Nhảy đến nội dung

Tấm lòng Giavê - tình yêu muôn thuở

TẤM LÒNG GIAVÊ --TÌNH YÊU MUÔN THUỞ
Lm. JBT Phạm Quốc Hưng, CSsR

    Trái Tim Chúa Giêsu là biểu tượng và hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa dành cho con người chúng ta. Tình yêu ấy không phải chỉ bắt đầu từ khi Chúa Giêsu xuống thế làm người, vì Chúa yêu ta từ đời đời: “Ta đã yêu ngươi, một tình yêu muôn đời, bởi thế với ngươi, Ta đã giữ bền lòng ân nghĩa” (Jer. 31:3). Ngay trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu ngút ngàn của Người dành cho nhân loại nói chung và Dân Người nói riêng, nơi các việc Người đã thực hiện nơi lịch sử Dân Chúa và qua sấm ngôn của các tổ phụ và ngôn sứ. 


Nhưng chỉ nơi Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm Người, chúng ta mới đón nhận được trọn vẹn ân tình của Thiên Chúa, như Thánh Gioan viết: “Vì do từ sự sung mãn của Ngài mà ta hết thảy đã chịu lấy, ơn này thay ơn nọ. Vì Luật đã được ban nhờ Môsê, ơn nghĩa và sự thật chỉ nơi Chúa Giêsu Kitô mà có. Thiên Chúa, không ai thấy bao giờ; Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính Ngài đã thông tri” (Jn 1:16-18). 


Việc hiểu biết sâu xa Tấm Lòng của Giavê như đã được trình bày trong Cựu Ước sẽ giúp chúng ta thêm trân quý phúc trọng của chúng ta, các tín hữu Chúa Kitô, khi nhận biết rằng Tấm Lòng Thương Yêu của Giavê Thiên Chúa đã được trao tặng trọn vẹn cho mỗi người chúng ta nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu. Đó là điều chính Chúa Giêsu muốn chúng ta nhận biết khi Người nói: “Phần các ngươi, mắt các ngươi có phúc vì thấy, tai các ngươi có phúc vì nghe. Quả thật, Ta bảo các ngươi: nhiều vị tiên tri, nhiều người công chính đã mong thấy điều các ngươi thấy, mà đã không thấy; nghe điều các ngươi nghe, mà đã không nghe” (Mt 13:16).

    Chúa yêu thương trước
Vì yêu ta, Chúa đã dựng nên ta.
    Chúa yêu ta hơn vạn vật vì Chúa đã dựng nên ta giống hình ảnh của Chúa (Gen 1:26-27); nghĩa là, Chúa ban cho ta có trí khôn và lòng muốn, có khả năng đón nhận và trao ban tình yêu, để ta bước vào liên hệ yêu thương với Người và chia sẻ chính sự sống và hạnh phúc sung mãn của Chúa.
    Tổ tông loài người, Adong-Evà, đã lỡ dại sa ngã phạm tội và cắt đứt liên hệ yêu thương vơi Thiên Chúa.
    Nhưng Chúa không “lỡ” khi dựng nên con người; Người chẳng lầm khi yêu thương chúng ta; vì Chúa biết rõ mọi việc ngay cả trước khi chúng xảy ra. Chính Người an bài hoặc cho phép mọi sự xảy ra để chứng tỏ:
-    Tội lỗi con người dù lớn lao đến đâu cũng không vượt quá sự bao la của tình yêu Thiên Chúa.
-    Tình yêu Thiên Chúa không dời đổi, bất chấp sự gia tăng tội lỗi nơi con người.
-    Lòng thương xót của Thiên Chúa có dịp thi thố cách tuyệt vời nơi sự cứu chuộc và tha thứ tội lỗi cho con người.
-    Tội lỗi là điều xấu xa mà ta phải “thà chết chẳng thà phạm tội”, nhưng việc nhận biết tội lỗi của mình để thống hối trong niềm tin cậy tuyệt đối nơi tình yêu Chúa lại là một hồng ân vĩ đại: “Với những ai yêu mến Thiên Chúa, thì Người đồng công cộng tác biến mọi sự nên lành” (Rom 8:28). Thánh Augustinô thêm “mọi sự” ở đây phải hiểu là cả “những tội đã lỡ phạm”.


Một tác giả cho rằng thật sai lầm khi chúng ta quá nhấn mạnh đến “tội nguyên thủy” về phía con người mà quên rằng việc Thiên Chúa tạo dựng con ngươi trước tiên và căn bản là một “ơn nguyên thủy”. Ơn trọng này là một quà tặng được trao ban cho con người từ tấm lòng yêu thương vô bờ của Thiên Chúa, Đấng chính là Tình Yêu. 
 

Vì vậy, chính Tình Yêu và Ân Sủng của Thiên Chúa, chứ không phải tội lỗi của con người, phải là trọng tâm và căn bản của đời sống và lịch sử nhân loại, là nền tảng cho mọi suy tư thần học, là lương thực nuôi dưỡng đời sống tâm linh, là ánh sáng chiếu soi tất cả các mầu nhiệm khác trong đức tin Công Giáo. Chính trong ánh sáng này, được bày tỏ rạng ngời trong mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô, mà trong Đêm Vọng Phục Sinh Giáo Hội mới có thể gọi tội Ađam là “tội có phúc”.
Và Thánh Gioan đã tóm gọn căn bản của niềm tin Kitô giáo trong định nghĩa sau: “Tình yêu là thế này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay tội lỗi chúng ta” (1 Jn 4:7-10).

Tình sử Giavê
Lịch sử ơn cứu độ được trình bày trong Thánh Kinh là trình thuật của việc Thiên Chúa không ngừng thi thố tình yêu vô biên tuyệt vời của Người dành cho nhân loại, biểu dương lòng trung tín, nhẫn nại và quảng đại vô bờ của Chúa. Đó cũng là trình thuật vạch ra sự bất trung, vô ơn và dại dột của con người đối với Thiên Chúa. Đồng thời, trình thuật ấy làm thành một sứ điệp tình yêu của Thiên Chúa mời gọi con người trở về với Người để được tha thứ, được cứu độ, được sự sống và hạnh phúc đích thực trong tình yêu của Người.


 Ngay trong án phạt tội tổ đã có mầm cứu độ qua lời hứa “Dòng giống nó sẽ đạp nát đầu ngươi” (Gen 3:15). Khi giao ước yêu thương giữa Thiên Chúa và con người bị tổn thương bởi tội tổ, Thiên Chúa tiếp tục tái lập giao ước yêu thương và canh tân tình yêu của Người dành cho nhân loại qua Nôe, Abraham, Isaác, Giacóp, Môisen. 


    Cách Chúa tuyển chọn các tổ phụ và các ngôn sứ trong Cựu Ước cũng cho thấy tình yêu của Người dành cho ta là một món quà nhưng không: Người chọn Giacóp là em thay vì Êsau là anh để làm tổ phụ Dân Chúa; vị vua đầu tiên của Dân Chúa là Saolê được chọn từ chi tộc Bengiamin, chi tộc rốt cùng trong 12 chi tộc Israel; Ngôn sứ Samuel được Chúa sai đến xức dầu phong vương cho Đavít, người em út trong gia đình  Ysai! 


Qua đó, Chúa muốn ta hiểu rằng Ơn Chúa dành cho ta không phải vì ta xứng đáng nhưng là vì Chúa quá yêu thương ta. Và chúng ta đã được thuộc về Chúa trong một giao ước tình yêu, một hôn ước, chứ không phải một khế ước buôn bán đổi chác hay một hợp đồng công xá, dựa trên việc tính toán, cân đo, đong đếm.


    Có thể nói được rằng ngôn sứ Hôsê là người đã trình bày tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại bằng ngôn ngữ của liên hệ phu phụ giữa Giavê với dân Israel một cách tha thiết đậm đà hơn cả. Hôsê khởi đầu sứ vụ ngôn sứ trong thời Vua Jeroboam II ở vương quốc phía Bắc (783-743 BC), tiếp tục hoạt động trong các triều kế tiếp và có lẽ kết thúc trước năm 721 BC. Ông đã cưới một người vợ tên là Gômer, và người vợ này đã bỏ ông. Ông vẫn yêu quí và đã nhận về sau khi đã thử luyện. 


Kinh nghiệm đau thương này của Hôsê đã trở thành một hình ảnh cho cách cư xử của Giavê đối với dân Người. Hôsê là người đầu tiên đã diễn tả liên hệ giữa Giavê và Israel trong ngôn gnữ của một cuộc hôn nhân. Sứ điệp của ông gây ảnh hưởng sâu đậm trong Cựu Ước và trong lời kêu gọi của các ngôn sứ sau này về một tôn giáo của tấm lòng, của con tim. 


Các ngôn sứ Jeremiah, Ezekiel và Isaia tiếp tục dùng ngôn ngữ của tình yêu phu phụ để diễn tả liên hệ giữa Giavê và Israel. Các tác giả Tân Ước cũng dùng ngôn ngữ ấy để diễn tả liên hệ giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. Trong truyền thống tu đức và thần bí của Giáo Hội, liên hệ phu phụ cũng được dùng để diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và mỗi linh hồn.
 

Trong sấm ngôn của Hôsê, Giavê như muốn nhắc lại tình sử của Người dành cho Israel:
“Thuở Israel còn là trẻ bé, Ta đã mến thương,
và từ Aicập, Ta đã gọi con Ta.
Người ta (cũng) đã gọi chúng. Thế là chúng đã lìa Ta.
Phần chúng, chúng đã tế cho các Baal,
chúng đã huân yên kính ngẫu tượng.
Chính Ta, Ta đã tập đi cho Ephraim.
Ta bồng bế chúng trên cánh tay Ta.
Nhưng chúng nào có biết là chúng đã được Ta săn sóc.
Ta lôi kéo chúng, với dây tình người, với thừng chão yêu thương.
Với chúng, Ta ở như những người nhấc con đỏ lên tận má mình.
Và cúi xuống trên nó, Ta mớm cho nó ăn” (Hs 11:1-4).

 

Trong tình sử ấy, bất chấp sự xấu xa bội phản của Israel, Giavê đã bước vào mối tình thâm sâu với Israel, đã đính hôn và kết hôn với Israel, để Israel mãi mãi thuộc về Giavê, và thuộc về một mình Người mà thôi:
“Cho nên, này Ta dụ dỗ nó, đem nó vào sa mạc,
và kề lòng Ta nói khó với nó” (Hs 2:16).
“Ta sẽ đính hôn với ngươi mãi mãi,
Ta sẽ đính hôn với ngươi bằng công chính,
Công minh, nhân nghĩa, xót thương.
Ta sẽ đính hôn với ngươi bằng đức trung tín,
Và ngươi sẽ biết Giavê” (Hs 2:21-22).
“Như tai trài sánh duyên cùng thục nữ,
Đấng xây dựng ngươi sẽ cùng ngươi kết nghĩa giao duyên,
Như tân lang hoan hỉ nơi một tân nương,
Người sẽ hoan hỉ nơi ngươi, Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 62:5).

 

Về phần Israel, tất cả chỉ là phản bội, thất trung, là thờ ơ lãnh đạm, là dối trá điêu ngoa, lấy oán báo ân khi Israel chạy theo các tà thần ngoại lai để phạm đủ thứ tội ác làm đau lòng Giavê: “…chúng đã phạm đến Giao ước….. chúng đã bội tín với Ta” (Hs 6:7). Chính sự phản bội và tội lỗi của Israel đã khiến họ lìa xa Thiên Chúa và gây ra những đau khổ cùng cực cho chính họ.
“Những công việc của chúng
không cho phép chúng trở lại với Thiên Chúa chúng thờ,
bởi giữa chúng thần đĩ điếm đã tung hoành,
nên chúng đã chẳng biết Giavê.
Tội kiêu ngạo của Israel đã vạch mặt nó,
Vì tội của nó Israel và Ephraim sẽ lăn nhào.
Và cả Giuđa cũng đã lăn nhào với chúng” (Hs 5:4-5).
“Khốn cho chúng, bởi chúng đã trốn thoát Ta!
Tan hoang cho chúng, bởi chúng đã phản nghịch Ta!
Phần Ta, Ta đã muốn chuộc chúng lại,
còn chúng, chúng đã nói dối nói trá chống lại Ta” (Hs 7:13).

 

Mặc dù Thiên Chúa đau buồn và nổi cơn ghen tức trước sự ngoại tình của Israel, vì quá yêu Israel và vì lòng tín trung của Người, Giavê không thể bỏ hẳn Israel, không thể đoạn giao với Israel. Người sẽ mãi mãi yêu thương, mãi mãi thứ tha:
“Dân Ta đèo queo lấy trò phản phúc lại Ta.
Người ta gọi chúng lên cao,
tuyệt nhiên chẳng một người nào rướn lên.
Làm sao Ta nỡ bỏ ngươi, hỡi Ephraim,
hay thí hẳn ngươi đi, hỡi Israel?
Lòng Ta đảo lộn trong Ta, và mối chạnh thương sôi réo cả lên.
Không, Ta sẽ không thi hành hỏa hào khí nộ.
Ta sẽ không hủy diệt Ephraim.
Vì Ta là Thiên Chúa chứ không phải phàm nhân.
Ơ giữa ngươi, (Ta là) Đấng Thánh. Ta sẽ không nổi tam bành” (Hs 11:7-9).

 

Dù là Thiên Chúa toàn năng, Giavê như vẫn phải băn khoăn tìm kiếm cách thức để thi thố tận tuyệt tình yêu Người dành cho Israel. Và thực sự Người đã làm tất cả những gì có thể làm được để chinh phục tình yêu của Israel, bất chấp sự hờ hững, lạnh nhạt, bất trung của họ:
“Ta phải làm gì cho ngươi, hỡi Ephraim?
Ta phải làm gì cho ngươi, hỡi Giuđa?
Lòng tín nghĩa của ngươi như mây ban sáng,
Như màn sương sớm tan” (Hs 6:4).
“Nào đối với vườn nho của tôi,
có gì phải làm nữa mà tôi đã không làm?
Tại sao tôi trông nó sai trái, nó lại sinh nho dại?” (Is 5:4).

 

Và tình yêu của Thiên Chúa, chứ không phải sự báo oán của Người như dân gian lầm tưởng, chính là “lưới trời lồng lộng” tiếp tục bao phủ Israel, tiếp tục mời gọi họ trở về để được Người tha thứ  mọi tội lỗi, tẩy sạch mọi vết nhơ và chữa lành mọi thương tích của họ. Và ngoài Giavê, không ai có thể chữa trị vết thương lòng của Israel, không ai đem lại cho họ ơn cứu độ, không ai có thể thoả mãn cơn khát yêu thương mà chính Chúa đã gieo vào lòng họ.
“Cho dù chúng đi đâu, Ta cũng sẽ căng lưới trên chúng.
Ta sẽ dập chúng xuống như chim trời.
Vừa nghe chúng họp đàn, Ta ví chúng lại” (Hs 7:12)
“Hãy trở lại, hỡi Israel, với Giavê Thiên Chúa của ngươi!
Vì chính bởi tội ngươi mà ngươi đã nhào” (Hs 14:2)
“Sự phản phúc của chúng, Ta sẽ chữa lành.
Ta sẽ hết lòng yêu thương nó.
Quả trên nó, cơn giận của Ta đã hối lại” (Hs 14:5).

Chúa Giêsu Kitô là giao ước mới
Việc Dân Chúa bất trung với giao ước đã ký kết với Giavê không làm cho Người thất vọng hay bỏ rơi họ. Nhưng Thiên Chúa vẫn tiếp tục thi thố đến cùng tình yêu Người dành cho họ. Người hứa sẽ ký kết với nhân loại qua dân Israel một giao ước mới:
“Này sẽ đến những ngày--sấm của Giavê--Ta kết với Nhà Israel và Nhà Giuđa, một Giao ước mới, không phải như Giao ước Ta đã kết với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay chúng để đem chúng ra khỏi đất Aicập. Chúng đã hủy bỏ giao ước của Ta mặc dù Ta là Chúa tể của chúng--sấm của Giavê. Vì này là Giao ước Ta sẽ kết với Israel sau những ngày ấy--sấm của Giavê--Ta sẽ đặt luật của Ta vào bên trong chúng và Ta sẽ viết trên tim lòng chúng; và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta” (Jer 31:31-33).

 

Giao ước này sẽ là giao ước vĩnh cửu, giao ước đời đời. Chính nơi giao ước này mà con người sẽ mãi mãi thuộc trọn về Thiên Chúa, mãi mãi là đối tượng của lòng thương xót vô biên của Người. Và cũng chính nơi giao ước này, Thiên Chúa vui mừng  tự buộc mình làm phúc cho con người, trao ban tấm lòng của chính Người cho nhân loại, để họ được nên một với Người, để Người trở nên nguồn hạnh phúc sung mãn đời đời của họ:
“Chúng sẽ là dân Ta; còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng. Ta sẽ ban cho chúng cùng một tấm lòng, cùng một đường lối, để chúng kính sợ Ta mọi ngày, nên nguồn hạnh phúc cho chúng và con cái nối theo chúng. Ta sẽ ký với chúng một giao ước muôn đời, do đó Ta sẽ không ngừng theo dõi chúng để gây hạnh phúc cho chúng; Ta sẽ đặt sự kính sợ Ta nơi lòng chúng, để chúng không còn lìa bỏ Ta. Ta sẽ vui mừng mà gây hạnh phúc cho chúng và một cách chân thật, Ta sẽ đem hết lòng, hết sinh mạng Ta mà trồng chúng trong xứ này” (Jer. 32: 38-41).

 

Chúa Giêsu Kitô chính là Giao Ước mới ấy, Giao Ước tình yêu vĩnh cửu Thiên Chúa ký kết với con người như lời sấm của ngôn sứ Isaia:
“Chính Ta đã gọi ngươi phò đức nghĩa,
Ta nắm tay ngươi, Ta đã nắn ra ngươi,
và đặt ngươi làm giao ước của dân, làm ánh sáng các nước.
Để mở những mắt mù lòa, để đưa tù nhân ra khỏi nhà lao,
khỏi ngục thất, dân cư bóng tối” (Is Is 42:6-7).


Người còn là mức độ tận cùng của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại: “Quả vì Thiên Chúa đã yêu mến thế gian như thế (đó) đến đỗi đã thí ban Người Con Một, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được có sự sống đời đời” (Jn 3:16). 


    Các học giả Thánh Kinh gọi câu Thánh Kinh này là câu gồm tóm nội dung của toàn bộ Thánh Kinh-lịch sử của liên hệ tình yêu giữa Thiên Chúa và nhân loại.


Vì vậy, tin hay không tin, chấp nhận hay từ chối Chúa Giêsu chính là chấp nhận hay từ chối bước vào Giao Ước Mới, Giao Ước Tình Yêu Muôn Thuở Ngút Ngàn của Thiên Chúa Giavê như đã được trình bày trong Thánh Kinh.

Chúa không lầm
Thiên tình sử  giữa Giavê và Israel hay tương quan yêu thương thiết thân giữa Thiên Chúa với mỗi linh hồn luôn là một bản tình ca bao gồm lời tán dương lòng thương xót bao la ngút ngàn của Thiên Chúa và một lời thú nhận sự yếu hèn, tội lỗi và bất xứng của con người. Và tâm tình căn bản được gặp thấy nơi những ai từng cảm nghiệm ân tình Chúa bao giờ cũng là tâm tình tri ân và thống hối, vui mừng và hy vọng.


Bài thánh ca “Chúa Không Lầm” của Linh Mục Nhạc Sĩ Kim Long đã diễn tả cách tuyệt vời tấm lòng yêu thương bao la của Thiên Chúa như nền tảng của niềm vui và hy vọng của người tín hữu bất chấp sự mỏng dòn hay sa ngã, dễ phạm tội của kiếp người như sau:
 

PK 1: Chúa không lầm khi Ngài dựng nên con dù lời Ngài con không giữ tròn vì Chúa đã biết từ ngàn xưa: rằng thân con bởi tro bụi và được cưu mang trong tội lỗi.
ĐK: Nhưng lòng Chúa vẫn bao la, dù cho bao phen con yếu đuối thành tâm xin ăn năn thống hối là Ngài lại thứ tha.
PK 2: Chúa không lầm khi Ngài đành hy sinh để rồi nhìn con không đáp tình vì Chúa đã biết từ ngàn xưa: còn mang thân thể nặng nề là còn luôn mê mải trần thế.
PK 3: Chúa không lầm khi Ngài gọi con theo dù đời lạc trôi như cánh bèo vì Chúa đã biết từ ngàn xưa: một khi hơi thở chưa tàn là đời chưa qua khỏi sầu oán.
PK 4: Chúa không lầm khi Ngài dìu con lên dù rằng đời con bao thấp hèn vì Chúa đã biết từ ngàn xưa: nhiều khi con chẳng trung thành là vì con đâu phải thần thánh.
PK 5: Chúa không lầm khi Ngài dậy con yêu dù đường tình con oan trái nhiều vì Chúa đã biết từ ngàn xưa: từng giây rung cảm trong lòng là từng giây hơi thở rực nóng.


Vâng, Chúa không lầm khi Người dựng nên ta, khi Người cứu chuộc ta, khi Người gọi và chọn ta bước vào liên hệ yêu thương với Người nơi Chúa Giêsu Kitô. Cũng vậy, chúng ta sẽ không lầm khi phó dâng trọn cả con người và cuộc sống của ta cho Thánh Tâm Chúa Giêsu và chọn Người là tình yêu tuyệt đối và duy nhất của tâm hồn ta, là tất cả trong mọi sự của ta!


Đó là Tin Mừng cho tất cả những ai nhận biết Tấm Lòng Thiên Chúa nơi Tình Yêu Tuyệt Đối của Thánh Tâm Chúa Giêsu!