Suy niệm Chúa Nhật 13 TN NC
- T4, 25/06/2025 - 23:30
- Lm Phan Văn Lợi
Chúa Nhật 13 Thường Niên Năm C : Lc 9,51-62
51Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem. 52Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến. 53Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem. 54Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Gia-cô-bê và ông Gio-an nói rằng : “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không ?” 55Nhưng Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông. 56Rồi Thầy trò đi sang làng khác.
57Đang khi Thầy trò đi đường thì có kẻ thưa Người rằng : “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” Người trả lời : “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” Đức Giê-su nói với một người khác : “Anh hãy theo tôi !” Người ấy thưa : “Thưa Thầy, xin phép cho tôi về chôn cất cha tôi trước đã.” Đức Giê-su bảo : “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.” Một người khác nữa lại nói : “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã.” Đức Giê-su bảo : “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”
KHÔNG LIỀU TỪ BỎ, CHẲNG XỨNG NƯỚC TRỜI
Trang Tin Mừng đọc hôm nay gồm ba đoạn xem ra khá khác biệt nhau : Đức Giê-su quyết định lên đường tiến về Giê-ru-sa-lem… Người từ chối dùng bạo lực từ trời chống lại những kẻ từ khước mình… Cuối cùng, Người đưa ra nhiều đòi hỏi rất mạnh mẽ cho những ai muốn theo mình… Đây là một cơ hội tốt để chiêm ngưỡng nhân cách của Đức Giê-su, các phản ứng sâu xa của Người, vốn mạc khải nhiều thái độ của chính Thiên Chúa.
1- Đức Giê-su, con người của lòng can đảm
Trong trình thuật của Tin Mừng theo thánh Lu-ca, nơi đây bắt đầu một phần mới mà người ta gọi là “hành trình lên Giê-ru-sa-lem.” Cho tới nay, Đức Giê-su đã rao giảng hầu như chỉ ở Ga-li-lê, tỉnh ngoại biên, xa “giới trí thức” của thủ đô, xa các ký lục và thông luật vốn kết án Người ngay từ đầu (Mc 3,6.22). Hai lần, Người vừa loan báo mình sẽ bị các thượng tế và kinh sư giết chết (Lc 9,22.43).
Người có thể ở lại Ga-li-lê. Thậm chí có thể lánh xa vào vùng dân ngoại lân cận, bên kia biển hồ. Như thế Người tránh được đau khổ và cái chết đang chờ đợi mình ở Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên, “thời gian đã mãn, đến buổi Người siêu thăng, Đức Giê-su đanh mặt lại mà đi lên Giê-ru-sa-lem” Lối dịch sát chữ này bao hàm nhiều từ mạnh mẽ. Cái chết của Người sẽ là một sự hoàn tất, kết thúc, thành tựu đời mình. Cái chết của Người cũng sẽ là một sự siêu thăng, được đem lên trời -ở đây ta có cùng từ như trong cuộc Thăng thiên (x. Lc 24,51) - tương ứng với thần học của thánh Gio-an : “Con Người cũng sẽ phải được giương cao” (Ga 3,14; 8,28; 12,32-34). Thành thử Đức Giê-su tiến đến thử thách tối đại với ý thức đầy đủ của ngôn sứ vốn “chỉ có thể chết tại Giê-ru-sa-lem” (Lc 13,33). Tuy nhiên, Người phải “đanh mặt lại” (ngày nay ta nói Người quả cảm, Người nhất quyết) để dấn thân vào việc hoàn tất bổn phận của mình.
Biết bao ánh sáng, biết bao khích lệ/trợ lực cho tất cả những ai đang đau khổ, và những ai phải đứng vững bằng bất cứ giá nào trong các thử thách đôi khi muốn đè bẹp họ.
2- Đức Giê-su, con người của bất bạo động
Chúng ta vừa chiêm ngưỡng sức mạnh của Đức Giê-su, khả năng quyết định cách tự do và can đảm của Người. Đấy không phải là một kẻ nhu nhược, nhạt nhẽo. Tuy thế, Người “có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Một ngôi làng Sa-ma-ri đã từ chối đón tiếp các khách hành hương Do-thái ấy trong một phản ứng phân biệt chủng tộc vốn có mọi thời : người Sa-ma-ri và người Do-thái từng không thể chấp nhận nhau. Gia-cô-bê và Gio-an, “con thiên lôi”, do phẫn nộ, đề nghị sử dụng phương cách của ngôn sứ Ê-li-a (2V 1,10) để giáng “lửa trời” (thiên hỏa) trừng phạt ngôi làng không đồng ý với họ. Đức Giê-su hãy cho thấy mình có quyền lực thần linh làm được phép lạ.
Chúng ta chẳng luôn luôn, kể cả hôm nay, có ý tưởng về một Thiên Chúa ưa chấn động, thích tiêu diệt những kẻ độc ác dữ dằn ? Đó là phương pháp của mọi quyền lực độc tài trong thế giới chính trị hay kinh tế : loại trừ địch thủ.
Thế nhưng Đức Giê-su chẳng theo ý kiến ấy : “Các ngươi không biết các ngươi ứng theo thần khí nào”, một vài thủ bản thêm. Như trong cơn cám dỗ thứ ba (Lc 4,12), Đức Giê-su từ chối tự khẳng định mình bằng một sự can thiệp thần linh gây ấn tượng. Như thế Người đã mạc Thiên Chúa đích thực, Đấng sau khi tạo dựng con người có tự do, đã tôn trọng tự do ấy đến cùng. Làm sao Thiên Chúa lại tiêu diệt những kẻ tội lỗi ? Người yêu thương họ… Người muốn cứu họ… “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,33). Đức Giê-su sẽ gánh chịu bạo lực mà chẳng đáp trả. Đó là con người bất bạo động tuyệt hảo, chặn lại cái vòng quỷ quái của sự dữ bằng cách nhận lấy trên mình điều ác mà chẳng thực hiện nó bao giờ.
Nơi đây cũng vậy, biết bao ánh sáng cho nhiều tình thế tranh chấp của chúng ta !
3- Đức Giê-su, con người của đòi hỏi tuyệt đối
Thái độ bất bạo động của Đức Giê-su nói trên có thể khiến chúng ta nghĩ đến một nhân cách trung lập, dửng dưng, để mặc người ta làm mọi sự trong một kiểu bao dung mơ hồ và mềm yếu. Thế nhưng trái lại, này đây Đức Giê-su đề ra cho những ai muốn theo mình nhiều đòi hỏi gần như siêu phàm. Người không chấp nhận sự chậm trễ, sự gia hạn nào… Người đòi hỏi một thái độ sẵn sàng lập tức và toàn diện… Người yêu cầu một quyết định triệt để, không ngoái lại đằng sau, và như chà đạp dưới chân những tình cảm gia đình tự nhiên nhất.
Nếu chúng ta đã hiểu tính mới mẻ và tính triệt để của Tin Mừng, thì chẳng có gì đi ngược với Tin Mừng bằng thói do dự, sự ươn lười thiêng liêng (uể oải tinh thần) vốn tự biện minh qua thái độ thỏa hiệp, biện pháp nửa vời. Không, Đức Giê-su không thể chịu đựng những sự xoàng xĩnh của ta khi ta biện minh chúng bằng nhiều cớ hay đẹp.
Phần Người, Người dũng cảm leo lên đồi Can-vê tại Giê-ru-sa-lem. Đối với ai không có can đảm đánh mất bản thân (danh dự, mạng sống) khi theo Chúa thì nên tránh mặt là vừa.
Khi tàu Titanic chìm ở Bắc Đại Tây Dương vào rạng sáng ngày 15-04-1912, sau khi va phải một tảng băng trôi vào đêm hôm trước, với hơn 1500 người chết đuối vì không đủ thuyền cứu nạn, trên tàu có triệu phú John Jacob Astor IV. Số tiền trong tài khoản ngân hàng của ông đủ để xây dựng 30 con tàu Titanic. Thế nhưng, lúc đối mặt với tử thần, ông đã lựa chọn điều mà mình cho là đúng đắn về mặt đạo đức : nhường chỗ trên thuyền cứu hộ để cứu hai đứa trẻ đang hoảng sợ. Triệu phú Isidor Straus, đồng sở hữu chuỗi cửa hàng bách hóa lớn nhất nước Mỹ, Macy’s, cũng có mặt trên Titanic. Ông nói : “Tôi sẽ không bao giờ lên thuyền cứu hộ. Tôi từ chối lên thuyền cứu sinh khi còn phụ nữ và trẻ em trên tàu.” Vợ ông, bà Ida Straus, cũng từ chối lên thuyền, nhường chỗ cho người hầu gái mới của mình, Ellen Bird. Bà quyết định dành những giây phút cuối cùng bên chồng. Bà nói : “Chúng ta đã sống bên nhau nhiều năm. Nơi nào anh đi, em sẽ đi cùng.” Những con người giàu có này đã chọn từ bỏ tài sản, thậm chí cả mạng sống, để giữ vững nguyên tắc đạo đức của mình. Lựa chọn ấy chính là biểu tượng của sự cao đẹp trong văn minh lẫn bản chất con người đã được Thiên Chúa dựng nên có bộ óc và trái tim. Nên khi bước vào vĩnh cửu, chắc hẳn họ sẽ được nghe Thiên Chúa phán thế này : “Các con đã hy sinh mạng sống mình do tình yêu đối với tha nhân, đó là hy sinh vì Ta vậy. Bỏi lẽ Ta chính là Tình Yêu. Nào mời các con đi vào cõi tình yêu bất tận, hạnh phúc muôn đời, nơi chúng con đã được siêu thăng do lòng dũng cảm.”
LỄ THÁNH PHÊ-RÔ VÀ PHAO-LÔ TÔNG ĐỒ
Cv 12,1-11; 2Tm 4,6-8.17-18; Mt 16,13-19.
13Khi Đức Giê-su đến miền Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng : “Người ta nói Con Người là ai ?” 14Các ông thưa : “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, người khác lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các ngôn sứ.” 15Người lại hỏi các ông : “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai ?” 16Ông Si-môn Phê-rô thưa : “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” 17Đức Giê-su nói với ông : “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. 18Còn Thầy, Thầy bảo anh : anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực âm phủ sẽ không thắng nổi. 19Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời : dưới đất, anh ràng buộc điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc như vậy ; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.”
Sau Chúa Giê-su Ki-tô, thánh Phê-rô là nhân vật được nhắc đến nhiều nhất trong Tân Ước : tên mới của ngài Phê-rô vang lên 154 lần, 27 lần được liên kết với tên cũ là Si-môn, một cái tên tự nó lặp lại thêm 20 lần nữa, đang khi tên Aram Kê-pha vang lên 9 lần, chủ yếu được Phao-lô sử dụng. Trong phụng vụ hôm nay, chúng ta thử trình bày một chân dung đơn giản về thánh Phê-rô, và tiếp đó là thánh Phao-lô.
Lộ trình thiêng liêng của Phê-rô được tái dựng dựa trên nhiều chứng từ khác nhau (Nhất lãm, Gio-an, Công vụ, Phao-lô, các thư Phê-rô). Từ các lời chứng đó, ngài nổi lên như “môn đồ lịch sử của Đức Giê-su, chứng nhân có thẩm quyền về sự phục sinh của Người và là kẻ bảo đảm tính xác thực của truyền thống Ki-tô giáo” (R. Fabris).
Dựa trên văn bản do phụng vụ hôm nay đề ra (Mt 16), chúng ta sẽ nêu lên những nét chủ yếu của hình ảnh Phê-rô trong Tin Mừng Nhất lãm. Một dữ kiện ý nghĩa đầu tiên là ơn gọi của ngài, khiến ngài nằm vào số những kẻ được Đức Giê-su kêu mời trước hết, cùng với An-rê, anh ruột, Gia-cô-bê và Gio-an. Bối cảnh là nghề ngư phủ của họ mà Đức Giê-su đã can thiệp vào với một lời mang tính tiên tri và hữu hiệu, biến đổi mấy tay Ga-li-lê hèn mọn này thành “những kẻ lưới người như lưới cá” (Mc 1,16-18). Từ thời điểm ấy trở đi, Phê-rô sẽ được liên kết vào sứ vụ của Đức Giê-su trong một vị thế nổi bật, như các danh sách Nhóm Mười Hai cho thấy : “Đứng đầu là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô” (Mt 10,2-4; x. Mc 3,16-19Lc 6,13-16).
Dữ kiện thứ hai của đời thánh Phê-rô là việc đi theo Đức Giê-su, hậu quả hợp lý của ơn gọi. Hơn nữa, ngài luôn thuộc nhóm môn đệ ưu tiên tháp tùng Thầy trong những thời điểm đặc biệt của Người, như cuộc Hiển dung, việc hồi sinh con gái ông Gia-ia, buổi cầu nguyện tại vườn Cây Dầu. Chính Phê-rô đã đón tiếp Đức Giê-su vào nhà của mình ở Ca-phác-na-um, nơi mẹ vợ của ngài cũng được giới thiệu. Nhiều lần khác, ngài là phát ngôn nhân của Nhóm Mười Hai, như trong trường hợp bà băng huyết (x. Lc 8,45), hay được liên kết chặt chẽ với Thầy, như trong trường hợp nộp thuế Đền thờ (x. Mt 17,24-27). Do đó, ngài là nguyên mẫu của người môn đệ đi theo Đức Giê-su trong nhiệt tình cũng như trong khủng hoảng (x. Mc 10,28-31).
Một yếu tố quyết định thứ ba được trình bày trong cảnh ở miền Xê-da-rê Phi-líp-phê mà phụng vụ hôm nay đề nghị như bài đọc Tin Mừng. Dựa trên lời tuyên tín của ngài (“Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”), quà tặng của ân sủng thần linh (“Không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy”), Phê-rô được đặt làm nền móng, đá tảng cho cộng đoàn thiên sai của Đức Giê-su (“Hội thánh của Thầy”) và được giao phận sự hướng dẫn viên thẩm quyền (biểu tượng chìa khóa lẫn việc ràng buộc-tháo cởi).
Tuy nhiên ngay sau đó, thánh Phê-rô phải học biết rằng sứ vụ ấy không phải là chuyện quyền lực và uy danh, trái lại là một con đường dâng hiến hệ tại việc chia sẻ số phận của Đức Giê-su ngay cả với cái giá cao nhất, lãnh thập giá và chịu mất mạng. Và trong ánh sáng ấy, ta hiểu được nét thứ tư nơi tiểu sử thiêng liêng của vị tông đồ, nét khủng hoảng. Việc Phê-rô chối Thầy đã được chuẩn bị ngay từ cảnh trung gian là vườn Ghét-sê-ma-ni, nơi ngài hiện diện giữa các môn đệ mà Đức Giê-su đã muốn có bên mình trong đêm chiến đấu ấy : “Si-môn, anh ngủ à ? Anh không canh thức nổi một giờ sao ?... Tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mc 14,37-38). Sự yếu đuối cùng cực của vị tông đồ là 3 phen chối Thầy bên trong dinh thượng tế, 3 phen như giáo huấn của Đức Giê-su về cuộc thương khó và cái chết của Người vậy.
Nhưng từ vực thẳm tội lỗi của mình, thánh Phê-rô sẽ biết leo lên nhờ tìm được sức mạnh nơi lòng thống hối, nhờ cay đắng khóc lóc lỗi phạm. Như Gio-an có ghi nhận, 3 lần tuyên xưng tình yêu của ngài đối với Đức Ki-tô, thốt lên bên bờ hồ Ti-bê-ri-a, sẽ xóa sạch 3 bận chối Thầy (21,15-17). Việc khôi phục này, cách gián tiếp, đã được khẳng định trước sự hiện diện của ngài trong biến cố Vượt qua và được Đức Ki-tô minh nhiên thông báo tại nhà Tiệc ly, sau khi thầy trò cử hành bữa tiệc : “Si-môn ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của ang mnh nên vững mạnh” (Lc 22,321-32). Sự yếu đuối của vị tông đồ sẽ không cản ngài thi hành chức năng “tảng đá” của Giáo hội, chức năng không chỉ mang tính thể chế mà còn được hỗ trợ bởi ân sủng thần linh.
Chúng ta hôm nay không chỉ hướng về Phê-rô và mọi đấng kế nhiệm như gương mẫu của đức tin và lòng hoán cải, mà còn như vị hướng dẫn luôn củng cố chúng ta trong cùng đức tin và hiệp thông Giáo hội. Cuối cùng, hãy chiêm ngưỡng vị tông đồ như truyền thống từng cho biết là đã tử đạo tại Rô-ma, bị đóng đinh với thập giá lộn ngược, khác với Thầy mình. Thi sĩ Paul Claudel người Pháp đã ca tụng việc này như sau : “Phê-rô chịu đóng đinh như trên một cái neo, chìm trong vực thẳm và cơn chóng mặt. Bị lộn ngược, ngài đã nhìn lên thiên đàng mà ngài có chìa khóa, lên vương quốc từng dựa trên danh hiệu Kê-pha. Ngài nhìn thấy Thiên Chúa, và máu từ chân nhỏ xuống mặt ngài từng giọt.”
6Anh thân mến, phần tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi.7 7Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. 8Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính ; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện. 16bMọi người đã bỏ mặc tôi. 17Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. 18Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời. A-men.
Suy niệm này, chúng ta dành cho Phao-lô. Khởi điểm là chứng từ tự thuật sử đẹp đẽ chứa đựng trong bài đọc 2 hôm nay, mô tả rõ ràng việc Thánh Tông đồ[1] đã hiến dâng cuộc sống mình cách tuyệt đối và triệt để. Bốn hình ảnh “đổ máu”, “ra đi”, “thi đấu” và “chạy đua” minh họa một cuộc đời hướng đến mục tiêu là “hoàn thành việc rao giảng và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng” (2Tm 4,17). Để biết khuôn mặt và sứ điệp của ngài, chúng ta sử dụng hai nguồn : các thư của thánh nhân (mặc dầu không phải tất cả đều được ngài viết trực tiếp) và chứng từ của sách Công vụ từ chương 13 đến hết. Ta sẽ dựa vào 2 nguồn đó, nhất là nguồn thứ nhất, để đào sâu vấn đề, với hy vọng Phao-lô sẽ ít xa lạ hơn với cộng đoàn Giáo hội hiện tại.
Tâm điểm đối với Thánh Tông đồ là kinh nghiệm về cuộc hoán cải đã bắt lấy đời ngài : “Chính tôi đã được Đức Ki-tô chiếm đoạt”, ngài thú nhận trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê như thế (3,12). Nơi bản thân ngài đã giao thoa 3 thế giới và 3 văn hóa rồi : Hip-ri do dòng tộc và tôn giáo (một sự tùy thuộc ghi dấu mãi mãi lên ngài, ngay cả sau khi trở lại), ngài diễn đạt trong ngôn ngữ và hình thức Hy-lạp, rồi là một công dân Rô-ma muốn tự đóng khung trong cơ cấu chính trị của đế quốc. Tính chất quốc tế này sẽ thuyết phục ngài thực hiện việc đem Ki-tô giáo hội nhập văn hóa trong thế giới Hy-La, diễn đạt lại sứ điệp theo những phạm trù và ngôn ngữ mới.
Do đó thánh Phao-lô là thừa sai Ki-tô giáo vĩ đại nhất trong lời nói, gương mẫu và việc làm đối với các giáo đoàn được ngài thành lập, do luôn xác tín “như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy” (2Cr 5,20), vì “Tin Mừng là quyền năng Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin” (Rm 2,16). Sứ điệp của ngài, vốn cũng đã gây ra nhiều phản ứng rất gay gắt trong chính phạm vi Ki-tô giáo, cần phải được tìm nhất là trong các thư của ngài. Các lá thư nầy, mặc dù không phải là những luận thuyết có hệ thống, vẫn cung cấp một bức tranh phong phú và chặt chẽ về “Tin mừng” ngài rao giảng. Một học giả, RE.P. Sanders, đã phác thảo cấu trúc của Tin mừng đó như sau : “Theo một kế hoạch vĩ đại, Thiên Chúa ban ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người, Hip-ri lẫn lương dân, trong Đức Ki-tô chết và sống lại. Người ta trở nên kẻ tham dự vào ơn cứu rỗi bằng cách kết hợp với Đức Kitô nhờ niềm tin, chết cùng Người đối với tội lỗi và tham dự quyền năng phục sinh của Người. Tuy nhiên, ơn cứu rỗi vẫn chưa hoàn tất cho tới khi Người đến lại ; đang khi đó, kẻ ở trong Đức Ki-tô thì thoát khỏi quyền lực của tội lỗi lẫn Lề luật, trở nên một con người mới nhờ hoạt động của Thánh Thần, và hành vi thái độ của đương sự phải cảm hứng từ hoàn cảnh mới, trong đó đương sự đã tìm thấy được chính mình nhờ tiếng Thiên Chúa kêu gọi.”
Do vậy, đó là một kế hoạch cứu rỗi vĩ đại của Ngôi Cha biểu lộ trong Đức Ki-tô : Chính Người đã ban cho ta ân sủng cứu độ qua cái chết và sự phục sinh của mình. Con người phải tự do đón nhận ân sủng ấy trong đức tin và như thế trở thành tạo vật mới, mở ra cho niềm hy vọng vào một số phận vinh quang mà dân Do-thái lẫn dân ngoại đạo đều được kêu gọi tới hưởng. Do đón nhận ân sủng trong đức tin, từ tín hữu sẽ phát sinh nhiều việc làm công chính. Những việc làm này không phải là "công nghiệp" để thủ đắc chính ân sủng đã được TC tự ý tuôn đổ trong Đức Kitô, song là "hoa quả của Thánh Thần" vốn đang hoạt động trong chúng ta. Cách thức hiện hữu mới mẻ của con người (trong ân sủng và trong đức tin) do đó tự nhiên diễn đạt ra trong một cách thức hành động mới mẻ phát sinh từ việc trở nên hữu thể mới.
Liên kết sâu xa với Đức Ki-tô trong tất cả cuộc sống và việc rao giảng của mình, thánh Phao-lô vẫn không phải là một đấng sáng lập khác của Ki-tô giáo bên cạnh Đức Giê-su. “Giữa Đức Giê-su và Phao-lô có một dây liên kết là cộng đoàn Kitô giáo nguyên thủy, trong đó Thánh Tông đồ chia sẻ đức tin lẫn lời rao giảng, ngay cả khi đặc sủng của ngài và ơn gọi đã khiến ngài phát triển nhiều khía cạnh riêng biệt. Sự hiện diện của Phao-lô trong Giáo hội, do đó, luôn mang tính kích thích." (P. Rossano). Không có ngài, sẽ khó tưởng tượng ra thần học lẫn chính lịch sử của Kitô giáo. Tuy nhiên, thánh Phao-lô vẫn neo vào Tảng Đá là Chúa Kitô lẫn Đá (Phê-rô) của Giáo hội, và bài học của ngài vẫn còn phải vang dội trong tất cả sức mạnh của sự trung thành và sự khiêu khích, của tính kiên định và lòng đam mê, của đức tin và tình yêu mến.
Viết theo Gianfranco Ravasi, Secondo le Scritture. Doppio commento alle letture della domenica. Anno C. Piemme 1999. Pagine 373-378.
[1] Trong thần học và giáo sử, “Thánh Tông đồ” (viết hoa) là danh hiệu dành cho thánh Phao-lô.