Thơ Phúc Âm Tuần ngày 28/10 - 3/1, 2026
- T6, 26/12/2025 - 07:17
- Phạm Hùng Sơn
Thơ Phúc Âm Tuần Ngày 28/10 - 3/1, 2026
Chúa Nhật LỄ THÁNH GIA THẤT
lễ kính
PHS Suy niệm Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu. Mt 2,13-15.19-23
**HÃY ĐEM HÀI NHI VÀ MẸ NGƯỜI
TRỐN SANG AI-CẬP**
Đêm khuya sứ Chúa gọi mời,
Giu-se chợt tỉnh giữa trời mộng thiêng.
“Hãy mau đem trẻ Mẹ hiền,
Trốn sang Ai-cập, giữ yên mạng Người.
Hê-rô-đê nuôi ác tâm,
Tìm giết Hài Nhi giữa đêm bạo tàn.”
Không lời chần chừ, đắn đo,
Giu-se trỗi dậy đưa Con đi liền.
Đêm sâu gió lạnh triền miên,
Con thơ, Mẹ trẻ, cha hiền lặng im.
Bước chân lữ thứ âm thầm,
Mang theo Hy Vọng giữa miền lưu vong.
Ai-cập đất khách mênh mông,
Gia đình tỵ nạn giữa vòng hiểm nguy.
Nhưng trong bóng tối đêm dài,
Bàn tay Thiên Chúa dẫn hoài chẳng rời.
Ở nơi đất lạ xa xôi,
Ứng lời ngôn sứ xưa thời đã ban:
“Ta từng gọi chính Con Ta,
Từ miền Ai-cập trở ra cứu đời.”
Tháng năm âm thầm trôi qua,
Hê-rô-đê chết, ác tà tiêu tan.
Sứ thần lại đến báo tin:
“Hãy đem Hài Nhi hồi hương Ít-ra-en.”
Giu-se thức giấc, vâng nghe,
Lại lên đường mới theo lề Chúa ban.
Nhưng nghe Ác-khê-lao cầm quyền,
Lòng còn e sợ, chẳng yên trở về.
Trong mộng Chúa lại dẫn đi,
Về miền Ga-li-lê hiền thảo xưa.
Na-da-rét, phố nhỏ nghèo,
Con Trời cư ngụ giữa đời âm thầm.
Ứng lời ngôn sứ xa xăm:
“Người sẽ mang tên Na-da-rét này.”
Con Đấng Cứu Thế cao dày,
Lớn lên trong cảnh thường ngày lao công.
Hành trình trốn chạy bấp bênh,
Mà in dấu ấn cứu độ nhiệm mầu.
Thiên Chúa không tránh khổ đau,
Nhưng đi xuyên tối để vào sáng quang.
Xin cho con biết sẵn sàng,
Nghe Lời Chúa gọi giữa ngàn bất an.
Như Giu-se, dẫu gian nan,
Vẫn tin Thiên Ý dẫn đàng cứu sinh.
==
In French:
**« PRENDS L’ENFANT ET SA MÈRE,
FUIS EN ÉGYPTE »**
Au cœur de la nuit, l’ange du Seigneur
Réveille Joseph dans un songe intérieur :
« Lève-toi sans tarder, prends l’Enfant, la Mère,
Fuis vers l’Égypte, sauve le Mystère.
Hérode prépare un dessein de mort,
Il cherche l’Enfant, il frappe trop fort. »
Sans un mot de plus, Joseph se lève,
Dans l’ombre il part, fidèle et bref.
La nuit est froide, le chemin incertain,
Un Père en silence guide le destin.
L’Enfant fragile, la Mère en exil,
Portent l’Espérance au cœur du péril.
Terre étrangère, sol de l’exil,
L’Égypte accueille le Roi fragile.
Et s’accomplit la parole d’autrefois :
« D’Égypte, j’ai appelé mon Fils à Moi. »
Les années passent, l’oppresseur s’éteint,
L’ange revient : « Reprends le chemin.
Ceux qui voulaient la vie de l’Enfant
Sont morts à présent. »
Joseph obéit, reprend la route,
Mais la peur demeure, le cœur redoute.
Archélaüs règne en Judée,
La prudence guide la sainte maisonnée.
Encore un songe, encore la voix :
Vers la Galilée, suis le choix de Dieu.
À Nazareth, humble et discret,
Le Verbe grandit dans le secret.
Ainsi s’accomplit la voix des prophètes :
« On l’appellera le Nazaréen. »
Le Sauveur du monde, Roi sans éclat,
Partage nos routes, nos pas, nos combats.
Dans l’exil, la fuite et l’obéissance,
S’écrit déjà l’œuvre du salut immense.
Dieu ne fuit pas la nuit des humains,
Il la traverse pour ouvrir le matin.
==
In English
**“TAKE THE CHILD AND HIS MOTHER,
FLEE TO EGYPT”**
In the depth of night, the angel spoke,
And Joseph woke from sacred dream:
“Rise quickly now, take Child and Mother,
Flee into Egypt—guard the Light unseen.
Herod plots with murderous intent,
The Child he seeks, to silence grace.”
Without delay, without a word,
Joseph arose and left that place.
The road was dark, the night was cold,
Uncertain paths before their feet;
A Father silent, strong in faith,
Entrusted all to God’s decree.
A fragile Child, a Mother mild,
Bear Hope into a foreign land;
In exile walks the King of kings,
The world’s salvation in their hands.
In Egypt’s soil, the promise rests,
Till death removes the tyrant’s reign;
Thus was fulfilled the ancient word:
“Out of Egypt I called My Son again.”
When Herod fell and time had turned,
The angel came once more to say:
“Arise, return—the threat is gone,
Those who sought the Child have passed away.”
Joseph obeyed and set his course,
Yet fear restrained his careful heart;
In Judah ruled Archelaus—
Wisdom discerned another start.
Again the dream, again the call:
“To Galilee now make your way.”
In Nazareth, unknown and small,
The Word would grow from day to day.
Thus were the prophets’ words fulfilled:
“He shall be called a Nazarene.”
The Savior comes with no display,
Yet walks our paths, our wounds, our pain.
In flight, in exile, and in trust,
The work of salvation finds its start:
God does not flee the night of man,
He enters it—to dawn our hearts.
==
Tin Mừng ngày hôm nay
Hãy đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai-cập.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu. Mt 2,13-15.19-23
13 Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giu-se rằng : “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy !” 14 Ông Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập. 15 Ông ở đó cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ : Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập.
19 Sau khi vua Hê-rô-đê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giu-se bên Ai-cập, 20 báo mộng cho ông rằng : “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi.” 21 Ông liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en. 22 Nhưng vì nghe biết Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giu-đê, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Ga-li-lê, 23 và đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng : Người sẽ được gọi là người Na-da-rét.
===
29/12/2025
Ngày thứ năm trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh
PHS Suy niệm Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 2,22-35
ÁNH SÁNG SOI ĐƯỜNG CHO DÂN NGOẠI
Đến ngày luật định thanh tẩy,
Mẹ Cha dâng trẻ lên Thầy chí tôn.
Giê-ru-sa-lem đường xa,
Đôi chim lễ mọn, tấm lòng đơn sơ.
Con đầu lòng, hiến dâng trọn,
Thuộc về Thiên Chúa từ đây suốt đời.
Giữa đền thánh có một người,
Si-mê-ôn đó, trọn đời kính tin.
Công chính, sùng đạo, lặng thinh,
Mong chờ an ủi Ít-ra-en này.
Thánh Thần hằng ở trong tay,
Hứa cho được thấy Đấng Thầy trước khi.
Hôm nay Thần Khí dẫn đi,
Ông lên Đền Thánh đúng khi Hài Đồng.
Giê-su bé nhỏ trong lòng,
Được ông ẵm lấy, dâng cùng lời ca:
“Muôn lạy Chúa, phận tôi tớ,
Giờ đây an nghỉ theo lời Ngài ban.
Chính mắt con thấy ơn lành,
Cứu độ dành sẵn cho muôn cõi người.
Ánh sáng soi lối muôn nơi,
Dân ngoại tìm thấy đường trời vinh quang.
Ít-ra-en được rạng danh,
Vì Con Chúa đến cứu dân muôn đời.”
Cha Mẹ ngỡ ngàng lắng nghe,
Trước lời huyền nhiệm vọng về tương lai.
Si-mê-ôn chúc phúc hoài,
Rồi quay nói Mẹ một lời thiết tha:
“Trẻ này duyên cớ cho người,
Kẻ thì ngã xuống, kẻ thời đứng lên.
Là dấu bị chống khắp miền,
Lộ ra tâm ý ẩn bên đáy lòng.
Phần Bà, lưỡi gươm sắc nhọn,
Sẽ đâm thâu tận cõi trong tim mềm.”
Lời tiên báo giữa êm đềm,
Đã mang bóng Thập Giá lên đời Mẹ
.
Hài Nhi nhỏ giữa tay người,
Mà là Ánh Sáng muôn nơi trần gian.
Chiếu soi dân ngoại lạc đàng,
Dẫn về ơn cứu, bình an cõi lòng.
==
In French:
LUMIÈRE POUR ÉCLAIRER LES NATIONS
Quand vint le jour de la purification,
Marie et Joseph, d’un cœur plein d’oblation,
Montèrent à Jérusalem, longue voie,
Offrant deux colombes, humbles dons de foi.
Premier-né consacré, offert tout entier,
Appartenant à Dieu pour l’éternité.
Dans le Temple se tenait un homme droit,
Syméon, fidèle, vivant dans la foi.
Juste et pieux, silencieux dans l’attente,
Espérant la consolation d’Israël ardente.
L’Esprit Saint reposait sur lui sans fin,
Lui promettant de voir le Messie divin
.
Ce jour-là, poussé par l’Esprit vivant,
Il monta au Temple à l’heure de l’Enfant.
Jésus tout petit reposait dans ses bras,
Et Syméon bénit Dieu d’une voix douce et grave :
« Maintenant, Seigneur, selon ta parole,
Laisse ton serviteur partir dans la paix qui console.
Car mes yeux ont vu ton salut préparé,
Pour tous les peuples à jamais destiné.
Lumière pour éclairer les nations,
Gloire d’Israël, ton peuple d’élection. »
Le père et la mère, saisis d’étonnement,
Écoutaient ces paroles venues du Ciel et du temps.
Syméon les bénit, puis dit à Marie :
« Cet enfant sera signe de chute et de vie.
Il provoquera relèvement ou scandale,
Signe contesté, vérité qui dévoile.
Et toi-même, un glaive transpercera ton cœur,
Ainsi seront révélées les pensées intérieures. »
Parole prophétique, douce et douloureuse,
Portant déjà l’ombre de la Croix lumineuse.
Un Enfant fragile dans des mains humaines,
Mais Lumière du monde, espérance souveraine.
Il éclaire les nations perdues dans la nuit,
Les conduit au salut, à la paix, à la vie.
==
In English
A LIGHT TO ENLIGHTEN THE NATIONS
When the appointed day had come at last,
Mother and Father brought the Child to God Most High.
To Jerusalem they journeyed far,
With humble gifts—two birds, hearts pure and shy.
The firstborn Son, completely given,
Set apart for God from that very hour.
Within the Temple stood a faithful man,
Simeon, steadfast in reverence and trust.
Righteous and devout, in silent prayer,
He waited for Israel’s promised consolation.
The Holy Spirit rested upon him,
Who pledged he would see the Lord’s Anointed One.
That day the Spirit gently led his steps
Up to the Temple, at the Child’s arrival.
The infant Jesus rested in his arms,
And Simeon lifted his voice in praise:
“Now, Lord, according to your word,
Let your servant go in peace at last.
For my eyes have seen your saving work,
Prepared for all peoples before all time:
A Light to guide the nations on their way,
And glory for Israel, your chosen people.”
The Child’s Father and Mother stood amazed,
Hearing words that reached beyond the present hour.
Simeon blessed them, then turned to Mary,
Speaking with tender solemnity:
“This Child is set for many to fall or rise,
A sign opposed, a truth laid bare.
And you yourself—a piercing sword
Will pass through your heart’s deepest core
.
Thus hidden thoughts of many hearts
Shall be revealed in the light of God.”
A gentle prophecy, yet heavy with sorrow,
Already bearing the shadow of the Cross.
A tiny Child in human hands,
Yet the Light of the whole world.
He shines upon the nations lost in night,
Leading them to salvation, peace, and life.
==
Tin Mừng ngày hôm nay
Ánh sáng soi đường cho dân ngoại.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 2,22-35
22 Khi đã đủ thời gian, đến ngày các ngài phải được thanh tẩy theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, 23 như đã chép trong Luật Chúa rằng : “Mọi con trai đầu lòng phải được thánh hiến, dành riêng cho Chúa”. 24 Ông bà cũng lên để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. 25 Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. 26 Ông đã được Thánh Thần linh báo là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa. 27 Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để làm điều người ta quen làm theo luật dạy, 28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng :
29“Muôn lạy Chúa, giờ đây
theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
30Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ
31Chúa đã dành sẵn cho muôn dân :
32Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.”
33 Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những điều người ta nói về Người. 34 Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi : “Cháu bé này được đặt làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. 35 Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà. Như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra.”
===
30/12/2025
Thứ Ba Ngày thứ sáu trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh
PHS Suy niệm Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 2, 36-40
BÀ NÓI VỀ NGƯỜI
Anna tiên tri tuổi già,
Con ông Phan-u-ên, tộc Asê hiền lành.
Trinh thời ngắn ngủi mong manh,
Bảy năm chồng vợ, sớm thành goá thân.
Tám mươi tư tuổi dấn thân,
Đền thờ gắn trọn bước chân đêm ngày.
Ăn chay, cầu nguyện miệt mài,
Phụng thờ Thiên Chúa, lòng ngay bền bỉ.
Giữa giờ linh thánh nhiệm mầu,
Bà lên tiếng chúc tụng sâu danh Ngài.
Gặp Hài Nhi nhỏ hình hài,
Bừng lên hy vọng tương lai cứu đời.
Bà liền nói về Con Trời,
Cho bao kẻ vẫn trông chờ Ít-ra-en.
Ơn cứu chuộc đến rất gần,
Ánh quang Thiên Chúa bừng lên cõi lòng.
Không lời rao giảng cao sang,
Chỉ bằng chứng tá âm thầm đức tin.
Cả đời chờ đợi lặng thinh,
Gặp Ngài, bà nói — trọn tình dâng trao.
Rồi Cha Mẹ vẹn luật nào,
Hoàn thành Lề Luật, trở vào Ga-li.
Na-da-rét, chốn thầm thì,
Nuôi Con khôn lớn trong điệu nhân trần.
Hài Nhi lớn mạnh dần dần,
Đầy tràn khôn ngoan, ân cần ơn Cha.
Ơn nghĩa Thiên Chúa chan hòa,
Ở cùng Con Trẻ — cứu ta muôn đời.
==
In French:
ELLE PARLA DE LUI
Anne la prophétesse, d’un âge avancé,
Fille de Phanuel, de la tribu d’Aser.
Après un bref temps de vie conjugale,
Sept années seulement,
Elle demeura veuve jusqu’à quatre-vingt-quatre ans.
Elle ne quittait pas le Temple,
Servant Dieu nuit et jour
Dans le jeûne et la prière.
Toute sa vie était attente,
Silencieuse, fidèle, offerte.
À cette heure même, elle survint,
Et se mit à louer Dieu.
Voyant l’Enfant Jésus,
Son cœur reconnut l’espérance accomplie.
Alors elle parla de Lui
À tous ceux qui attendaient
La rédemption d’Israël.
Non par de longs discours,
Mais par le témoignage d’une vie donnée.
Une attente devenue parole,
Une fidélité devenue annonce,
Car celui qu’elle voyait
Était la Promesse faite chair.
Lorsque Joseph et Marie
Eurent accompli tout selon la Loi du Seigneur,
Ils retournèrent en Galilée,
Dans leur ville de Nazareth.
L’Enfant grandissait,
Se fortifiait,
Rempli de sagesse,
Et la grâce de Dieu était sur Lui.
==
In English
SHE SPOKE OF HIM
Anna the prophetess, aged and wise,
Daughter of Phanuel, of Asher’s line.
After a brief life with her husband,
Seven years only,
She remained a widow until eighty-four.
She never left the Temple,
Serving God day and night
In fasting and in prayer,
Her life a quiet vigil,
Faithful, devoted, expectant.
At that very hour she came,
And praised the Lord.
Seeing the Child Jesus,
Her heart recognized the fulfillment of hope.
Then she spoke of Him
To all who awaited
The redemption of Israel.
Not with lengthy words,
But with the witness of a life fully given.
An expectancy made word,
A fidelity made proclamation,
For the One she saw
Was the Promise made flesh.
When Joseph and Mary
Had completed all according to the Law of the Lord,
They returned to Galilee,
To their town of Nazareth.
The Child grew,
Strong and wise,
Filled with God’s grace,
And the favor of the Lord was upon Him.
==
Tin Mừng ngày hôm nay
"Bà đã nói về Người với tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel".
✠Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Lc 2, 36-40
Khi ấy, có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm. Rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.
Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.
===
31/12/2025
Thứ Tư Ngày thứ bảy trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh
PHS Suy niệm Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu Gio-an. Ga 1,1-18
Ngôi Lời – Ánh Sáng Khởi Nguyên
Thuở đầu Lời đã hiện ra,
Hướng về Thiên Chúa, chan hòa uy linh.
Ngôi Lời chính Chúa uy minh,
Tự muôn thuở ấy quang vinh nhiệm mầu.
Nhờ Lời, vạn vật khởi đầu,
Không Người, chẳng có trước sau cõi này.
Sự sống phát xuất từ đây,
Hóa nên ánh sáng soi ngày nhân gian.
Ánh quang bừng chiếu thế trần,
Bóng đêm vây phủ chẳng lần dập tan.
Có người Thiên Chúa sai sang,
Gio-an làm chứng ánh vàng rạng soi.
Ông không là ánh sáng thôi,
Chỉ là tiếng gọi dẫn lối đức tin.
Ngôi Lời – Ánh Sáng chí linh,
Đến trần thế để soi nhìn muôn dân.
Người ở giữa cõi hồng trần,
Nhờ Người thế giới thành thân hiện tiền.
Mà sao nhân loại vô duyên,
Không nhìn, không nhận Ánh Thiêng giữa đời.
==
In French:
Le Verbe, Lumière des origines
Au commencement était le Verbe éternel,
Tourné vers Dieu, mystère immuable et réel.
Le Verbe était Dieu, splendeur infinie,
Avant les temps, dans l’unité bénie.
Par Lui tout fut créé, tout prit naissance,
Sans Lui, rien n’est venu à l’existence.
En Lui la Vie jaillit comme une source,
Et cette Vie devint pour l’homme sa boussole.
La Lumière luit au cœur de la nuit,
Et l’ombre jamais ne l’a engloutie.
Un homme fut envoyé par le Très-Haut,
Jean était son nom, témoin du flambeau.
Il n’était pas la Lumière lui-même,
Mais il la montrait pour que tous y croient sans peine.
Le Verbe est la vraie Lumière du monde,
Qui vient éclairer toute âme humaine.
Il était là, au milieu des siens,
Par Lui le monde reçut son chemin.
Mais l’univers, pourtant né de sa voix,
Ne reconnut pas Celui qui venait à lui.
==
In English
The Word, Light from the Beginning
In the beginning was the Word,
Turned toward God in perfect accord.
The Word was God, from ages past,
Before all time, forever fast.
Through Him all things were called to be;
Without His voice, no life, no sea.
In Him was Life, a living flame,
That shone as Light for humankind’s name.
The Light still shines where shadows lie,
And darkness fails as it goes by.
A man was sent by God above,
John was his name, a voice of love.
He was not Light, but came to bear
True witness so that all might dare
To place their faith in Light made known,
The Word, the Light, to all outshone
.
The true Light came into our land,
To shine on all, by God’s own hand.
He stood among the world He made,
Yet went unseen, unrecognized.
==
Tin Mừng ngày hôm nay
Ngôi Lời đã trở nên người phàm
.
✠Khởi đầu Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an. Ga 1,1-18
1Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.
Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và Ngôi Lời là Thiên Chúa.
2Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.
3Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
và không có Người,
thì chẳng có gì được tạo thành.
Điều đã được tạo thành 4 ở nơi Người là sự sống,
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.
5Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối,
và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.
6Có một người được Thiên Chúa sai đến,
tên là Gio-an.
7Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng,
để mọi người nhờ ông mà tin.
8Ông không phải là ánh sáng,
nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.
9Ngôi Lời là ánh sáng thật,
ánh sáng đến thế gian
và chiếu soi mọi người.
10Người ở giữa thế gian,
và thế gian đã nhờ Người mà có,
nhưng lại không nhận biết Người.
11Người đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.
12Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người,
thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.
13Họ được sinh ra, không phải do khí huyết,
cũng chẳng do ước muốn của nhục thể,
hoặc do ước muốn của người đàn ông,
nhưng do bởi Thiên Chúa.
14Ngôi Lời đã trở nên người phàm
và cư ngụ giữa chúng ta.
Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người,
là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.
15Ông Gio-an làm chứng về Người, ông tuyên bố :
“Đây là Đấng mà tôi đã nói :
Người đến sau tôi,
nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.”
16Từ nguồn sung mãn của Người,
tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.
17Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê,
còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có.
18Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả ;
nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa
và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,
chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.
===
1/1/2026
Thứ Năm Thánh Ma-ri-a, Ðức Mẹ Chúa Trời
PHS Suy niệm Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 2, 16-21
Gặp Hài Nhi – Danh Thánh Giêsu
Mục đồng hối hả lên đường,
Bê-lem tìm đến tình thương giáng trần.
Gặp Maria dịu hiền,
Giuse lặng lẽ, Hài Nhi máng rơm.
Ngắm nhìn, lòng chợt bừng thơm,
Lời xưa sứ báo nay ôm hiện tiền.
Bao người lắng nghe kể truyền,
Ngỡ ngàng trước mối ân duyên nhiệm mầu.
Riêng Maria khắc sâu,
Ghi vào tâm khảm, lặng thâu suy niệm.
Mục đồng trở gót an nhiên,
Tung hô ca ngợi uy quyền Chúa ban.
Điều nghe, điều thấy vẹn toàn,
Đúng như sứ điệp thiên thần báo xưa.
Tám ngày tròn vẹn sớm trưa,
Con Trẻ chịu cắt theo Luật giao ước.
Danh Người vang giữa trần thế,
Giê-su — tên gọi cứu đời nhân gian
==
In French:
Ils trouvèrent Marie, Joseph et l’Enfant
Les bergers partirent, le cœur pressé d’amour,
Vers Bethléem, éclairés par la nuit et le jour.
Ils trouvèrent Marie, Joseph en silence,
Et l’Enfant nouveau-né, couché dans la pauvreté immense.
À cette vue, leurs âmes comprirent soudain
La parole annoncée par le Ciel souverain.
Tous ceux qui écoutaient restaient dans l’étonnement,
Devant le récit simple et bouleversant.
Marie, en son cœur, gardait chaque mystère,
Pesant les événements dans une foi lumière.
Les bergers s’en retournaient, chantant la gloire de Dieu,
Pour tout ce qu’ils avaient vu, entendu, reçu.
Quand furent accomplis les huit jours prescrits,
L’Enfant fut circoncis, selon la Loi établie.
On Lui donna le Nom que l’ange avait révélé :
Jésus, Nom de salut, avant même d’être conçu.
==
In English
They Found Mary, Joseph, and the Child
The shepherds hastened, hearts ablaze,
To Bethlehem at break of days.
They found Mary, gentle, mild,
And Joseph, and the newborn Child.
Laid low within a manger bare,
They saw the sign the angels share.
At once they knew the word was true,
Fulfilled before their wondering view.
All who heard their witness told
Stood hushed in awe at truths of old.
But Mary kept each sacred sign,
And pondered them in heart divine.
The shepherds turned with songs of praise,
Giving God their thankful lays,
For all they heard and all they saw,
As heaven’s word became their law.
When eight full days at last had passed,
The Child was named, as first and last:
Jesus, the Name the angel gave,
Before His life the world to save.
==
Tin Mừng ngày hôm nay
"Họ đã gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi... và tám ngày sau người ta gọi tên Người là Giêsu".
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 2, 16-21
Khi ấy, các mục tử ra đi vội vã đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ hiểu ngay lời đã báo về hài nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.
Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
Khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ.
===
2/1/2026
Thứ Sáu Thánh Ba-xi-li-ô Cả và thánh Ghê-gô-ri-ô Na-di-en, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh
PHS Suy niệm Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gioan. Ga 1,19-28
Tiếng Kêu Trong Hoang Địa
Người ta từ chốn Giê-ru,
Đến tra Gio-an giữa mù cát hoang.
“Hỏi ông là ai rõ ràng?”
Ông liền tuyên xưng: “Chẳng là Ki-tô.”
“Có phải Ê-li-a chăng?”
“Không.” – lời đáp thẳng băng nhẹ nhàng.
“Hay là ngôn sứ Thiên sai?”
“Không.” – Gio-an trả lời đơn sơ.
“Vậy ông là ai bây giờ,
Để về tường thuật cho người sai đi?”
Ông thưa: “Tôi chỉ là gì?
Tiếng kêu hoang địa: sửa lối Chúa qua.
Như lời I-sai-a xưa,
Hãy làm cho thẳng đường vua Chí Thánh.”
Nhóm Biệt Phái liền tra vấn:
“Không là Ki-tô, sao rửa nhân gian?”
Gio-an đáp giữa dân làng:
“Tôi rửa bằng nước, tạm ban dấu ngoài.
Giữa các ngươi có Đấng đây,
Các ngươi chẳng biết, dù Ngài ở gần.
Đến sau tôi giữa hồng trần,
Nhưng Người có trước muôn phần thời gian.
Dây giày cởi cũng chẳng an,
Vì tôi không xứng trước nhan Đấng Hằng.”
Bê-ta-ni-a chứng lặng thinh,
Bên sông Gio-đan vang tình chứng nhân.
==
In French:
La Voix dans le désert
De Jérusalem on l’interrogea,
Prêtres et Lévites vers Jean l’envoya.
« Qui es-tu donc ? Dis-le sans détour. »
Il confessa : « Je ne suis pas le Christ du jour. »
« Serais-tu Élie, revenu parmi nous ? »
« Non. » répondit Jean, humble et doux.
« Le Prophète, alors ? » — « Non, ce n’est pas moi. »
Ainsi parlait la voix fidèle à sa foi.
« Qui es-tu donc ? Que dirons-nous en retour
À ceux qui nous ont envoyés ce jour ? »
Il dit : « Je suis la voix qui crie au désert :
Préparez le chemin du Seigneur, droit et clair.
Comme Isaïe l’avait jadis annoncé. »
Or ceux qui l’interrogeaient étaient des Pharisiens.
Ils dirent : « Pourquoi baptises-tu, dis-nous bien,
Si tu n’es ni le Christ, ni Élie, ni prophète ancien ? »
Jean répondit : « Moi, je baptise dans l’eau,
Mais au milieu de vous se tient un Inconnu.
Il vient après moi, et pourtant avant moi,
Je ne suis pas digne de délier sa sandale, crois-moi. »
Cela se passa à Béthanie, au-delà du Jourdain,
Là où Jean baptisait, témoin du Dessein divin.
==
In English
The Voice in the Wilderness
From Jerusalem they came to ask,
Priests and Levites on their task:
“Who are you? Speak, make it plain.”
He confessed the truth again:
“I am not the Christ foretold.”
“Are you Elijah, bold of old?”
“No,” he said with steady voice.
“Are you the Prophet?” — “Not my choice.”
“So who are you? Give us a word,
That we may answer those who sent.”
“I am the voice,” John calmly said,
“That cries where desert paths are spread:
‘Make straight the way the Lord will tread,’
As Isaiah long ago had meant.”
Those sent were Pharisees by name.
They questioned him with careful aim:
“If you are not the Christ we seek,
Nor Elijah, nor Prophet meek,
Why then do you baptize in sight?”
John replied with humble might:
“I baptize only here with water,
Yet among you stands Another
Whom you do not recognize.
He comes after me in time,
Yet before me He did rise.
I am not worthy, low and small,
To loosen His sandal at all.”
This took place beyond the Jordan’s span,
At Bethany, where John baptized the land.
==
Tin Mừng ngày hôm nay
"Có một Ðấng sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng đó đã có trước tôi"
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gioan. Ga 1,19-28
Ðây là chứng của Gioan, khi những người Do thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các Thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?"
Ông liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: "Tôi không phải là Ðấng Kitô".
Họ liền hỏi: "Như vậy là thế nào? Ông có phải là Elia chăng?"
Gioan trả lời: "Tôi không phải là Elia".
"Hay ông là một đấng tiên tri?"
Gioan đáp: "Không phải".
Họ liền bảo: "Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?"
Gioan đáp: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo".
Và những người đã được sai đến đều thuộc nhóm biệt phái.
Họ hỏi Gioan rằng: "Nếu ông không phải là Ðức Kitô, cũng không là Elia, hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?"
Gioan trả lời: "Tôi làm phép rửa trong nước; nhưng giữa các ngươi, có Ðấng mà các ngươi không biết.
Ðấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng đó đã có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người".
Việc này xảy ra tại Betania, bên kia sông Giođan, nơi Gioan làm phép rửa.
===
3/1/2026
Thứ Bảy trước Lễ Hiển Linh
PHS Suy niệm Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gioan. Ga 1,29-34
Đây Chiên Thiên Chúa
Hôm sau Gio-an ngước nhìn,
Giê-su tiến lại, lặng thinh giữa đời.
Ông liền cất tiếng rạng ngời:
“Đây Chiên Thiên Chúa, xóa tội trần gian!
Đây là Đấng tôi loan ban,
Đến sau mà vẫn cao sang hơn nhiều.
Người vốn có trước muôn triều,
Trước tôi, trước cả dòng chiều thời gian.
Phần tôi chẳng biết Người đâu,
Nhưng tôi đến rửa nhiệm mầu nước trong,
Để Người tỏ hiện giữa dòng
Ít-ra-en được sáng lòng nhận ra.”
Gio-an chứng kiến tận tường:
Thánh Thần như thể bồ câu từ trời,
Ngự trên Người, ánh sáng ngời,
Dấu thiêng Chúa hứa trọn lời xưa nay.
Đấng sai tôi đã phán dạy:
“Ai được Thánh Thần ngự soi,
Chính Người rửa trong Thánh Thần,
Ban nguồn sự sống muôn phần cao sâu.”
Tôi nay đã thấy tận mắt,
Và xin làm chứng trước trần gian đây:
Người là Con Chúa trên trời,
Chiên hiền hiến mạng cứu đời nhân sinh.
==
In French:
Voici l’Agneau de Dieu
Le lendemain, Jean leva les yeux,
Et vit Jésus venir vers lui dans les cieux.
Il s’écria alors, plein de clarté :
« Voici l’Agneau de Dieu, qui ôte le péché du monde entier !
C’est celui dont j’ai parlé autrefois,
Il vient après moi, mais Il est plus grand que moi.
Car Il existait avant tout,
Avant moi, avant l’histoire et le temps écoulé.
Moi, je ne Le connaissais pas encore,
Mais je suis venu baptiser d’eau, humble serviteur,
Pour qu’Il se révèle au milieu d’Israël,
Afin que tous voient et croient en ce Sauveur.
J’ai vu l’Esprit Saint descendre du ciel,
Comme une colombe, sur Lui se poser.
Et Celui qui m’a envoyé me dit :
« Celui sur qui tu verras l’Esprit demeurer est le Baptiseur dans l’Esprit. »
J’ai vu et je rends témoignage,
Il est le Fils de Dieu, Lumière et Vie.
Voici l’Agneau qui sauve le monde,
Le Verbe fait chair, don d’amour infini.
==
In English
Behold the Lamb of God
The next day John lifted his eyes,
And saw Jesus coming, full of light.
He cried aloud, his voice made clear:
“Behold the Lamb of God, who takes away the world’s sin!
This is the One I spoke about,
He comes after me, yet is far greater than I.
For He existed before all time,
Before me, before the ages rolled by.
I did not know Him before,
But I came to baptize with water,
So that He might be revealed to Israel,
And all might see, believe, and adore.
I saw the Holy Spirit descend from heaven,
Like a dove, resting upon Him.
The One who sent me said:
‘Whoever you see the Spirit remain upon,
That is the One who baptizes in the Holy Spirit.’
I have seen and bear witness,
He is the Son of God, Life and Light.
Behold the Lamb who saves the world,
The Word made flesh, love shining bright.
==
Tin Mừng ngày hôm nay
"Ðây Chiên Thiên Chúa"
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gioan. Ga 1,29-34
Ngày hôm sau, Gioan thấy Chúa Giêsu đến với mình thì nói: Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa tội trần gian. Ðây chính là Ðấng mà tôi đã nói rằng: Có người đến sau tôi, nhưng cao trọng hơn tôi, vì Người vốn có trước tôi. Phần tôi, trước tôi không biết Người, nhưng tôi đã đến làm phép rửa bằng nước, để Người được tỏ mình ra trong Israel. Và Gioan đã làm chứng rằng: Tôi đã thấy Thánh Thần như con chim bồ câu từ trời xuống ngự trên Người. Và trước tôi không biết Người, nhưng Ðấng đã sai tôi làm phép rửa trong nước bảo tôi: Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì chính người đó là Ðấng làm phép rửa trong Thánh Thần.
Tôi đã thấy và làm chứng rằng: Người là Con Thiên Chúa.