Nhảy đến nội dung

Thư Gởi Bạn Hiền VII

    Thư Gởi Bạn Hiền VII       Các bạn ngoài Công Giáo thân mến,       Tôi có tin vui cho các bạn! Tin vui đó là các bạn cũng có cơ hội để được vào nước trời giống như cơ hội mà tôi cũng như tất cả những người Công Giáo khác có vậy. Xin bạn hãy bỏ chút thời giờ đọc bài này xem cơ hội để được vào nước trời mà CHÚNG TA có là cơ hội như thế nào. Tôi bảo đảm với bạn, nếu bài này không thay đổi được bạn thì, ít nhất, bài này cũng là bài đáng để bạn ‘đọc cho vui’.       Thưa các bạn, trong Thư  Gởi Bạn Hiền V tôi có nói đến bốn vấn đề mà tôi đã không chia xẻ với bạn được vì thư quá dài. Thứ nhất là sự cứu rỗi của những người không có điều kiện để biết Chúa; không có điều kiện để có thể trở thành công dân nước Chúa; không có điều kiện để được trở nên con cái Thiên Chúa qua phép rửa tội. Thứ hai là số phận của những người đã chết từ Ông Adong và Bà Evà cho đến lúc có ơn cứu chuôc. Thứ ba là tội lỗi; là hoa trái của cây biết lành biết dữ; là những hậu quả gây ra do sự chọn lựa mà nguyên tổ chúng ta đã làm, và thứ bốn là ơn cứu chuộc. Trong Thư Gởi Cho Bạn Hiền VI, tôi đã chia xẻ với bạn, cách rất ngắn gọn, về tội lỗi và hậu quả của tội lỗi. Cậy vào lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa, tôi hy vọng còn có dịp để được chia xẻ với quý bạn nhiều chi tiết hơn về các đề tài mà tôi đã và sẽ chia xẻ với quý bạn qua những lá thư luân lưu.       Trong Thư Gởi Cho Bạn Hiền VII này, tôi xin đuơc chia xẻ với quý bạn ít tư tưởng về Ơn Cứu Chuộc.        Bạn thân mến, chắc bạn đã nghe nhiều trường hợp các nhân viên ngoại giao, các sĩ quan, các nhân viên dân sự, các ký giả, v.v., bị bắt cóc, bị giữ làm con tin. Chắc bạn cũng đã nghe có nhiều trường hợp các con tin được các đội quân cảm tử cứu thoát, được chuộc bằng một số tiền hoặc bằng sự trao đổi lấy một hay nhiều tù nhân khác. Trong cả hai trường hợp, dù là cứu, chuộc hay trao đổi; mục đích tối hậu luôn là để giải thoát những người bị bắt giữ khỏi tay những kẻ giam cầm họ, đem họ về với gia đình, với thân nhân, với phe hay quốc gia của họ.       Trở lại những chia xẻ của tôi với bạn về sự sa ngã của Ông Adong và Bà Evà trong những lá thư trước. Khi Ông Adong và bà Evà chọn ăn trái cây biết lành biết dữ là ông bà đã chọn được thuộc về Satan, bị Satan cầm buộc. Cũng bởi do sự chọn lựa này mà ông bà đã phải rời bỏ vườn địa đàng để sang sống trên vùng đất bị chúc dữ, tức là vùng đất hay quốc gia tội lỗi, trở thành công dân của quốc gia tội lỗi, và là người tội lỗi. Là con cháu, dù là một đứa trẻ sơ sinh chưa phạm một tội riêng nào, tất cả chúng ta những ai mang tội tổ tông, đều là người tội lỗi và đều bị Satan cầm buộc. Chính vì thế mà Chúa Giêsu chọn xuống thế làm người để cứu chúng ta cho khỏi gông cùm tội lỗi. Chính vì tất cả chúng ta, những ai mang tội tổ tông, đều bị Satan cầm buộc nên Chúa Giêsu mới chịu chết để lấy sự sống của mình mà chuộc chúng ta ra khỏi sự cầm buộc của Satan.       Chúa Giêsu cứu và chuộc chúng ta như thế nào? Ðơn giản lắm bạn ạ! Chúa Giêsu xuống thế làm người, đi rao giảng về nước trời, về Thiên Chúa tức là về chính Người để cho những ai tin vào Người thì được cứu. Còn những ai bị Satan cầm buộc thì Người lấy sự sống của chính Người mà chuộc họ cho ra khỏi sự cầm buộc của Satan. Có như vậy thôi đó bạn ạ!       Tại sao tin vào Chúa Giêsu thì được cứu? Thưa vì những ai tin vào Chúa Giêsu thì họ được kết hợp với Người như lời Người đã phán: “Ta là cây nho, các con là ngành.” Gioan 15:5. Mà khi đã được kết hợp với Chúa Giêsu, được trở nên chi thể của Người, được trở nên ngành của cây nho Giêsu, thì đương nhiên là chúng ta không thể thuộc về Satan được. Thêm vào đó, những người thực sự tin vào Chúa Giêsu thì họ thực hành những điều Người phán dạy; tức là họ không phạm tội, họ làm việc lành, họ trở nên thánh thiện, và như vậy là họ được thoát ra khỏi gông cùm tội lỗi. Khi không có gông cùm tội lỗi thì Satan không lấy gì để mà trói, để mà buộc bất cứ một người nào được. Chúa Giêsu cứu những ai tin vào Người cho thoát khỏi gông cùm tội lỗi là như vậy. Là cho chúng ta cơ hội chọn cây sự sống. Là cho chúng ta cơ hội chọn Chúa để được kết hợp với Chúa.       Khi đi rao giảng nước trời, rao giảng về chính Người, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh rất nhiều đến điều kiện quan trọng để được cứu này, đó là tin. Khi chữa lành cho người giúp việc của một vị quan bách quản (Centurion) ở Capernaum, Người khen đức tin của ông mạnh mẽ đến độ Người chưa thấy có ai trong Israel có được đức tin mạnh mẽ đến như vậy, Matthew 8:5. Khi người đàn bà bị loạn huyết đụng vào áo của Chúa Giêsu và được chữa lành, Chúa Giêsu cũng đã bảo bà, “Hỡi con, đức tin của con chữa con lành. Con hãy đi trong bình an và được lành bịnh.” Mark 5:34. Khi Thánh Phêrô đi trên mặt nước và bị chìm, Chúa Giêsu đưa tay cứu và trách ông, “Ðức tin của con yếu kém quá! Sao con lại nghi ngờ?” Matthew 14:31.  Khi chữa lành cho đứa con gái bị quỷ ám của một bà Canaanite gần Tyre và Sidon , Chúa Giêsu bảo bà, “Con là một phụ nữ có đức tin mãnh liệt! Ðiều con mong muốn sẽ được làm cho con.” Matthew 15:28. Các môn đệ của Chúa Giêsu đã không chữa lành được cho một bé trai bị quỷ ám; sau khi Chúa Giêsu chữa lành cho bé trai này, các ông hỏi Chúa, “Tại sao chúng con không đuổi quỷ được?” Chúa Giêsu bảo, “Tại vì các con không có đức tin đủ.” Matthew 17:19-20. Chúa Giêsu còn nhấn mạnh đến đức tin ở nhiều nơi nữa trong Kinh Thánh, xin bạn tìm đọc.       Nhưng nếu chúng ta được cứu bằng sự tin tưởng vào Chúa Giêsu thì sao Người không về Thiên Ðàng ngay sau khi rao giảng xong? Sao Người lại chọn ở lại để chịu chết cho chúng ta? Thưa vì muốn được cứu qua đức tin thì chúng ta phải tin cách tuyệt đối như Ðức Mẹ đã tin. Chúng ta phải có đức tin mạnh mẽ như Tổ Phụ Abraham đã có. Chúng ta phải tin vào Chúa Giêsu như toàn thể các thánh đã tin, và dĩ nhiên, là chúng ta cũng phải có hành động để chứng tỏ đức tin của chúng ta như các ngài đã chứng tỏ đức tin của các ngài vậy. Và thưa bạn, tin cách mạnh mẽ như vậy thì tôi không biết đức tin của bạn ra sao, chứ đức tin của tôi thì không biết đến bao giờ tôi mới được liệt vào hàng ngũ các đấng này! Như vậy thì số phận của tôi sẽ ra sao? Thưa chắc chắn..., chắc chắn 100% là tôi sẽ được chuộc. Tôi sẽ được chuộc bằng Máu Thánh Rất Châu Báu Chúa Giêsu. Bởi thế, hỡi người bạn mà tôi yêu mến, đây là lý do mà Chúa Giêsu đã không về trời ngay sau khi rao giảng. Đây là lý do Người chịu chết để lấy Máu Cực Thánh của Người mà chuộc lấy một người tội lỗi khốn nạn như tôi. Chẳng những Người chuộc lấy tôi, Người còn chuộc lấy tất cả những ai sẵng sàng đón nhận ơn cứu chuộc mà Người trao ban cách nhưng không.       Chúa Giêsu chuộc chúng ta như thế nào? Tôi vừa nói với bạn tin thì được cứu như thế nào; vậy trước khi trả lời câu hỏi này, xin bạn cho tôi được chia xẻ với bạn tại sao không tin thì không được cứu.       Sở dĩ không tin thì không được cứu vì không tin vào Chúa Giêsu có nghĩa bạn tự cho là mình không cần ơn cứu chuộc. Không tin vào Chúa Giêsu là bạn từ chối ơn cứu chuộc mà Người hiến dâng cho bạn. Nếu bạn đã chẳng những tự cho là mình không cần được cứu; bạn lại còn từ chối ơn cứu chuộc khi Chúa Giêsu hiến dâng sự sống của Người để cứu bạn, thì đương nhiên là bạn không thể hưởng nhờ hiệu quả của ơn cứu chuộc được. Không tin vào Chúa Giêsu cũng có nghĩa là bạn không chọn cây sự sống, không chọn Thiên Chúa, và như vậy là bạn tự làm mình xa cách Chúa. Ðiều này được viết cách rõ ràng trong Phúc Âm Thánh Gioan chương 3 câu 16-18: (16) Bởi Thiên Chúa yêu thương thế gian đến độ Người đã ban Con Một của mình cho thế gian để những ai tin vào Con Một của Người thì không phải chết mà được sống đời đời. (17) Vì Thiên Chúa không sai con mình đến trần gian để đoán phạt, mà là để cho những ai tin vào Người thì nhờ Người mà được cứu rỗi. (18) Ai tin vào Người thì không bị luận phạt, nhưng ai không tin vào Người thì đã bị luận phạt rồi. (Đã bị luận phạt rồi vì bạn đã tự chọn xa cách Chúa rồi.)       Bạn thấy chưa, tin và không tin khác nhau như vậy đó. Nhưng tôi lại cũng vừa nói với bạn, tin thì được cứu, còn lại là những người được chuộc. Vây được cứu và được chuộc có khác gì nhau đâu? Thưa khác nhau nhiều lắm. Vì tin mà tin như Mẹ Maria tin thì chẳng những là đức tin như vậy làm cho Mẹ được kết hợp với Chúa Giêsu cách trọn vẹn; trọn vẹn đến độ đức tin ấy làm cho mẹ trở nên Ðấng Cưu Mang chính Chúa Giêsu, cưu mang chính đấng mà Mẹ đặt trọn niềm tin vào; làm cho Mẹ trở nên Hòm Bia Thiên Chúa. Tin mà tin được cách mạnh mẽ như Tổ Phụ Abraham đã tin thì những người tin như vậy là những người được công chính hóa, và đương nhiên, những người tin cách mạnh mẽ như vậy là những người được kết hợp với Chúa Giêsu. Những người tin như thế thì không bị xét xử; ngay khi hoàn tất công việc mà Thiên Chúa trao phó cho họ ở đời này; họ được đem thẳng vào nước trời đúng như Phúc Âm theo Thánh Gioan chương 5 câu 24: “Ta bảo thật các ngươi: Những ai nghe lời của ta và tin vào đấng đã sai ta thì được sống đời đời. Người ấy sẽ không bị xét sử, nhưng được vượt qua sự chết mà vào sự sống.” Và đó là những người được cứu. Còn lại là những người không toàn thiện; mà đã không toàn thiện thì không thể kết hợp với Chúa Giêsu là Ðấng Thánh, là Ðấng Toàn Thiện được. Xin bạn đừng quên là để cho Ông Adong và Bà Evà có thể kết hợp với nhau nên một, thì Thiên Chúa cũng đã phải tạo dựng hai người cho xứng hợp với nhau. Ðể được kết hợp với Chúa Giêsu cũng vậy; chúng ta phải trở nên xứng hợp với Người, có nghĩa chúng ta phải trở nên toàn thiện. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta: “Các con hãy nên toàn thiện như Cha các con trên trời là Ðấng Toàn Thiện”, Matthew 5:48. Và như thế, ngày nào những ai chưa trở toàn thiện, ngày ấy họ vẫn chưa kết hợp được với Chúa Giêsu; họ vẫn còn bị trói buộc trong gông cùm tội lỗi, và họ cần được chuộc cho thoát ách gông cùm này.       Trởi lại vấn đề tội lỗi mà tôi đã chia xẻ với bạn trong Thư Gởi Cho Bạn Hiền VI, tuy chúng ta phải chịu trách nhiệm, phải nhận mọi hậu quả do việc làm của chúng ta, Satan lại chính là đầu mối của mọi tội lỗi. Y là người gieo giống xấu. Y là kẻ lường gạt chúng ta để chúng ta phạm tội, và đương nhiên, tội giết Chúa Giêsu cũng là do y khơi động (Instigate). Trước tòa Chúa phán xét, chúng ta, tất cả những ai có tội, đều bị xét xử và Satan là kẻ cáo buộc chúng ta. Bạn thấy Satan là tên gian xảo chưa? Y khơi động chúng ta phạm tội rồi cũng chính y lại là kẻ tố cáo chúng ta. Nhưng tuy mọi tội lỗi là do y xúi dục, khi phạm tội là lúc chúng ta nghe lời, là lúc chúng ta vâng phục y, giống như Ông Adong và Bà Evà đã vâng phục y vậy. Chúng ta bị Satan cầm buộc là như thế; là chúng ta vâng phục y. Vậy bạn thử tưởng tượng xem, từ tạo thiên lập địa cho đến ngày tận thế, có bao nhiêu người ở trong tình trạng này? Tôi không biết là bao nhiêu, nhưng tôi chắc chắn là nhiều lắm. Khi xét sử, mỗi một tội lại được xét và xử trên hai phương diện, hình và hộ hay tội và vạ. Xét về hình là xét xem tội đó phạm đến luật nào, điều răn nào; xử về hộ là xử xem tội đó gây thiệt hại thế nào, cho ai, bao nhiêu, và tất nhiên là mọi thiệt hại phải được đền bù cho cân xứng. Tội bất công chẳng hạn; sự đền bù cho tội này là tội nhân sẽ phải ở trong đó (lửa luyện tội) cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng, Matthew 5:26. Phiên xử sẽ xảy ra như vậy cho mỗi một người chúng ta, và tất nhiên là Satan cũng bị xét xử. Về hình, y không chối một tội nào vì tội lỗi là công trạng của y. Khi xử đến phần hộ, mọi thiệt hại mà y gây ra cho bất cứ ai, y đều đền bù cách cân xứng. Dĩ nhiên là y chỉ có thể đền bù cho những ai thuộc về y. Những thiệt hại mà Satan gây ra cho những người thánh thiện thì y trả không được, vì những người này thuộc về Chúa Giêsu; lúc ấy, những thiệt hại đó được biến thành phần thưởng mà Chúa Giêsu trao ban.  Thành ra gian ác thì Satan trả bằng gian ác, hành hung thì y trả bằng hành hung; không có gì là tội lỗi mà y không trả được bởi y là nguồn mọi tội lỗi, và đặc biệt, lúc này thì y rất sòng phẳng. Nhưng tuy sòng phẳng, kẹt cho Satan là khi xử đến tội giết Chúa Gêsu, về hình y không chối, nhưng khi xử đến phần hộ, y không biết làm sao để có thể đền mạng Chúa Giêsu cho được. Nhưng Satan vốn là cha đẻ của mọi dối gian, là tên đại bịp. Biết mình ở vào thế kẹt, y nhanh nhẹn thay đổi chiến thuật, và y dùng ngay luật Moisen mà gạt Chúa Giêsu. Thưa Ngài, y nói, Ngài đã ban cho Moisen luật lệ mà theo luật này, được viết rõ ràng trong Sách Xuất Hành chương 21:23- 25 thì: (23) “..., mạng đền mạng, (24) mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đến chân, (25) phỏng đền phỏng, thương tích đền thương tích, roi đòn đền roi đòn.” Vậy theo luật này thì tôi sẽ lấy mạng người ta mà đền cho mạng của Ngài, Ngài có đồng ý không? Chúa Giêsu đồng ý liền. Satan lập tức rú lên tưởng là Chúa Giêsu đã trúng kế của hắn. Hắn chọn một người tội nhẹ nhất để trao cho Chúa Giêsu vì hắn chỉ thích những người tội nặng, nhưng Chúa Giêsu từ chối. Một cách dõng dạc và từng chữ một, Chúa Giêsu mắng Satan: Ngươi đã được tạo dựng là thiên thần khôn ngoan và sáng láng nhất, vậy mà ngươi không hiểu Kinh Thánh! Mạng đền mạng là rất đúng, Ta đã ban luật ấy qua Moisen, nhưng cũng chính Ta phán cùng Moisen trong Sách Xuất Hành chương 3 câu 14 rằng:  “TA LÀ TẤT CẢ” (“I AM WHO AM”) Ngươi đã đồng ý trao đổi thì phải đồi tất cả lấy tất cả. Như thế có nghĩa là ngươi phải trao tất cả mọi linh hồn cho Ta! Lúc ấy Satan lại rú lên cách khủng khiếp vì y biết mình đã thua cách cay đắng. Y đã mất hết! Y phải trao cho Chúa Giêsu tất cả các linh hồn mà y cầm buộc. Trao xong, y lại rú lên vì tức tối! Các quỷ con nghe tiếng hú ghê rợn của Satan thì sợ hãi chạy toán loạn; thằng nọ đạp đuôi đứa kia kêu la inh ỏi. Còn tất cả những linh hồn yêu mến Chúa Giêsu cùng với triều thần thiên quốc, họ vội sấp mình thờ lạy Thiên Chúa. Họ quỳ gối giơ cao hai tay lớn tiếng chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa Giêsu vì Người đã lấy chính mạng sống mình mà chuộc họ thoát tay thần dữ là Lucifer. Và thưa bạn, Chúa Giêsu lấy mạng sống Người mà chuộc lấy mạng sống của chúng ta là như vậy đó.         Các bạn ngoài Công Giáo thân mến, đến đây hẳn là các bạn đã nhìn ra tin mừng mà tôi muốn đem đến cho các bạn rồi phải không? Có phải tin mừng đó là sau cuộc đổi chác thì không còn một linh hồn nào là thuộc về Satan nữa, và tất cả mọi người đều được vào thiên đàng, có đúng không? Thưa bạn, đúng là sau cuộc đổi chác thì Satan không còn cầm buộc một người nào. Y đã mất tất cả! Y đã thua cách cay đắng! Nhưng như thế không phải là tất cả mọi người đều được vào thiên đàng. Bởi sau khi đã lấy sự sống mình mà chuộc, mà đổi lấy sự sống của mọi người thì cũng là lúc Chúa Giêsu phán xét mọi người, và đó là cuộc phán xét chung.       Chúa Giêsu phán xét chúng ta như thế nào? Theo Phúc Âm Thánh Matthew chương 25 câu 32 đến 46 thì, thưa bạn, Chúa Giêsu chia chúng ta thành hai nhóm. Một nhón gồm những người đã cho anh em mình cơm ăn áo mặc. Ðã thăm viếng ủi an những người đau khổ. Tức là họ đã thực hành tình yêu chân thật dành cho Thiên Chúa và tha nhân. Những người này là những người được hưởng phúc trường sinh, và Chúa nói với những người trong nhóm này như sau:       (34) “... Hãy đến với ta, hỡi các con là những người được Cha Ta chúc phúc! Hãy đến mà đón nhận nước trời là phần thưởng đã được dọn sẵn cho các con từ thuở tạo thiên lập địa. (35) Vì khi ta đói các con đã cho ta ăn, khi ta khát các con đã cho ta uống; ta là khách lạ các con đã tiếp rước, trần truồng các con cho áo mặc; ta bị ốm đau và tù tội các con đã thăm viếng ủi an.”        Nhóm thứ hai gồm những người đã KHÔNG thực hành tình yêu chân thật dành cho Thiên Chúa và tha nhân. Họ đã không thực hành đức ái, và Chúa Giêsu nói với họ như thế này:       (41) “Hãy cút khỏi mắt ta mà đi vào chốn thiêu đốt đời đời là nơi được dành cho quỷ dữ và bè thần của nó! (42) Vì khi ta đói mà các ngươi đã không cho ta ăn, khi ta khát các ngươi đã không cho ta uống; ta là khách lạ nhưng các ngươi không tiếp rước, trần truồng mà các ngươi không cho áo mặc; ta bị ốm đau và tù tội nhưng các ngươi không thăm viếng ủi an.”        Các bạn thân mến, bây giờ mới đến lúc tôi cho các bạn biết tin mừng mà tôi đem đến cho các bạn, kể cả người Công Giáo, là tin gì. Tin mừng đó là: Khi Chúa Giêsu rao giảng về nước trời, về Thiên Chúa, về chính Người thì Người đòi chúng ta phải tin, nhưng khi phán xét thì Người lại xét xử chúng ta, tất cả những ai bị phán xét, dựa theo ÐỨC ÁI.       Tại sao Chúa Giêsu lại xét xử chúng ta theo đức ái mà không theo đức tin? Ðố các bạn người Công Giáo đó. Nếu không biết, xin các bạn cầu nguyện và suy nghĩ đi rồi hãy đọc tiếp.       Thưa bạn, Chúa Giêsu xét xử tất cả những ai bị phán xét theo đức ái là tại vì đức ái chứng minh  đức tin. Có nghĩa đức tin mà không có việc làm (hay không có đức ái đi kèm) thì đức tin đó là đức tin chết. Giacôbê (James) 2:17
    Như vậy người cho mình là có đức tin nhưng không có việc làm để chứng tỏ là mình tin thì coi như là người đó không có đức tin. Thánh Phaolô nói rất rõ về điểm này: “... nếu tôi có đức tin đủ để chuyển dời núi non, nhưng không có đức ái, thì tôi chẳng là gì cả.” Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô chương 13 câu 13, Thánh Phaolô viết: “..., trong ba nhân đức là tin, cậy, và mến thì đức mến là cao trọng hơn cả.”  Chẳng những Thánh Phaolô dạy đức mến là cao trọng hơn cả, mà chính Chúa Giêsu đã phán: “Không phải những ai nói lạy Chúa, lạy Chúa là những người được vào nước trời; mà là những ai làm theo ý Cha Ta trên trời.” Matthew 7:21. Làm theo ý Cha Ta trên trời là làm gì? Thưa là, “Cứ dấu này mà thiên hạ nhận biết các con là môn đệ của Thầy, đó là các con yêu thương nhau”, Gioan 13:35       Tóm lại, tất cả những ai tin vào Chúa Giêsu; không phải tin bằng môi miệng mà tin bằng hành động thì họ được cứu. Còn những ai chưa trở nên toàn thiện, cùng với những người không có điều kiện để biết Chúa; không có điều kiện để có thể trở thành công dân nước Chúa; không có điều kiện để được trở nên con cái Thiên Chúa qua phép rửa tội; thì họ sẽ được chuộc. Họ sẽ được chuộc dựa trên căn bản đức ái mà họ đã thực thi ở đời này. Chính vì vậy mà Thánh Phaolô dạy trong thư gởi tín hữu Roma chương 2 câu 13 : “Không phải người nghe biết đến luật lệ (của Chúa) là những người công chính trước mặt Chúa, nhưng là những ai thưc thi luật lệ (của Ngài) mới là những người được công chính hóa.”  Roman 2: 13, “For it is not the hearers of the law who are righteous before God, but the doers of the law who will be justified.” Và như vậy, tất cả ông bà tổ tiên của chúng ta, cho dù là họ đã không biết Chúa; sự cứu rỗi của họ không vì thế mà bị giảm sút.       Ðiều chúng ta phải để ý là như thế này, không phải hễ cứ tin là được cứu; mà hễ cứ không tin là bị luận phạt. Cũng không phải hễ cứ giúp đỡ ai là được chuộc, mà hễ cứ không giúp đỡ gì ai bao giờ là xuống địa ngục. Bởi tin hay không tin có nhiều mức độ khác nhau; đưa đến trách nhiệm và hậu quả khác nhau. Tin hay không tin cũng còn tùy thuộc vào môi trường và điều kiện của mỗi người. Một người sáng suốt lại có được đủ chứng cớ để tin, được nghe đủ những lời giảng dạy về Chúa, được có đủ mọi điều kiện để tin, mà vẫn cứng lòng không tin thì hậu quả của sự không tin trong trường hơp này chắc phải là trầm trọng. Ngược lại, một người không tin vì không biết, không được nghe mà cũng chẳng được học hỏi gì về Thiên Chúa; không có bất cứ một điều kiện hay cơ hội nào để tin; tội không tin trong trường hợp này chắc phải là tội ‘không phải là tội’.   Khi chúng ta thực thi đức ái cũng vậy. Một người giàu có ‘thí cho’ một người hành khất hôi hám ít tiền để nó đi cho khuất mắt thì sự giúp đỡ như vậy chắc chắn không có gì là giúp đỡ hết. Còn một người nghèo, nghèo đến không có lấy được một miếng mà ăn, thì dù cho người nghèo này có không cho ai chút gì bao giờ; nhất định là Thiên Chúa không bao giờ hỏi người nghèo này, sao ngươi không cho Ta ăn?       Thành ra hậu quả của sự tin hay không tin, thực thi hay không thực thi đức ái; trầm trọng hay sinh ơn ích nhiều ít như thế nào là tùy ở mức độ, hoàn cảnh, động lực, mục đích, ..., của mỗi một việc mà chúng ta làm để chứng tỏ đức tin hay đức mến của mình. Chỉ có Chúa mới xét đoán được.       Vậy thưa bạn, như thế là tôi vừa chia xẻ với bạn một ít tư tưởng về ơn cứu chuộc cho tất cả mọi người, Công Giáo cũng như ngoài Công Giáo, từ khi Chúa Giêsu sinh ra cho đến ngày tận thế. Ðiểm kế tiếp mà tôi muốn được chia xẻ với bạn là ơn cứu chuộc cho những người đã chết trước khi có ơn cứu độ.       Bạn thân mến, Phúc Âm Thánh Matthew, chương 8 câu 11, Chúa Giêsu phán: “Ta cho các ngươi biết, nhiều người sẽ đến từ đông và tây, họ sẽ ngồi cùng bàn với Abraham, Isaac, và Jacob tại buổi đại tiệc trong nước trời”  “I assure you that many will come from east and west and sit down with Abraham, Isaac, and Jacob at the feast in the kingdom of heaven.”       Bạn có thấy một điểm rất lạ trong lời phán dạy này của Chúa Giêsu không? Ðiểm rất lạ đó là ‘từ đông và tây’. Tại sao lại từ đông và tây mà không từ bắc chí nam? Xin bạn lật bản đồ. Bắc là ở trên, nam ở dưới, đông bên phải, và tây là bên trái, đúng không? Tấm bản đồ cho chúng ta một ý niệm rất sai, ý niệm rất sai đó là khi đi theo bất cứ theo phương hướng nào, chúng ta tưởng là mình đi trên mặt phẳng và theo đường thẳng. Sự thực và đúng là chúng ta đi theo, đi trên mặt của một trái cầu, mà nếu đi cho đúng hướng đông sang tây hay tây qua đông thì chúng ta phải đi trên một vòng tròn song song với các vĩ tuyến. Có ai không đồng ý không? Tôi hy vọng là không có ai. Vậy khi bạn đi từ cực bắc xuống đến cực nam, rồi nếu bạn tiếp tục đi cho trọn một vòng thì bạn bắt đầu đổi hướng, và bây giờ thì bạn đi từ nam lên bắc. Như thế là nếu đi theo hướng bắc nam rồi nam bắc thì bạn không bao giờ đi được một vòng tròn nguyên vẹn mà không đổi hướng. Có gì sai không? Nhưng nếu bạn đi từ đông sang tây hay từ tây qua đông thì hoàn toàn khác. Từ bắc chí nam có khởi điểm và tận điểm; hai điểm đó là cực bắc và cực nam; còn từ đông sang tây hay tây sang đông thì không có khởi điểm mà cũng không có tận điểm. Cho nên khi đi từ đông sang tây hay tây sang đông thì bạn có thể bắt đầu ở bất cứ chỗ nào, và nếu tiếp tục đi thì dù là bạn có đi bao nhiêu vòng, bạn cũng không bao giờ đổi hướng. Khi đi từ bắc xuống nam, rồi từ nam lên bắc thì mỗi lần đổi hướng là mỗi lần bạn bắt đầu lại một cuộc hành trình mới, còn đi từ đông sang tây hay tây qua đông, khi đã trọn một vòng rồi tiếp tục đi thì bạn vẫn đi tới, nhưng bạn lại đi trên vòng tròn mà bạn đã đi rồi, tức là bạn tiếp tục đi tới, nhưng bạn lại đi vào quá khứ. Ðấy!!! Cái điểm rất lạ là ở chỗ này. Nhưng người bạn thân yêu của tôi ơi, sự lạ lùng trong lời phán dạy này của Chúa Giêsu không quan trọng. Quan trọng là ở chỗ Chúa Giêsu cho chúng ta biết, những người được vào thiên đàng, những người được ngồi cùng bàn với Abraham, với Isaac, với Jacob mà dự đại tiệc trong nước trời là những người được quy tụ từ đông sang tây, và từ tây sang đông, không có khởi điểm mà cũng không có tận điểm (Thực ra thì khởi điểm và tận điểm là ở trong Chúa Giêsu, là Alpha và Omega); tức là họ được quy tụ từ khi có ơn cứu độ cho đến ngày tận thế mà còn tiếp tục đi tới, đi vào trong qua khứ cho đến ngày Ông Adong và Bà Evà được tạo dựng. Bạn thấy chưa, Thiên Chúa không bỏ một ai mà Người không cứu chuộc. Chính vì Người không bỏ một ai, kể cả những người đã chết trước khi có ơn cứu độ cho nên Hội Thánh Công Giáo mới dựa vào lời giảng dạy này của chúa Giêsu mà đặt Lời Nguyện Thánh Thể III :       Lạy Chúa, Chúa thật là Ðấng Thánh, và muôn vật Chúa đã tạo thành đều phải ca ngợi Chúa, vì nhờ Ðức Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con, do quyền năng tác động của Chúa Thánh Thần, Chúa ban sự sống và thánh hóa mọi loài, và không ngừng quy tụ một dân riêng, để từ đông sang tây họ dâng lên Chúa một hiến lễ tinh tuyền...       Bạn thấy chưa, do quyền năng và sự tác động của Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu Kitô không ngừng quy tụ cho Người một dân riêng, để từ đông sang tây, dân riêng này cũng không ngừng dâng lên Chúa một hiến lễ tinh tuyền. Hiến lễ tinh tuyền đây chính là Thánh Lễ là cuộc tử nạn của Chúa Giêsu trên đồi Canvê, là ơn cứu độ mà Người ban cho chúng ta. Ơn cứu độ mà Người ban cho chúng ta không bao giờ đổi hướng bắc nam rồi nam bắc. Ơn cứu độ mà Người ban cho chúng ta là ơn cứu độ trải dài từ đông và tây, không có khởi điểm mà cũng không có tận điểm. Vậy bạn còn thắc mắc gì về số phận của những người đã chết trước khi Chúa Giêsu chịu chết để ban ơn cứu chuộc cho mọi người nữa hay không? Tôi hy vọng là không. Nhưng để cho bạn đã tin lại còn tin hơn, xin bạn hãy cùng tôi suy niệm về điều này. Bạn có nhớ là ngay đêm Chúa Giêsu sinh ra thì chính Thiên Chúa Cha đã sai các thiên thần của Người mà công bố cho nhân loại như thế nào không? Thưa các thiên thần công bồ như thế này:  “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm.” Bình an này là bình an của Thiên Chúa. Người có được bình an Thiên Chúa là người thiện tâm. Người thiện tâm ở đâu? Thưa người thiện tâm ở dưới thế. Ở dưới thế có nghĩa là từ hang cùng ngõ hẻm cho đến cung vàng điện ngọc; từ thuở tạo thiên lập địa cho đến ngày tận thế; không chừa một người thiện tâm nào, không thiếu một chỗ nào, mà cũng không phải chỉ có một thời.       Tóm lại, Thiên Chúa không bị lệ thuộc vào thời gian; Người không đeo đồng hồ mà cũng không xài lịch. Cho nên Chúa Giêsu chịu chết là để cứu chuộc mọi người; từ thuở tạo thiên lập địa cho đến ngày tận thế, Người không bỏ một ai mà Người không cứu, không chuộc.        Bạn thân mến, tôi vừa chia xẻ với bạn ít tư tưởng về ơn cứu chuộc. Thực ra thì tôi vừa chia xẻ với bạn về sự cứu rỗi của những người không có điều kiện để biết Chúa; không có điều kiện để có thể trở thành công dân nước Chúa; không có điều kiện để được trở nên con cái Thiên Chúa qua phép rửa tội. Tôi cũng vừa chia xẻ với bạn về số phận của những người đã chết từ  Ông Adong và Bà Evà cho đến lúc có ơn cứu chuôc. Và sau cùng, tôi cũng đã chia xẻ với bạn về ơn cứu chuộc, tức là Chúa Giêsu cứu chúng ta như thế nào và Người chuộc chúng ta như thế nào.       Nhưng bạn có biết không, những gì mà tôi muốn chia xẻ với bạn về ơn cứu chuộc thì còn nhiều lắm. Rất tiếc là..., bạn có biết là gì không? Thưa là vì thư đã dài và tôi lại phải hẹn với bạn trong thư sau. Trong khi chờ đợi, xin bạn suy nghĩ về câu hỏi này:        Tại sao Thiên Chúa biết trước là con người sẽ sa ngã mà Người vẫn tạo dựng chúng ta để đến nỗi Con Một của Người phải chết, chết cách đau đớn; chết cách xấu hổ trần truồng trên cây Thánh Giá để cứu chuộc chúng ta?       Nhưng xin bạn đừng chỉ có suy nghĩ về câu hỏi này mà thôi mà còn phải cầu nguyện. Cầu nguyện rất nhiều vì chúng ta đang sống trong giai đoạn mà Satan được phép tung hoành.           Thân ái mến chào.   Giuse Phạm Văn Tuyến     Viết xong tại Charlotte ngày 4 tháng 10, 2012  



 

Tác giả: