Nhảy đến nội dung

PHAOLÔ và một lần thất bại tại Athens

    PHAOLÔ và một lần thất bại  tại Athens     Phần 4     Thư Côrinthô số 2     Cộng đoàn Côrinthô chưa bao giờ là cộng đoàn dễ ưa hoặc dễ chịu cả. Tất cả mọi rẽ chia, đối nghịch đều phát xuất từ sự thể là mọi người quá đặt nặng tin tưởng vào tính chất cởi mở và ‘cho đi’ của Thần Khí rồi đã quyết chí tìm đến đổi thay và xử trí. Kết quả, như các thư từ/giao dịch với thánh Phao lô cho thấy, có những mẩu vụn thư nhắn gửi đến đã chứng minh là: vẫn còn đó nhiều ưu tư cũng như bức bách, trăn trở.     Thư Corinthô số 1 không giúp ích được nhiều người. Bởi, sau đó vẫn có nhiều thư khác đã được viết xem như thể:     1.      Thánh Phaolô đã phải vội vã ghé thăm Corinthô, xứ miền đầy khổ đau; 2.      Thánh Phaolô vẫn cử đại diện đến thăm thủ phủ này; 3.      Thánh Phaolô đành phải ghi một thư khác khá nghiêm trọng gửi về cộng đoàn. Thư đó được viết trong tình trạng đầu óc suy sụp đến độ ‘hôn mê’ như được kể ở 2 Cor 2:3-9 4.      Titô đến đến báo tin cho Thánh Phaolô biết bức thư nghiêm trọng ấy, đã đạt được kết cuộc khá khả quan.     Và rồi sau đó ta lại có thư Côrinthô số 2. Tuy thế, thư này là sự kết hiệp của ít nhất hai bức thư. Hai thư chính yếu này là:   Lá thư đầu, là để cử hành việc giải hoà giữa thánh Phaolô và dân con thành Corinthô : chương 1-9.   Thư sau gồm các chương từ 10 đến 13...     Toàn bộ thư đầu có 2 đoạn nhỏ không ăn khớp với nhau cho lắm. Cũng có thể đó chỉ là trích đoạn được rút từ các thư nào khác chứ không từ thư Corinthô đầu, thôi.                 Đoạn 6, câu 14 đến đoạn 7 câu 1 bàn về trạng thái lo sợ người ngoài.             Đoạn 9 từ câu 1 đến 15 là để gửi cho hội thánh ở Galát bàn về tiền thu thập nói chung.     Sức mạnh thù địch từ bên ngoài cộng đoàn lâu nay lại đã phá rối Cộng đoàn ở đây. Họ đến với cộng đoàn đem theo mẫu mã về những điều mà tiếng Hylạp gọi là ‘theios aner’, tức nhân vật thần thánh hiểu theo nghĩa: chính họ đã được thấy Đức Giêsu, và đã hồi hướng trở về. Điều này dẫn đến nhiều xung khắc phản kích lập trường đặc biệt của Thánh Phaolô, nên vẫn cần đến hoà giải/hoà hợp cả dân nước. Thánh Phaolô vẫn nhấn mạnh về sự kiện ‘Đức Kitô chấp nhận chịu đóng đinh vào thập giá’, thế nên việc hoà giải hoà hợp chỉ có nghĩa giới hạn như vậy thôi.     Lại có sự thể là người Côrinthô vẫn cứ loay hoay/xoay vần giữa các lập trường cố hữu liên quan đến việc “tự dung tha” cho đến quan điểm chủ thuyết khắc kỷ đặt sai mục đích. Thánh Phaolô nhân thấy thấm mệt nhưng cũng đã tìm cách giải quyết mọi sự bằng một đường lối khá chính đáng để họ sống cho thích hợp     Thư Côrinthô số 2 ở đoạn 11 câu 21-33, thánh Phaolô liệt kê ra một danh sách kể về các nỗi khổ mình từng chịu. Ông nói đến sự yếu kém, ốm đau, âu sầu, khổ ải –tức những điều hoặc các sự việc mà thế giới Hy Lạp từng bỏ phế,- chỉ cốt nhắm vào thân xác toàn hảo của con người. Thánh Phaolô chấp nhận sự bất toàn và gánh chịu mọi nhục nhã lẫn đớn hèn xảy đến với ông. Điều này từng khiến cho Hội thánh ở Côrinthô lấy làm bất mãn, cự tuyệt. Thánh Phaolô cũng đã đề cập đến các sự kiện quá quắt khiến ông ưu tư nhiều về những hành xử từng khiến ông ưu phiền/nhục nhằn trong cuộc đời. Ưu và nhục đến độ thánh nhân đã phải nghĩ đến việc tự làm khổ mình xuống mức độ hạ thấp, rất trút sạch. Ông không còn tin tưởng vào một ai. Đây chính là  trạng thái ộng định-vị chính mình vào với Đức Kitô chịu đóng đinh vào thập giá. Và, ông cũng đã tìm ra lý lẽ để thấy được rằng Đức Chúa Phục Sinh đã hoạt động tích cực ngang qua ông.     Cuối cùng, ông lại đã đi đến giai đoạn coi mọi sự chỉ như một thất bại và cỏ rác; tức, thứ mà người Do Thái tốt lành vẫn luôn trân trọng. Ông đã tụt hạ xuống trạng thái rất thấp đến độ tự biến thái thành hư không, trống rỗng (xem Siguard Grindheim, The Crux of Election, 2003).     Nay, là lúc thánh Phaolô sống đích thực ý nghĩa của tình yêu thương con người đến độ không có gì làm mình tự hào, hoặc cao cả. Và tình thương yêu ấy là thứ chính trị rất mới mẻ đáng được thay thế để đối mặt với loại chính trị đầy khuynh loát/khống chế của đế quốc. Ông đã để cho 2 lập trường sống ấy đối đầu giáp mặt với nhau, không kiêng nể.     ‘Kể từ nay, chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Kitô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Ngài như vậy nữa. ( 2 Cor 5:16)     ‘Già lão/cổ xưa’ đây, chính là biểu tượng nói về sự rẽ chia, phân cách. Đây là thế giới của những xu hướng kỳ thị sắc tộc. Một thế giới đầy những cách ly, bạo tàn. Thứ thế giới của cạnh tranh /giành giựt chỉ nhằm lợi dụng người khác. Một thế giới cứ chăm chăm chú chú nhằm loại bỏ những người mình không mấy thích thú. Là, thế giới chẳng biết cách tập họp nhau lại mà hoà hợp. Một thế giới chỉ biết sống với ưu tư/lo lắng vẫn quyết rằng Đức Chúa của mình bị chia năm xẻ bảy, xa lánh/tách rời, chỉ chăm chút giữ lối sống bê tha, tiêu cực. Thế giới ấy đầy dẫy những lỗi lầm và sai sót khiến họ cứ lo ngại mình không thể nào hoà giải/hoà hợp được với Thiên Chúa do bởi những điều mình đã làm đáng cho mình hủ hoá thành hư không, trống rỗng; đồng thời tự mình tạo lấy cho mình tình huống không có giá trị gì ở bên trong; hoặc chẳng có gì để tự mình tự hào với Đức Chúa hết.     Lập trường già nua/xưa cũ ở mọi việc, nay quá lỗi thời nên đã bị cất bỏ đi và lập trường mới mẻ khác đã xuất hiện. Lập trường mới mẻ là thế, nay xảy đến một thế giới trong đó có Thiên Chúa vẫn từng nói: “Nay Ta về với các ngươi. Ta vực các người trỗi dậy từ cõi chết. Ta đòi các người đến để sở hữu mà lo lắng chăm sóc yêu thương, bao bọc các người và đặt các người vào với cuộc sống của Ta. Ta sống cuộc sống của các ngươi cùng với các ngươi. Ta vui hưởng cuộc sống với ngươi và Ta đưa các người tháp nhập vào ở trong Ta’. Đây là thế giới biết tôn kính/trân trọng và yêu thương nhau. Tức, thế giới của sự hiệp thông/nối kết rất quan hệ. Một thế giới trong không còn chỗ cho tranh chấp/lũng đoạn giữa con người và Thiên Chúa; và cũng chẳng còn phân ly cách biệt nào giữa con người với con người. Bởi lẽ, thế giới này đã thay đổi một lần là tất cả’.     Cho nên, phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải.19 Thật vậy, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Ngài. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải. Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Ngài thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Ngài. (2 Cor 5: 17-21)               Tác giả Michael Gorman (x. Reading Paul, Eugene, Cascade Books 2008 tr. 8.) đã tìm cách viết về chuyện ‘Thánh Phaolô bị lên án’ rất như sau:     Thánh Phaolô đã diễn giảng rất nhiều điều và sau đó lại lý giải mọi sự bằng vào thư mục vụ kết hợp cộng đoàn khác biệt, sau đó ông còn cắt nghĩa thêm bằng Tin Mừng đầy những truyện kể có tính cánh chung và có cả nền thần học chính trị theo kiểu cách rất khác biệt quyết đề cập đến các luận đề như:     1.      Nối tiếp vào với câu chuyện của Isarael; và     2.      Khác biệt hẳn lời lẽ kể về đế quốc La Mã và các quyền bính từng tập trung vào Đức Giêsu là Đấng Thiên sai chấp nhận chịu đóng đinh vào thập giá và Ngài đã sống lại.     Chuyện Ngài mặc lấy thân xác làm người, rồi lại sống như con người và bị đóng đinh vào thập giá cho đến chết. Một cái chết được Thiên-Chúa-là-Cha chứng giám và tuyên dương Ngài bằng sự sống lại và nâng nhấc/thánh-hoá Ngài trở thành Đức Chúa. Ngài khai mạc kỷ nguyên mới bằng vào tạo dựng vũ trụ gồm mọi thành viên, trong đó loài người đã thiết lập giao ước rất trung kiên và họ đã đáp trả bằng một niềm tin rất hãnh tiến, quyết từ bỏ chính mình bằng cam kết tham gia vào với cái chết và sự sống lại của Đức Chúa; và     a.      Mọi thành viên đều được xác chứng và tái tạo tương quan giao ước phải lẽ/đúng đắn với Thiên Chúa và với người đồng loại;     b.      Tất cả được tháp nhập chung vào Và lại cứ chan hoà  thân mình đặc biệt của Đức Kitô ở trần thế là Hội thánh, tức cộng đoàn thay thế các nhóm người đã có đó, vẫn cương quyết để Xêda và vua chúa ở thế trần quản cai bằng các đặc trưng đi ngược lại Lời Chúa ở Tin Mừng.     c.      Và rồi lại hoà trộn theo tư cách cá nhân riêng lẻ vào với Thần Khí của Con Thiên Chúa đến độ bao gồm cả cuộc sống lưỡng nguyên vốn dĩ tập trung vào cuộc sống giáng trần và hướng vào công cuộc tái lâm của Chúa, để bắt chước Đức Kitô mà chấp nhận thập giá, tức luôn tin tưởng và hy vọng vào Chúa cũng như thương yêu người đồng loại và kẻ thù của mình nữa. Tình yêu như thế được đánh dấu bằng sự an hoà hội nhập bằng vào vị thế vui vẻ thực hiện trước những điều như sau:     1.) Trở về lại với Đức Kitô   2.) Người chết trỗi dậy để rồi sẽ đi vào cuộc sống vĩnh hằng   3.) Hoàn toàn đổi mới công cuộc tạo dựng vẫn liên tục.                                                                 --------------------                            (còn tiếp)     -------------------------------- Lm Kevin O’Shea, CSsR – Mai Tá lược dịch.   *****************************   PHAOLÔ và cuộc đời thường Khởi từ Galát   Phần 1   Thư Galát     Người Galát lâu nay vẫn sinh sống ở vùng phía Bắc nước Thổ Nhĩ Kỳ. Họ đến lập nghiệp từ các bộ lạc ở xứ miền Tô Cách Lan và tập trung sinh hoạt ở vùng mạn ngược. Người Galát vốn là sắc tộc rất khoẻ mạnh, tráng kiện và khó bị người khác kềm chế. Tôn giáo mà họ đi theo và sinh hoạt phượng thờ là đạo thờ kính “Thánh Mẫu của thần linh”, tức Nữ thần Cường Lực của miền thượng du, ở nơi ấy. Nhưng, người mà nữ thần này sung bái và chỉ muốn làm nô lệ cho ông, tức Attis ngẫu thần không râu, trẻ trung, nhưng yêm hoạn dù rất mực trai tráng. Ông là loại người lý tưởng của những người ở đây; và, những người này bận tâm lưu ý mỗi đôi chút đến Do thái giáo, mà thôi. Họ cũng đã nghĩ về tục lệ cắt bì của Do thái và coi việc này hơi giống như thói tục mến mộ Attis, thôi.     Người Do thái từ xứ miền Antiôkia cũng hỗ trợ chuyện này, rất mạnh. Nhưng, thánh Phaolô lại vẫn khẳng khái cự tuyệt và luôn nói tiếng KHÔNG về việc ấy. Thanh-nhân còn bảo: Đạo của Chúa không dính dấp gì đến lối hành đạo theo kiểu cách của người thượng du/sắc tộc trong đó có cả việc hành đạo như kiểu người Do thái từ “núi Sion” ở Giêrusalem! Kết cuộc là, thánh-nhân và những người theo chân ông đều bị người Do thái ở đây coi như đáng bị nguyền rủa và bất hợp pháp. Thánh Phaolô đã phản bác lập luận này bằng cách nói rằng: chấp nhận bị nguyền rủa là cái giá của tự do. Bởi, nếu ta đứng ở ngoài vòng luật pháp thì pháp luật là gì có quyền uy/sức mạnh đặt để trên ta.     Thế nên, thanh tẩy là nghi thức khai tâm/hành đạo để ta có thể đi vào với Đức Kitô chịu đóng đinh. Chính đó, là việc gột rửa mọi tì vết nhơ nhớp để ta có thể đi vào với mọi nguyền rủa và tự do, cùng một lúc. Việc này đã khiến tín hữu Đạo của Chúa được giải toả khỏi mọi luật của tôn giáo cùng văn hoá, văn minh rất con người. Nếu thế thì, tín hữu Đạo Chúa buộc phải sống trong tự do đích thực, ngõ hầu có thể đối đầu/trực diện với những người muốn giới hạn mọi chuyện. Sống như thế, là đi vào với sự sống có phục sinh/trỗi dậy. Phục sinh/trỗi dậy đây, không là sự việc xảy đến rất bất chợt, mà là sự thể diễn tiến về lâu về dài. Đó, cũng không là động thái Chúa làm chỉ một lần rồi thôi, nhưng là cả một quá trình tiến hoá, qua đó Thiên Chúa và những người không bị rang buộc, đã cùng nhau hợp tác trong sinh hoạt để biến cải mọi người, dù họ là ai đi nữa. Dù, họ có quan điểm nào khác biệt, cũng mặc. Tác giả H. D. Betz lại cứ quan niệm thư Galát là “một trong các tài liệu/văn bản quan trọng vào bậc nhất” đối với con người.                                                                 --------------     “Tôi đã cùng bị đóng đinh thập giá với Ðức Kitô. Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Ðức Kitô sống trong tôi. (Gal 2: 20)       Galata     Bằng vào các công trình do ông từng thực hiện ở Galata và các thư tín do ông ghi, thánh Phaolô lại đã đạt tới giai đoạn am hiểu tường tận lối sống có phục sinh/trỗi dậy. So với thị kiến ông có được ở Galata, thì những gì ông cảm nghiệm nơi người dân thành Thessalônikê và Philípphê chỉ là những chuyện khá sơ đẳng, thôi.     Có thể nói: không có gì chứng thực một cách rõ rệt rằng Galata là nơi thánh Phaolô từng sinh hoạt rất nổi cộm; là cộng đoàn do ông thiết lập và là dân thành ông gửi thư, có đích thực là  của ông không? Cụm từ “người Galát” cũng chỉ là cụm từ nói về bộ tộc Gallic, tức những người xứ Gal và Tô Cách Lan. Nhưng có điều chắc, là: những người này là Do thái từng sinh sống ở vùng Tiểu Á, một vài đời. Vào thời của thánh Phaolô, cụm từ “Galata” được sử dụng để chỉ cả về nhóm sắc tộc lẫn khu vực hành chánh trực thuộc quyền kiểm soát của người La Mã.     Nói theo tính cách hành chánh quản trị, thì luôn luôn có khác biệt rõ rệt giữa hai miền Bắc và Nam Galata. Xem ra, “người Galát” là nhóm sắc tộc đến từ vùng Bắc bộ miền Tiểu Á, tức Thổ Nhĩ Kỳ bây giờ; và họ cũng nối kết theo cung cách nào đó, với nhóm sắc tộc người Tô Cách Lan. Vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, các bộ tộc Tô Cách Lan vẫn lang thang chinh chiến rày đây mai đó, đều đã về tập hợp ở trung bộ và Bắc bộ của Galata. Họ có cùng một nguốn gốc sắc tộc như người Ái Nhĩ Lan, vậy. Trong quá trình lịch sử, họ từng bị người Hy Lạp hơn một lần đánh bại. Và chỉ một ít người trong số họ là lưu lại sống ở trong vùng. Kể từ đó, người gốc Tô Cách Lan lại đã trở thành “người Galát”.     (x. The Dying Gaul, a statue in the Capitoline Museumn Rome, the original of which is bronze in Pergamum. He is on his last leg!) Đây là ngiên cứu về những người sống như thế, song song với các nghiên cứu khảo sát về sự “dẫy chết” của Đạo Công giáo Ái Nhĩ Lan đối với nền văn hoá Úc)             Ở Galata, cũng lại thấy nhiều người Do thái sống ở đó và rất nhiều cư dân Galát cũng từng có cảm tình với người Do thái mà không bị buộc phải trải qua thủ tục “cắt bì” và buộc phải tuân giữ luật Torah, của Do thái. Và, thánh Phaolô đã hoạt động cho cả người ngoại giáo lẫn người Do thái ở Galata.     Tác giả J. Dunn cũng từng quan niệm về cuộc tranh luận để xem thánh Phaolô hoạt động thế nào và ghi thư ra sao cho nhóm người nào đó, vẫn là vấn đề chưa có câu giải đáp, kết cuộc. Xem ra tác giả này nghiêng về nhóm bạn đạo ở vùng phía Nam Galata. Trong khi đó, tác giả Crossan và Reed lại cho rằng: hiển nhiên phải là vùng bắc bộ, mới đúng. Bởi, nếu thánh Phaolô ghi thư cho cộng đoàn tín hữu ở vùng phía Bắc, thì thư ấy phải được viết vào giữa thập niên ’50, sau Công nguyên. Ngược lại, nếu thư này được ghi cho người ở vùng phía Nam thì phải được viết sớm hơn, tức vào các năm 48 hoặc 49, sau Công nguyên; và như thế, thì thư này sẽ là thư đầu tay của thánh Phaolô, không thể sai. Trong tinh thần của biên khảo này, tôi chọn giả thuyết 2, tức: thư từ giao dịch là giao dịch với cộng đoàn ở phương Bắc. Một số tác giả khác lại vẫn cho rằng thư Galát được viết vào thời kỳ sau thư thứ nhất Côrinthô, nhưng trước thư thứ hai gửi giáo đoàn ở Côrinthô này. Một số vị khác lại cho rằng thứ thứ hai Côrinthô đoạn 10-13 có trước thư thứ hai Côrinthô từ đoạn 1-9, còn thư Galát được vào giữa hai thư trên.     Cũng nên xem xét cung cách hành đạo của các tín hữu này, mới có được quyết đoán đúng đắn. (x. Susan Elliott, Cutting Too Close for Comfort: Paul’s letter to the Galatians in its Anatolian Cultic Context, Journal for the Study  the New Testament Supplement Series 248, Sheffied Academic Press, 2004)     Elliott cũng lưu ý người đọc về cảnh tình đặc biệt của người Anatolian ở miền Bắc Galata. Người ngoại giáo ở địa phương này, tức những người ngoại đạo, người Gals và Tô Cách Lan đều thực hành thờ cúng “Thánh Mẫu các thần linh”. Đó không là thờ cúng thần mắn đẻ. Ở đây, cũng nên chú ý đến giai thoại bảo rằng: theo lịch sử, thì có nhiều ảnh hưởng khác nhau đổ lên trên vùng này, và theo tính cách văn hoá, lại cũng có nhiều ngẫu thần được đưa vào vùng đất này để mọi người cúng bái, thờ lạy. Mỗi vị thần, xem ra đều “trụ trì” một khu vục địa dư riêng tư đặc biệt, thông thường là quanh vùng đồi núi ở quanh đó.   Chuyện này cũng tương tự như “khu vực của giáo phái Mormon” ở bang Utah, Hoa kỳ. Tại mỗi khu vực tư riêng của mình, các thần đều là thủ lãnh tối cao và là vua quan lãnh chúa ở nơi đó. Tại đó, cũng thấy có “Thánh Mẫu của mọi thần”, có cả “Thánh Mẫu của Núi Đồi”. Và có cả “Thánh Mẫu Vĩ Đại”. Bà là vị Giám hộ của mọi qui luật được viết ra và thực hành. Bà là người duy trì Luật pháp. Bà rất dũng mãnh nên vẫn được hình-tượng-hoá bằng tranh vẽ “Ông Sư tử”. Bà có khả năng kiểm soát toàn hoang dã, rừng rú. Việc thờ cúng bà còn gồm cả các “khoái cảm đến tột đỉnh” có kiểm soát/không chế; bởi lẽ, đó là một phần của việc thờ cúng có tính cách tôn giáo, rất hưởng lạc.     Nhằm phục vụ nữ thần này, có nhân vật được gọi là Attis, một nam nhân không râu, trẻ trung nhưng vừa yêm hoạn, lại trai tráng. Với các đạo giáo La Mã của người Gals, thì tất cả mọi thần đều ngang nhau, và ở đây lại có nối kết giữa các vị này bằng danh xưng rất chung là người Gals. Các vị này đều là nô lệ của Thánh Mẫu Vĩ Đại. T6on giáo của các vị này được khai tâm bằng các nghi thức, kể cả nghi thức yêm hoạn cũng không bị loại bỏ. Họ thực hành cả loại hình nghi thức theo kiểu làm điếm tập thể. Họ được coi như phù thuỷ chữa lành mọi bệnh tật và cũng là tiên tri theo nghĩa của dân ngoại. Họ có thực quyền đối với dân chúng, thuộc mọi thành phần. Chúng dân ở đây, đều bị phù-thuỷ-hoá do bởi toàn bộ việc thờ phượng cúng bái đức “Thánh Mẫu Vĩ Đại”. Điều này xem ra được nói kết với việc chấp nhận  uy lực kiểm soát cả vũ trụ của họ, nữa...                                                                                                     (còn tiếp)   ____________________ Lm Kevin O’Shea, CSsR Mai Tá lược dịch    
Tác giả: