Nhảy đến nội dung

Giải Thoát, con đường Xuất Thế hay Nhập Thế ? (Bài 1)

Bài 1

Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra,

Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên,

Vì anh em sắp được cứu chuộc.

( Lc 21, 28)

Giải Thoát, con đường Xuất Thế hay Nhập Thế ?

Để cứu gỡ lương tâm con người khỏi ách nô lệ thần thoại, Aristote với câu định nghĩa “người là con vật biết suy lý” (animal raisonnable: zoon logon ekhon). Đây là câu định nghĩa đã hướng dẫn các khoa nhân văn cổ đại trong suốt 25 thế kỷ.(*), được nhiệt liệt chào đón và chiếm ưu thế hướng dẫn suy tư con người, tạo nền tảng cho nền triết học duy lý của Tây Phương từ 25 thế kỷ trước tới tận thời cận đại. Aristote có công đưa suy tư con người đặt trên nền tảng tạm gọi là Nhân Bản nhằm đả phá trói buộc của Thần Quyền, nô lệ hóa con người. Nhưng tiếc thay, với câu định nghĩa mà người ta tuân thủ đã 25 thế kỷ qua chưa thực sự giải thoát Con Người, chỉ chuyển từ hình thức nô lệ nầy sang nô lệ khác đáng buồn hơn vì, vô hình chung, người ta đã biến con người thành con vật, cho dù là con vật biết suy nghĩ!

Các nhà tư tưởng hiện đại phát giác ra rằng câu định nghĩa trên vừa là một bản tóm trác tuyệt về sự vong thân vừa cũng là một trong những căn nguyên làm nảy ra tất cả những điều sai lầm mà người ta đã nói về con người. Bởi thế tất cả các triết gia từ gần một thế kỷ nay đều hợp sức xóa bỏ những ác quả do câu định nghĩa trên.(*)

Heidegger bình luận như sau:

“Nền móng câu định nghĩa đó là thú vật (zoologique), chính trong khung cảnh của câu định nghĩa trên mà quan niệm về con người của Tây Au cũng như tất cả những gì là tâm lý, luân lý, tri thức luận, nhân bản đã được kiến tạo. Đã từ lâu chúng ta bị xiêu bạt trong mớ lộn xộn của những ý tưởng và khái niệm mượn từ trong các môn đó. Cứ sự nọ đặt nền trên một câu định nghĩa sa đọa.(*)

Sang đến thời Phục Hưng thế kỷ 16, 17, Tây Âu lại định nghĩa thêm về con người đặt trên nền tảng Tình Yêu, mà là tình yêu đôi lứa say đắm, lãng mạn, bất chấp những ràng buộc lễ nghĩa dài dòng, giải phóng tình cảm con người, đem lại tự do cho yêu đương, là tiền thân của tự do luyến ái, và gọi đó là Nhân Bản. Tự do luyến ái nầy đưa đến ly thân ly dị, và ngay cả đồng tính luyến ái với bước mới nhứt là hôn nhân đồng tính(?!), thì nền nhân bản đó đưa nhân loại về đâu:

Kể từ thiên hạ yêu nhau

Đống xương vô định đã cao bằng đầu (**)

Cả hai thứ nhân bản sai lầm và đầy thiếu sót, nhân bản thiếu nội tâm theo lối động vật học kia đã làm phát sinh ra những chế độ độc chiếm kiểu “duy chính phủ” (étatisme) của Hegel hay phát xít và cộng sản tôn thờ tập đoàn như chủ thể độc tôn, đến bóp nghẹt con người tư riêng độc đáo…Trong câu Aristote giống bị hạn cục vào súc vật mà thôi. Trời Đất không có liên hệ chi trong đó cả. Nền nhân bản đó chưa đạt tới nền móng sâu thẳm là tâm linh(*)

Vì chủ trương chỉ có suy lý, danh lý ra đời đặt giá trị con người trên căn bản Hữu Vi: Có và Không, tạo thành nhị nguyên đối kháng: Có tài sản được gọi là Chủ, Không có là Nô; Trí Thức hay Bình Dân; Hữu Thần hay Vô Thần… Heidegger (triết gia lớn nhất của Đức) nói Triết học Tây Phuơng đặt nền tảng trên hữu hoặc vô, đi tới đâu là gieo máu và nuớc mắt tới đó.  Thứ triết học nhị nguyên đó đã tựu thành mọi tai ương cho nhân lọai là: Chủ nghĩa thực dân, chế độ kỳ thị chủng tộc và chế độ cộng sản…(Vũ Khánh Thành, Hành Trình An Vi và Kim Định). Mà ngày nay người ta bắt đầu nhận ra kết quả tai hại vì bấy lâu con người chạy theo Hữu Vi chọn một bỏ một, tạo biết bao thảm cảnh đẫm máu đang xảy ra hằng ngày trong thế giới văn minh nầy. Nhị nguyên không thấy được Chân lý căn bổn, hay nói đúng hơn nhận lầm một trong hai cực làm chân lý căn bổn thì đó là chân lý giả tạo. Chân lý nền móng giả tạo này có đặc tính là chống đối nhau như thị phi, bỉ thử, có không…(**)

Dù muốn hay không, người ta nhìn thấy thế giới đang phân cực, chia rẽ, đối kháng kình chống nhau trong bối cảnh chiến tranh, bạo động xảy ra khắp nơi kéo theo nạn nghèo đói, thiếu thốn, đồng thời thay đổi khí hậu, bão tố, xói mòn của thiên nhiên gây thêm chết chóc cho loài người; tất cả những thảm trạng đó đã dừng lại chưa hay chỉ bắt đầu những cơn đau đớn cho con người ?! Thảm trạng đó đã xảy ra bởi con người chưa thực sự đặt nền móng nhân bản trên con người trung thực để Giải Thoát con người. Giải Thoát đúng nghĩa là tìm được Con Đường Sống cho chính con người, cho nhân loại.

Thế giới đang tan rã và cần tìm ra một nguyên lý gây dựng lại hòa hợp, con người là chủ thể, là nguồn suối sinh ra nguyên lý hòa hợp. Hòa hợp các khoa học để phụng sự người, hòa hợp người với người để tiến về nhân tính. (**)

Khi đã nhận nguyên lý nhị nguyên, dầu một cách vô thức cũng vậy thì mọi sự vật đều bị coi như những cái chi rời rạc, nên phải tuân theo định đề nhị nguyên, và theo đó con người chỉ còn có Xác và Hồn mà thiếu Thần. (**) Thần Khí mới làm cho sống ( Ga 6, 63), Thiên Chúa là Thần Khí và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật ( Ga 4, 24) Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc nầy đây - giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế ( Ga 4, 23). 2000 năm trước Chúa Giêsu đã nhìn thấy thiếu sót của con người, báo cho họ biết những lầm lạc đó, mấy ai nghe!

Cũng cách nhìn đó, bấy lâu nay người ta chỉ để ý tới Thân và Linh mà thiếu Tâm, nên Thân đã dễ bị bán làm tôi mọi cho vật chất, nô lệ cho tiền bạc, danh giá quyền hành bên ngoài mà vong thân, vong bản; và Linh thì dễ thành mông lung vu nghiễn, rời xa thực tế. Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa ! Lạy Chúa! Là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi ( Mt 7, 21) Con người đã mất Nhân Tâm, làm gì còn Lòng Thương mà hiểu Ý của Đấng là Tình Thương ?!

Chỉ cần nhìn vào những biến cố xảy ra hôm nay trên Địa Cầu nầy, không cần phải là nhà chuyên môn vẫn có thể nhìn thấy được những khủng hoảng hiện nay trong thế giới văn minh là do con người đang thiếu nhân tâm, mất dần nhân tính trở thành như những loài dã thú cắn xé nhau bởi lòng đầy ác tâm và tham vọng, mong độc quyền, độc chiếm lợi lộc thế gian bất kể con người. Hình ảnh Con Thú trong Khải Huyền Thánh Gioan đang rõ nét (?). Đã có điều gì đó sai lầm, rất sai lầm xảy ra không phải mới hôm nay nhưng đã từ lâu lắm, hằng bao thế kỷ rồi mà nhân loại vẫn chưa nhận ra. Vậy muốn tìm lối thóat chỉ còn một cách là đổi lại toàn bộ định đề, toàn bộ nguyên lý cũ và không phải chỉ ở cấp lý luận, ở đợt nhị giá, tam giá, vô số giá, vì vẫn còn là giá cũ ngoại tại, nhưng phải đổi lại tự nền, tự đợt nhị nguyên.(**). Muốn thay đổi tận nền móng phải tìm lại tận căn cơ của con người để thấy sai lầm từ đâu, tại sao ?

Nếu nói con người từ khỉ mà ra như thuyết tiến hóa Darwin thì còn gì để nói vì đâu có khác câu định nghĩa của Aristote 25 thế kỷ trước. Tiến hóa của loài người không thể gọi tên theo danh lý Tây Phương hay phản lý vô nhị của Ấn Độ, chỉ còn hàm lý như Á Đông để hiểu nguồn gốc con người mà từ Đông sang Tây đã ghi lại từ ngàn xưa bằng những chương đầu Sáng Thế và người Á Đông đã nhận:

Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật ( St 2, 7).  Nhân giả kỳ Thiên Địa chi đức. Con người là hoạt lực của Trời Đất, nguồn gốc của con người do Thiên, xuất phát từ Thiên Chúa, lực của Trời hợp với Đất, từ bụi đất, mà thành. Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ ( St 1, 27 ). Âm Dương chi giao. Âm Dương là căn bổn cơ nguyên của sáng tạo mà Á Đông đã đặt thành nền móng cho vạn vật được tạo thành. Âm Dương không chỉ là nguyên lý mà còn là Thiên Lý trong trật tự tự nhiên từ muôn thưở, không thể nào đi ngược lại, làm khác đi sẽ thành hỗn loạn gây sụp đổ tận nền móng căn cơ của con người. Tất cả đạo tức là đường tiến diễn của vũ trụ cũng như nhân sinh chỉ là một âm một dương, một tàng một hiển, một ra một vô, nhất hạp nhất tịch. Dầu muôn triệu tỉ tỉ vật loại khác nhau đều tham dự trong cái luật âm dương này. Đó là tiết điệu căn cơ nằm ẩn sâu trong lòng vạn vật.(*)

Nhân giả kỳ thiên địa chi đức, âm dương chi giao, quỉ thần chi hội, ngủ hành chi tú khí (Lễ vận VII, I ). Nguồn gốc con người cao quí như vậy, linh thiêng như vậy, không thể là con vật hay trở thành con vật được. Bàn về thứ nhân bản lý niệm đó, Berdiaeff nhận xét như là thứ nhân bản một chiều “thứ nhân bản trá nguỵ đã giết chết con người cá thể, bởi từ chối không nhìn nhận bản tính vô cùng của con người”( Sens de Création. Berdiaeff)(*). Bản tính vô cùng của con người cũng được hiểu vì con người bắt nguồn từ Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Đấng vô biên, thì con người cũng có tầm vóc vô biên khi họ được phục hồi lại địa vị làm Con Thiên Chúa. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời ( Ga 6, 47) Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống ( Ga 6, 57), Đức Giêsu đã quả quyết như vậy. Cao quí  hơn nữa chính Người là Bánh nuôi dưỡng Sự Sống đó. ( x. Ga 6, 57 )

Vậy cụ thể thì thiên địa chi đức là gì? Nếu nói theo câu “Thiên viên địa phương” (trời tròn đất vuông), thì đó là tự do và bình sản. Tự do đi với thiên viên chỉ cái gì tròn đầy không có hạn cục, giới mốc. Theo đó thiên chi đức có nghĩa là con người chỉ thực sự là người khi được hưởng một nền tự do chân chính, vì chỉ có thế nó mới phát triển hết mọi khả năng của mình, là những tiềm năng ăn sâu trong cõi mênh mông vô biên, vô tế, tức là tự do, thế nên tự do là một bổn gốc. Đàng khác, để duy trì tự do dù mới là thứ tự do hàng ngang thuộc xã hội cũng cần có một nền tảng khác không kém phần quan trọng, đó là ăn vì không ăn là chết. Muốn khỏi chết thì phải ăn, mà để mọi người được sống thì mọi người phải được ăn, vì thế mà cần đến thể chế quân phân tài sản, gọi là bình sản, nên bình sản là một gốc khác, với “địa chi đức” hay là địa phương. Đành rằng không có bình sản cũng có thể có ăn, nhưng đó là cái ăn quá lệ thuộc làm mất tự do không còn hợp với bổn “thiên chi đức”. Vì vậy cần bình sản như một cội gốc thứ hai.

Như thế tự do cũng như bình sản là hai yếu tố biểu thị bản chất cấu tạo nên con người: thiếu ăn thì hết sống, thiếu tự do thì sống không còn là cái sống của người, mà là của đoàn cừu, của đống đá, gạch, đất. Vậy không chú ý tới hai điểm đó là vong thân, vong bổn. (*)

Nói là Bình Sản, khác với cộng sản để chống lại Cộng Sản, là kiểu nói lý tưởng. Trên thực tế, người ta chưa có Bình Sản và chưa thể có bình sản vì mỗi một người đều có khả năng lao tác khác nhau, lại tùy vào nhiều yếu tố phụ thuộc để trợ thành làm phát triển lao tác đó. Nhưng Bình Sản phải được hiểu theo hàm ý: Mọi người đều có quyền được thừa hưởng sản phẩm phát sinh từ đất ngang nhau. Sản phẩm đó có thể là thực phẩm, sản phẩm do trồng trọt, chăn nuôi…; hay những sản phẩm phát sinh từ lao tác như tiền bạc, của cải…Từ hàm lý Bình Sản, thì những người thủ đắc được ít nhứt là những người phải được chú ý nâng đỡ nhứt. Nói rộng ra, những người yếu kém vì bất cứ lý do nào, về bất cứ bình diện nào, là những người được phải yêu thương, chăm sóc và tôn trọng họ nhiều hơn. Nói chung là người nghèo mà người đời gọi là yếu hèn, những người nghèo về tài sản, về thể chất, về trí tuệ hay tinh thần; là những người đáng được coi trọng nhứt. Đó cũng là trọng tâm của Kitô Giáo vì Chúa Giêsu luôn luôn coi trọng những người khó nghèo, đau yếu bệnh tật, tội lỗi hay đau khổ, bị chà đạp, là những người đáng thương. Người thương yêu họ, cứu chữa họ bất cứ khi nào Người gặp trên đường qua. Nền Nhân bản trung thực gồm bên trong là chiều kích siêu linh, bên ngoài là trù liệu cho mọi người được tự do và độc lập trong tài sản.(*). Đây không phải là kiểu nói khoa trương hay ngẫu hứng nhưng thật sự là câu định nghĩa chính xác nhứt về Nhân Bản, lại là Nhân Bản Tâm Linh bắt nguồn từ ý niệm căn nguyên, căn để của Con Người mà từ Đông sang Tây đều nhìn nhận. Từ nhận xét đó, Kitô Giáo là một tôn giáo vô cùng Nhân Bản và là Nhân Bản Tâm Linh có Trời mà cũng có Ta, đặt nền móng trên con người và Ơn Thiêng trợ giúp để thực sự giải thoát con người, cả thể xác lẫn tinh thần. 

( Còn tiếp )

Nam Hoa

Chú thích : (*) trích từ Kim Định, Nhân Chủ

                   (**) trích từ Kim Định, Tâm Tư

>>>  Xem thêm Bài 1Bài 2Bài 3

Tác giả: