Nhảy đến nội dung

Sự thấu cảm của Thiên Chúa

 

Sự thấu cảm của Thiên Chúa

 

Giáo hội Công giáo thiết lập giáo lý về tội tổ tông dựa theo kinh nghiệm. Tin tức hàng ngày cho thấy khuynh hướng làm điều ác của con người. Tuy nhiên, cùng với bằng chứng kinh nghiệm đó, cũng cần đưa ra lý lẽ cho lập luận mạnh mẽ nhất của mọi người vô thần: làm sao ai đó có thể tin vào Thiên Chúa giữa những đau khổ không ngừng như vậy của con người? Nếu Thiên Chúa là Đấng toàn năng, tại sao những đứa trẻ mà Ngài yêu thương vẫn phải chịu đau khổ ở Ucraina? Và nếu Ngài toàn năng, tại sao Ngài không chấm dứt đau khổ của tất cả trẻ em? Cuối cùng, nếu Ngài thông biết mọi sự, Ngài không thể tuyên bố không biết về nỗi đau khổ mà tình yêu và quyền năng vốn được cho là của Ngài nên giải quyết. Thần học hay vấn đề về cái ác trong một thế giới do một vị Thiên Chúa tốt lành tạo dựng và giữ gìn có vẻ là lý do chính đáng để người ta tiếp tục là một người vô thần vĩnh viễn hoặc ít nhất là đặt ra một vấn đề thường trực cho Kitô hữu. Tôi đề xuất những suy ngẫm sau đây của Dòng Phan Sinh như một câu trả lời về sự đồng cảm của Thiên Chúa.

Nguồn gốc của từ “empathy” mang nghĩa sự bước vào nỗi đau khổ của người khác. Thiên Chúa nơi Chúa Kitô đã trở thành Thiên Chúa ở cùng chúng ta bằng cách tự nguyện bước vào nỗi đau khổ mà chúng ta phải chịu đựng một cách không mong muốn. Và Giáo hội - Thân Mình Chúa Kitô trên thế giới tiếp tục sứ mệnh cứu rỗi này bằng cách sống sự thấu cảm của Thiên Chúa.

Giáo hội Công giáo của chúng ta đề xuất ít nhất ba cách để sống sự thấu cảm của Thiên Chúa, và việc chúng ta trung thành chấp nhận những đáp ứng đó là điều cần thiết để đào lyện lương tâm chúng ta nên đúng đắn. Ba đáp ứng của Giáo hội đối với đau khổ là: (1) Loại bỏ đau khổ của con người; (2) Làm dịu đau khổ của con người; và (3) Noi gương đau khổ của Chúa Kitô.

1.   Loại bỏ

Học thuyết về tội tổ tông nói rằng cái ác và đau khổ đã xâm nhập thế giới do bản tính con người chứ không phải do bản tính Thiên Chúa. Do đó, chúng ta tin rằng mặc dù Thiên Chúa cho phép cái ác, nhưng Thiên Chúa không bao giờ gây ra hoặc  mong muốn cái ác. Vì vậy, những ai vâng lời Thiên Chúa đều chia sẻ mong muốn của Thiên Chúa là xóa bỏ đau khổ. Mong muốn của Thiên Chúa xóa bỏ đau khổ của con người là nền tảng cho giáo huấn xã hội của Giáo hội chúng ta. Trừ khi chúng ta là những người Công giáo theo kiểu căng tin, [1] chúng ta không thể bỏ qua mong muốn của Giáo hội là xóa bỏ nạn đói, chiến tranh, phân biệt chủng tộc, áp bức và mọi hành vi xúc phạm đến nhân phẩm con người. Có lẽ tội lỗi lớn nhất chống lại giáo huấn xã hội của Giáo hội là khuynh hướng coi thường giáo huấn đó, coi nó như một học thuyết ảo mộng, kiểu xứ sở thần tiên Disneyland. Ai dám mong đợi xóa bỏ đau khổ? Vâng, chúng ta đã xóa bỏ bệnh bại liệt, một căn bệnh mà cha mẹ và ông bà chúng ta nghĩ rằng sẽ không bao giờ có thể chống nổi. Việc xóa bỏ nhiều căn bệnh từng khiến toàn bộ dân số hoảng loạn đã được thực hiện chính là nhờ các nguyên tắc của giáo huấn xã hội được Thánh Gioan Phaolô II nhắc lại: nguyên tắc phụ trợ, đoàn kết và nhân phẩm. Khi chính phủ và doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn vào phẩm giá con người hơn là sự vô đạo đức, thúc đẩy tình đoàn kết giữa con người hơn là sự bất bình đẳng giữa các bộ lạc, và cho phép những công dân tự do, vốn bị ảnh hưởng trực tiếp nhất bởi những quyết định như vậy, được tự do đưa ra quyết định, thì chúng ta thúc đẩy lợi ích chung hơn là nỗi đau chung. Do đó, nếu các thuật ngữ như “phụ trợ”, “đoàn kết” và “lợi ích chung” không trở thành quen thuộc, thì việc nghiên cứu chúng khi chúng ta nghiên cứu các nguyên tắc cơ bản của các học thuyết khác là điều cần thiết để đào luyện lương tâm của chúng ta cách thích đáng. Đừng trở thành một người Công giáo kiểu căng tin. Mọi giáo thuyết của Giáo hội đều quan trọng, và bất cứ ai bác bỏ thay vì bảo vệ các giáo huấn xã hội của chúng ta, đều tiếp tay cho cuộc tấn công ưa thích của những người vô thần vào chính sự hiện hữu của Thiên Chúa. Phương cách đầu tiên mà Giáo hội sống theo sự thấu cảm của Thiên Chúa là loại bỏ đau khổ của con người.

2.   Giảm bớt

Tuy nhiên, việc xóa bỏ đau khổ là một chiến thắng phải thừa nhận là họa hiếm ngay cả trong cuộc chiến hàng ngày khẩn thiết. Đây là lý do tại sao khi chúng ta cố gắng xóa bỏ đau khổ, chúng ta luôn cố gắng xoa dịu hoặc giảm bớt đau khổ trong ngắn hạn. Chúng ta làm giảm nhẹ hoặc làm giảm bớt đau khổ khi chúng ta thực hiện các việc thương người phần xác - thương xác bảy mối - của Giáo hội. Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, cho khách đỗ nhà, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc và chôn xác kẻ chết. Đây là những bổn phận đạo đức chúng ta cần phải làm bất cứ khi nào chúng ta có cơ hội và có nguồn lực để hành động. Mặc dù mỗi người phải đưa ra quyết định thận trọng dựa trên hoàn cảnh riêng của mình, nhưng nhìn chung, khi nghi ngờ, thì cứ rộng lượng. Bất cứ khi nào chúng ta tự hỏi nên cho bao nhiêu, tốt hơn là nên cho nhiều hơn số tiền chúng ta nghĩ mình có thể cho. Một chút hy sinh như mua hàng của cửa tiệm nhỏ thay vì hàng hiệu có thể làm túi tiền của chúng ta dôi ra để thực hiện điều đó. Ngay cả khi chúng ta có tiếng là rộng tay, chúng ta cũng nên hành động khác với những người đồng hương của mình. Nếu chúng ta muốn trở thành thánh nhân, hãy tự hỏi: liệu chúng ta có thể nghĩ ra bất cứ vị thánh nào đã bỏ mặc những người vô gia cư, từ chối người ăn xin và tích trữ kho tàng trên trần gian cho riêng mình thay vì tích trữ kho tàng trên thiên đàng bằng cách trao ban cho những người anh em bé nhỏ nhất của mình không? Các vị thánh sống sự thấu cảm của Thiên Chúa bằng cách làm cho đau khổ của con người giảm bớt.

3.   Noi gương

Chúng ta hợp tác ngay cả với những người không phải là Kitô hữu để xóa bỏ đau khổ, và với tư cách là người Công giáo, chúng ta cố gắng làm cho đau khổ ít đi hoặc nhẹ bớt. Nhưng chính chúng ta cũng chịu đau khổ. Một số người trong chúng ta phải chịu hậu quả của gia đình tan vỡ hoặc những người thân yêu nghiện ngập. Những người khác phải chịu đựng sự ngược đãi và bỏ rơi, phân biệt đối xử hoặc nghèo đói. Không có người nào thoát khỏi nỗi đau của những phê phán bất công, đàm tiếu tàn nhẫn và hắt hủi đau đớn.

Mặc dù không có đau khổ nào do Thiên Chúa mong muốn gây ra, và mặc dù chúng ta luôn được giao nhiệm vụ đấu tranh để trước tiên loại bỏ và, khi không thể, làm giảm bớt đau khổ như vậy, đôi khi chúng ta không thể làm gì hơn là kiên nhẫn chịu đựng tổn hại, sẵn lòng tha thứ cho hành vi sai trái và cầu nguyện để kết hợp đau khổ của chúng ta với đau khổ của Chúa Kitô. Và đó là cách chúng ta thực hành các việc thương xót phần hồn – thương linh hồn bảy mối: lấy lời lành mà khuyên người, mở dậy kẻ mê muội, yên ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha kẻ dể ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cầu cho kẻ sống và kẻ chết. Vì vậy, khi chúng ta không thể loại bỏ đau khổ như Thiên Chúa mong muốn hoặc giảm bớt đau khổ như Chúa Kitô truyền lệnh, chúng ta luôn có thể noi gương đau khổ của Chúa Kitô, là Đấng gánh chịu mọi đau khổ cách kiên nhẫn và hiền lành. Chúng ta lấp đầy những gì còn thiếu trong đau khổ của Chúa Kitô bằng cách chịu đựng bất công và tha thứ cho kẻ thù như Ngài đã chịu đựng. Khi chúng ta vác thập giá của mình, chúng ta là Simon thành Xyrênê giúp Chúa Kitô vác Thập giá của Ngài để cứu rỗi thế giới. Thiên Chúa không muốn bất cứ ai phải chịu sỉ nhục hay ngược đãi, mà là loại bỏ hoặc ít nhất là làm giảm đau khổ như vậy. Nhưng khi chúng ta không thể loại bỏ hoặc làm giảm bớt đau khổ của chính mình, có thể do một sang chấn tâm lý trong quá khứ, chúng ta có thể noi gương đau khổ của Chúa Kitô. Và khi đó đau khổ của chúng ta trở thành hy lễ giống như hy lễ của Chúa Kitô, Đấng mà đau khổ của Ngài một ngày nào đó sẽ lau khô mọi giọt nước mắt và chữa lành mọi nỗi đau. Đau khổ của Kitô hữu, vốn là điều không mong muốn - không thể loại bỏ hoặc giảm bớt - không phải là vô nghĩa, nhưng có thể cứu rỗi, nếu chúng ta tự nguyện chịu đựng vì Chúa Kitô, khi kết hợp với sự đau khổ của Đấng vốn đã trở thành Thiên Chúa ở cùng chúng ta bằng cách tự nguyện bước vào đau khổ mà con người không mong muốn. Giáo hội - Thân Mình Chúa Kitô trên thế giới - tiếp tục sứ mệnh cứu độ của Chúa Kitô bằng cách sống sự thấu cảm của Thiên Chúa.

Không khác những người vô thần, Kitô hữu biết rằng đau khổ không bao giờ không có, nhưng không giống như những người vô thần, chúng ta cũng tin rằng đau khổ không phải là vô nghĩa. Vì vậy, những người Công giáo trung thành đào luyện lương tâm của mình một cách đúng đắn bằng cách tự hỏi: Làm thế nào để tôi hiệp nhất trong mục đích chung là loại bỏ đau khổ? Làm thế nào để tôi thực hành các nhân đức để giảm bớt đau khổ? Và làm thế nào để tôi có thể hiệp nhất nỗi đau không mong muốn của mình với những hy sinh tự nguyện của Chúa Kitô, đem lại ơn cứu rỗi khi chúng ta tự nguyện chịu đau khổ như Ngài? Chúng ta, những người Công giáo, không bao giờ có thể thuyết phục được người khác chỉ bằng cách nói về thần học, nhưng chúng ta có thể hoán cải các linh hồn bằng cách sống theo sự thấu cảm của Thiên Chúa suốt cuộc đời mình.

Tác giả: LM Kenneth G. Davis, Dòng Phan sinh Viện Tu

Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung

Từ https://www.hprweb.com

[1] Người Công giáo căng tin là người chỉ chọn giáo huấn nào của Giáo hội phù hợp với họ mà họ muốn tin. Họ không đồng tình với một số giáo huấn chính thức hoặc luân lý của Giáo hội Công giáo. Các cuộc thăm dò cho thấy rằng nhiều người Công giáo không đồng tình với phẩm trật của Giáo hội về ít nhất một vấn đề, như ủng hộ án tử hình, thủ dâm, hoặc chấp nhận các biện pháp kiểm soát sinh sản nhân tạo, thụ tinh trong ống nghiệm...

 

Danh mục:
Tác giả: