lực tìm cách tuyên bố nhiều nố hôn nhân không thành sự vì nhiều nguyên nhân, cách riêng về lãnh vực ý thức và sự tự do khi kết hôn trước đây. Tuy nhiên có đó tình trạng nhiều Giáo hội địa phương lại ngần ngại việc này, vì thế nhiều tín hữu Công giáo phải sống trong sự mặc cảm đáng tiếc. Có đó nhiều đấng bậc tuyên bố rằng sự bền vững của hôn nhân là luật của Thiên Chúa nên “không có luật trừ”. Thiển nghĩ rằng cái nhìn này có phần vừa bất cập vừa thái quá. Phải chăng “đặc ân Phaolô” và “đặc ân Phêrô” không là luật trừ?

Luật tôn trọng sự sống (cấm giết người) là luật của Thiên Chúa và xem ra trọng hơn luật hôn nhân bền vững. Thế mà luật này vẫn có luật trừ chẳng hạn trong trường hợp tự vệ chính đáng hoặc khi phải bảo vệ tổ quốc. Xin có chút thiển ý về câu nói như là “luật trừ” của Chúa Giêsu. “Tôi nói cho các ông biết: Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẩy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình” (Mt 19,9). Rất nhiều bản dịch tiếng Anh, tiếng Pháp về đoạn Mt 19,9 về nội dung trường hợp ngoại trừ là “except it be for fornication”; “except for sexual immorality”; “unless his wife has been unfaithful”; “sauf pour cause d’infidélité”; “non pour motif de fornication”. Đa số các bản dịch đều nói về sự thiếu thủy chung trong nghĩa tình phu phụ.

Nhiều người vì tiên thiên cho rằng luật bền vững hôn nhân là tuyệt đối nên dịch trường hợp “ngoại trừ” mà Chúa Giêsu đưa ra là “hôn nhân bất hợp pháp”. Nếu xét “hôn nhân bất bất hợp pháp” là không thành sự thì không ai dùng chữ “ngoại trừ”. Khi dùng hạn từ “ngoại trừ” để loại ra cái gì đó trong một tập thể thì cái bị loại ra phải đồng bản chất với những cái còn lại trong tập thể. Chẳng hạn nói rằng các em học sinh đều được đến trường học trực tiếp ngoại trừ những em đang dính virus corona, thì các em đang dương tính (positive) ở đây đích thực là học sinh. Hoặc nói những ai đến tuổi trưởng thành đều có quyền kết hôn ngoại trừ người mắc bệnh tâm thần thì “người mắc bệnh tâm thần” ở đây được hiểu là những người đã đủ tuổi trưởng thành. Như thế khi hiểu và dịch lời Chúa Giêsu nói về trường hợp ngoại trừ mà áp dụng vào trường hợp hôn nhân không thành sự thì xem ra không ổn và có phần khiên cưỡng.

Ai trong chúng ta cũng mong và đều muốn rằng đã kết hôn là “trăm năm hạnh phúc”. Sự vững bền của hôn nhân không chỉ liên hệ đến hạnh phúc của hai người phối ngẫu, đến con cái mà còn liên hệ đến xã hội vì gia đình luôn được xem là tế bào của xã hội. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy lý tưởng ấy không dễ thành hiện thực với nhiều trường hợp cụ thể. Có đó nhiều trường hợp hôn nhân mà bản thân không tin là “thành sự” vì thực tế đời sống chung “như là hỏa ngục trần gian”, thế nhưng để giải gỡ theo luật thì thật quá khó. Dù rằng không phù hợp với thần học bí tích hiện nay, nhưng vẫn có đó lời phiền trách rằng Giáo hội dễ dàng giải gỡ sự ràng buộc “hàng giáo sĩ”, “lời khấn trọn đời” của tu sĩ mà lại quá khắt khe về dây hôn phối! Hy vọng rằng dưới tác động của Chúa Thánh Thần và theo sự góp ý của các chuyên gia “đạo – đời”, Giáo hội Công giáo sẽ có phương thế thích hợp để vừa bảo vệ định chế hôn nhân đồng thời vừa giải quyết nhiều trường hợp hôn nhân không đúng và chẳng đẹp ý Thiên Chúa chút nào.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột