Vui lên nào !
- CN, 26/01/2025 - 08:13
- JM. Lam Thy ĐVD.
VUI LÊN NÀO ! (CN III/MV-C)
Những quy luật tổng quát về Năm Phụng Vụ và Niên Lịch “Normae de Anno liturgio et Calendario” (số 39) đã chỉ rõ những đặc tính của Mùa Vọng: “Mùa Vọng có 2 đặc tính: vừa là mùa chuẩn bị mừng lễ trọng Giáng Sinh, trong lễ này, kính nhớ việc Con Thiên Chúa đến lần thứ nhất với loài người; vừa là mùa mà qua việc kính nhớ này, các tín hữu hướng lòng trông đợi Chúa Ki-tô đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Vì hai lý do này, Mùa Vọng được coi như mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi.”
Như vậy, nếu chỉ là “hướng lòng trông đợi Chúa Ki-tô đến lần thứ hai”, thì các tín hữu phải biết nhìn lại mình mà ăn năn sám hối mới có hy vọng được hưởng phần thưởng Nước Trời vào ngày cánh chung. Điều đó cho thấy tại sao Giáo hội ấn định mùa Vọng phải dùng phẩm phục màu tím trong các Thánh lễ, vì “màu tím là màu của sự ăn năn, thống hối và của sự mong đợi, được dùng trong Mùa Vọng và Mùa Chay và trong Thánh lễ cầu cho những kẻ đã qua đời.” Tuy nhiên, tại sao Giáo hội lại cho phép dùng lễ phục màu hồng vào Chúa nhật III Mùa Vọng và Chúa nhật IV Mùa Chay, bởi màu hồng là màu chỉ sự vui mừng phấn khởi? Sở dĩ vậy vì Mùa Vọng còn “là mùa chuẩn bị mừng lễ trọng Giáng Sinh” cũng như Mùa Chay “là mùa chuẩn bị mừng lễ trọng Phục Sinh”. Và vì thế nên “màu hồng được sử dụng hai lần trong năm (CN III/MV và CN IV/MC) để mời gọi tín hữu hưởng niềm vui thầm kín và an lành trong niềm trông đợi Đấng Cứu Tinh hoặc trong sự chuẩn bị đón mừng Chúa Ki-tô phục sinh” (xc “Những điều cần biết” trong “Những ngày lễ Công Giáo”). Rõ ràng “Mùa Vọng được coi như mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi”.
Có thể nói, vào khoảng thế kỷ VIII và VII trước Công nguyên, dân It-ra-en luôn sống trong phập phồng, lo sợ (hết sợ quân viễn chinh Át-xi-ri lại lo sự trả thù của Ai-cập). Trong khi đó thì triều đình Giê-ru-sa-lem nhỏ bé lại chia rẽ, người thì chủ trương liên kết với phía này, kẻ lại tranh đấu để được lòng phía kia, gây bất ổn lung tung, rồi cướp bóc, trả thù, chinh chiến gieo sợ hãi, kinh hoàng, hao mòn và kiệt quệ... cho đến khi Giê-ru-sa-lem bị giày xéo và dân cư bị lưu đày. Chính trong cảnh tang tóc tuyệt vọng ấy, ngôn sứ Xô-phô-ni-a đã tìm được niềm tin, một niềm tin vững vàng vào Thiên Chúa Cứu Độ. Ông khẩn khoản cầu xin cùng Đức Chúa và đã đươc Người đáp ứng. Ông liền hô vang: “Hỡi thiếu nữ Xi-on, hãy cất tiếng ca! Hỡi It-ra-en, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua It-ra-en là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa. Trong ngày đó, ở Giê-ru-sa-lem thiên hạ sẽ nói rằng: Hỡi Xi-on, đừng sợ, tay ngươi sẽ hết rã rời! Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Ðấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Người cảm động yêu thương ngươi, và vì ngươi, Người sung sướng reo mừng. Những kẻ hư hỏng bỏ lề luật, Ta sẽ quy tụ họ lại, vì họ cũng là con cái ngươi.” (Bài đọc 1 CN III/MV-C – Xp 3, 14-18a).
Ông Vua It-ra-en đã đến và “ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa”, và trước ngày ông Vua giáng sinh chỉ có 6 tháng, Thiên Chúa đã cho “Tiếng hô trong hoang địa” đến để kêu gọi tín hữu “hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng.” (Lc 3, 4-5). Sứ vụ của thánh Gio-an Tiền Hô là loan báo Tin Mừng Đấng Cứu Độ sắp đến và kêu gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn để đón tiếp Người. Ngay ở thời điểm khai mạc sứ vụ, đã có kết quả là một tin vui: “dân chúng lũ lượt đến xin ông Gio-an làm phép rửa và họ hỏi ông: “Chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3, 10). Khung cảnh bên bờ sông Gio-đan lúc ấy không còn là nơi sa mạc hoang vu nữa, mà chỉ thấy người người từ khắp nơi kéo đến như một ngày hội. Mọi người chen vai thích cánh để được thánh nhân làm phép rửa và để được hỏi thánh nhân xem mình phải làm gì để có thể “tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”. “Chúng tôi phải làm gì?”, đó là câu hỏi chung của tất cả những ai đến xin thánh Gio-an cho họ một lời khuyên để họ thực hiện sám hối và sẵn sàng đón nhận Đấng Cứu Thế.
Có một điều đáng lưu ý là nếu đọc đoạn Tin Mừng theo thánh Mat-thêu có cùng chủ đề (“Ông Gio-an Tẩy Giả rao giảng”), thì thấy trong đám đông có cả những “người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa” và thánh Gio-an Tẩy Giả đã nói với họ: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối … Cái rìu đã đặt sẵn gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.” (Mt 3, 7-8). Đón Chúa đến nếu chỉ nghe những câu như vừa dẫn, thì tưởng chừng như một việc làm quá khó khăn, quá nặng nhọc, khó lòng thực hiện được. Tuy nhiên, nếu đọc kỹ bài Tin Mừng hôm nay của thánh Lu-ca, thì sẽ thấy cũng đơn giản thôi, và chắc chắn sẽ làm được. Câu trả lời của thánh Gio-an cho từng người thật là ngắn gọn nhưng đầy đủ. Với thường dân thì "Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy." Với người thu thuế thì "Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh." Còn với binh lính thì "Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình."
Lời dạy của thánh Gio-an Tẩy Giả ("Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy") kể ra cũng đơn giản thật. Thánh nhân chỉ khuyên những điều mà một con người bình thường có thể thực hiện được. Đến như Đức Giê-su khi dạy về “8 mối Phúc”, còn khuyên cao hơn một bậc: "Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong." – Lc 6, 29), hoặc như bà goá nghèo thời Cựu Ước sẵn sàng nhường nắm bột và chút dầu cuối cùng của 2 mẹ con cho ngôn sứ Ê-li-a (1V 17, 10-16), tương tự như bà goá nghèo thời Tân Ước sẵn sàng dâng cúng vào đền thờ 2 đồng tiền kẽm cuối cùng của mình (Lc 21, 4). Quả thật, Chúa không đòi hỏi những gì quá sức của con người, nhưng dù là không vượt quá sức của con người, thì cũng vẫn có thể không thực hiện nổi, nếu không có một ý chí hướng thiện, một tấm lòng quảng đại, một niềm tin vững vàng vào mục đích nhắm tới của công việc, cùng với một quyết tâm thực hiện. Đúng như vậy, "Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông" (Nguyễn Bá Học).
Chung quy, vấn đề đặt ra là phải có lòng tin vững vàng về Tin Mừng Đấng Cứu Độ sắp đến, và phải sống niềm tin ấy bằng cuộc sống chan hoà đức ái. Vậy mới là biết dọn đường cho Chúa đến. Vâng, hãy mạnh dạn nhìn thẳng vào lòng mình, lấp cho đầy những thung lũng tị hiềm, bạt cho thấp mọi núi đồi kiêu căng, uốn cho ngay khúc quanh co hiểm ác, san cho phẳng những lồi lõm bất minh; tắt một lời, với một niềm tin sắt đá, hãy sửa lối đi tâm hồn cho ngay thẳng, công chính. Đồng thời hãy thể hiện đức tin của mình bằng những “chứng tá bác ái” (Tông thư “Porta Fidei”, số 14) trong đời sống thường nhật với tất cả anh em, nhất là những kẻ thấp cổ bé miệng, khó nghèo, tật bệnh, lao tù, những anh em “đang sống bên rìa ngoài cùng của xã hội”. Ấy cũng bởi vì, vào ngày chung thẩm, Đức Vua Tình Yêu sẽ thẩm định hành trình đức tin của mọi tín hữu rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt 25, 34-36).
Một nhân chứng sống là thánh Phao-lô đã thấy được ơn cứu độ mà ngôn sứ Xô-phô-ni-a loan báo (Xp 3, 14-18). Hơn thế nữa, chính ngài đã thấy và đã nhận được phép rửa trong Thánh Thần và lửa như thánh Gio-an Tiền Hô đã báo trước (“Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.” – Lc 3, 16). Đó chính là biến cố Đa-mát. Vì thế, ngài nhắc nhở mọi người: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì cả.” (Pl 4, 4-6). Theo ngài, ngày Chúa quang lâm lần thứ hai có những hiện tương kinh hoàng báo trước, nhưng đừng sợ hãi lo lắng thái quá, mà phải mừng vui lên vì Chúa đã gần đến. Ngài còn lặp lại một lần nữa lời kêu gọi “mừng vui lên” để nhấn mạnh tinh thần “sống hiền hoà rộng rãi”. Đó phải chăng là những chứng tá sống động trong “hành vi bác ái” của mỗi Ki-tô hữu? Vâng, nếu quả thực mỗi tín hữu đều “sống hiền hoà rộng rãi” trong hành trình đức tin của bản thân, thì đâu còn sợ hãi lo lắng gì nữa mà chẳng “mừng vui lên chờ đón Chúa quang lâm”.
Là con người, Ki-tô hữu chúng ta nhiều khi hoang mang lo sợ trước viễn cảnh tương lai vĩnh cửu và không ý thức mình đang trên con đường được Thiên Chúa cứu độ. Từ chỗ mất niềm tin ấy, chúng ta có thể dần dần đi tới tình trạng buông xuôi, phó mặc cho số phận đẩy đưa, không còn sống theo những điều Chúa và Giáo Hội dẫn dắt nữa. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay thắp lại ánh sáng đức tin và niềm hy vọng vào ơn cứu độ Đức Ki-tô đem đến cho chúng ta. Mà cũng “Vì chúng ta tin, nên Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.” (Rm 5, 2). Quả thật “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11, 1). Hãy nhìn vào đích điểm của hành trình đức tin là niềm vui được cứu độ và sống “kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su” như thánh Phao-lô dạy. Đó chính là điều giúp ta nhận chân được ý nghĩa đích thực của cuộc sống trần gian và vững lòng tiến bước trong tinh thần “mừng vui lên” vì ngày Chúa quang lâm đã gần kề.
Ôi! Lạy Chúa! Như xưa dân chúng đã đến với Thánh Gio-an Tiền Hô để hỏi “Chúng tôi phải làm gì”, thì ngày hôm nay, chúng con cũng xin thưa với Chúa: Chúng con phải làm gì để dọn lòng đón Chúa đến trong dịp Lễ Giáng Sinh này? Chúng con phải làm gì để luôn sẵn sàng đón Chúa đến với chúng con trong bất cứ biến cố nào xảy ra trong cuộc đời chúng con; nhất là khi Chúa đến gọi chúng con ra khỏi cuộc đời này? Cúi xin Chúa ban Thánh Linh soi sáng và dẫn dắt cho chúng con hiểu được rằng chúng con phải làm gì để được mừng vui khi đón Chúa quang lâm.
Ôi! “Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới, mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.” (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật III mùa Vọng).
JM. Lam Thy ĐVD.